Luận án Ảnh hưởng của lipid trong thức ăn chế bieensleen sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosian (Estampador, 1949)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Ảnh hưởng của lipid trong thức ăn chế bieensleen sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosian (Estampador, 1949)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Ảnh hưởng của lipid trong thức ăn chế bieensleen sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosian (Estampador, 1949)

giống vào cuối đợt ương. Thời điểm sử dụng thức ăn nhân tạo: Đợt khảo sát năm 2015 cho thấy số hộ bắt đầu sử dụng thức ăn nhân tạo cho ấu trùng cua ở các giai đoạn khác nhau, trong đó giai đoạn Z1 là 22%, Z2 là 12%, Z3 chiếm tỉ lệ cao nhất (32%), Z4 và Z5 chiếm tỉ lệ lần lượt là 13% và 21%. Tuy nhiên, các hộ được khảo sát năm 2020 bắt đầu cho ấu trùng cua ăn thức ăn nhân tạo từ giai đoạn Z1 (22%), Z3 (41%) và Z4 (37%) đến cuối đợt ương. Kết quả khảo sát 2 đợt cho thấy tỉ lệ các trại bắt đầu sử dụng thức ăn nhân tạo cho ấu trùng cua từ giai đoạn Z3 chiếm tỉ lệ cao hơn các giai đoạn khác. Kết quả này tương tự như các nghiên cứu trước ấu trùng cua được cho ăn thức ăn nhân tạo từ giai đoạn Z3 trở về sau là phù hợp nhất (Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt, 2017; Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải , 2018). Loại Artemia sử dụng: qua hai đợt khảo sát cho thấy không có hộ sử dụng trứng bào xác Artemia Vĩnh Châu làm nguồn thức ăn tươi sống cho ấu trùng cua biển trong suốt đợt ương do giá cao. Ngược lại, Artemia nhập nội (xuất xứ từ Mỹ, Trung Quốc và Nga) được hầu hết các chủ trại chọn sử dụng trong suốt đợt ương nuôi chiếm 71,5-73,0% do giá thấp và sử dụng kết hợp hai loại Artemia chiếm tỉ lệ 27,0 -28,5%. Theo ý kiến của chủ trại trứng Artemia Vĩnh Châu chỉ sử dụng giai đoạn đầu của ấu trùng cua (từ Z1 đến Z2) ở giai đoạn bung dù (sau 10-12 giờ ấp nở), sau đó chuyển sang sử dụng trứng bào xác Artemia nhập nội ở giai đoạn ấu trùng Artemia mới nở (sau 24 giờ ấp nở) cho các giai đoạn sau đến hết chu kỳ ương cua đảm bảo tỉ lệ sống cua thu được cao và giảm chi phí sản xuất. 76 Bảng 4.3: Thông tin chung về sử dụng thức ăn trong ương ấu trùng cua biển Diễn giải 2015 2020 Loại thức ăn sử dụng (% hộ): - Chỉ sử dụng thức ăn tươi sống (Artemia) 0 0 - Chỉ sử dụng thức ăn nhân tạo 0 0 - Sử dụng kết hợp hai loại thức ăn 100 100 Thời điểm bắt đầu sử dụng thức ăn nhân tạo (% hộ): - Từ giai đoạn zoea 1 22 22 - Từ giai đoạn zoea 2 12 - Từ giai đoạn zoea 3 32 41 - Từ giai đoạn zoea 4 13 37 - Từ giai đoạn Zoea 5 21 Loại Artemia sử dụng (%): - Chỉ sử dụng Artemia Vĩnh Châu 0 0 - Chỉ sử dụng Artemia nhập nội 71,5 73,0 - Sử dụng kết hợp hai loại Artemia 28,5 27,0 Loại thức ăn nhân tạo (sử dụng cho ấu trùng tôm, % hộ)*: - Thức ăn Inve, Thái Lan 100 100 - Thức ăn V8, Thái Lan 45 40 *Thống kê nhiều lựa chọn Loại thức ăn nhân tạo sử dụng: Kết quả khảo sát năm 2015 và 2020 các chủ trại cho biết chưa có loại thức ăn nhân tạo chuyên dùng cho ấu trùng cua biển. Trên thị trường có hai loại thức ăn nhân tạo chất lượng cao dùng cho ấu trùng tôm được các hộ sử dụng làm thức ăn cho ấu trùng cua biển gồm thức ăn Inve do Thái Lan sản xuất và thức ăn V8 được sản xuất từ Thái Lan do công ty Diên Khánh cung cấp, trong đó 100% các trại sử dụng thức ăn Inve và 40-45% các trại sử dụng thức ăn V8. 77 Bảng 4.4: Số lượng và số lần cho ăn thức ăn trong ương ấu trùng cua biển Diễn giải Năm 2015 Năm 2020 TB ± ĐLC Nhỏ nhất – lớn nhất TB ± ĐLC Nhỏ nhất – lớn nhất Lượng thức ăn cho ăn (g/m3/ngày) - Artemia 12,5±5,2 3,7-28 4,9±2,7 2-14 - Thức ăn nhân tạo 3,9±3,1 0,7-16 7,1±1,6 5-12 Số lần cho ăn Artemia (lần/ngày) - Từ zoae 1 đến megalopa 4,5±1,4 2-8 3,6±1,0 2-6 - Từ megalopa đến cua 1 3,5±2,2 0-6 1,8±0,4 1-2 Số lần cho ăn thức ăn nhân tạo (lần/ngày) - Từ zoae 1 đến megalopa 2,3±1,1 0-4 2,5±0,7 1- 4 - Từ megalopa đến cua 1 3,9±2,6 0-8 3,7±0,6 2-5 Ước tính tỷ lệ sử dụng Artemia (%) - Từ zoea 1 đến megalopa 75% 70% - Từ megalopa đến cua 1 50% 30% Số lượng và số lần cho ăn thức ăn trong ương ấu trùng cua biển được trình bày trong Bảng 4.4. Đợt khảo sát năm 2015, lượng Artemia và thức ăn nhân tạo sử dụng lần lượt là 3,7-28 và 0,7-16 g/m3/ngày, trung bình là 12,5 và 3,9 g/m3/ngày. Đợt khảo sát 2020, lượng Artemia sử dụng từ 2-14 g/m3/ngày, trung bình 4,9 và 7,1 g/m3/ngày, theo thứ tự. Kết quả cho thấy lượng Artemia trung bình sử dụng làm nguồn thức ăn tươi sống năm 2020 giảm hơn một nửa và lượng thức ăn nhân tạo sử dụng tăng hơn gấp đôi so với năm 2015. Theo thông tin của các chủ trại cho biết do Artemia có giá cao hơn nhiều so với thức ăn nhân tạo nên giảm sử dụng Artemia để giảm chi phí thức ăn. Số lần cho ăn Artemia từ Z1 đến megalopa trung bình năm 2015 là 4,5 lần/ngày và năm 2020 là 3,6 lần/ngày. Từ megalopa đến cua 1 trung bình năm 2015 là 3,5 lần/ngày và năm 2020 là 1,8 lần/ngày. Số lần cho ăn thức ăn nhân tạo từ Z1 đến megalopa trung bình năm 2015 là 2,3 lần/ngày và năm 2020 là 2,5 lần/ngày. Từ megalopa đến cua 1 trung bình năm 2015 là 3,9 lần/ngày và năm 2020 là 3,7 lần/ngày. Kết quả khảo sát về khía cạnh kỹ thuật sản xuất giống cua biển ở Đồng bằng sông Cửu Long của Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2009) cho thấy lượng Artemia sử dụng làm thức ăn tươi sống trung bình 5,8 g/m3/ngày, dao 78 động từ 2-10 g với số lần cho ăn từ 2-8 lần/ngày, thức ăn nhân tạo sử dụng rất ít trung bình 0,07±0,26 g/m3/ngày và số lần cho ăn 0,18 ± 0,67 lần. Hai đợt khảo sát vào năm 2015 và 2020 trong nghiên cứu này cho thấy các hộ sử dụng thức ăn nhân tạo trong ương ấu trùng cua nhiều hơn so với những năm trước đó (khảo sát của Trần Hải và Nguyễn Thanh Phương 2009) . Từ kết quả khảo sát năm 2015 cho thấy Artemia được sử dụng 3-4 lần/ngày với lượng trung bình 12,5 g/m3/ngày (1 gram trứng bào xác Artemia với tỉ lệ nở trung bình 80% thu được lượng ấu trùng Artemia khoảng 180.000 con/g) được tính toán khoảng 0,5-0,7 ấu trùng/mL/lần cho ăn. Tương tự, thức ăn nhân tạo sử dụng 2-3 lần/ngày với khoảng 4-8 g/m3/ngày được tính toán trung bình cho 3 lần sử dụng trong ngày được ước tính khoảng1,5-2 g/m3/lần. Kết quả này được ứng dụng vào chế độ cho ăn trong các thí nghiệm ương ấu trùng cua biển. Nghiên cứu thay thế Artemia bằng thức ăn chế biến (Lansy PL, protein 48%) trong ương ấu trùng cua biển từ zoea 1 đến cua 1 của Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt (2017), đạt tỷ lệ sống tốt nhất (7,8%) khi kết hợp 3 lần thức ăn chế biến/ngày và 5 lần Artemia/ngày. Nghiên cứu Lê Quốc Việt (2019) tìm hiểu ảnh hưởng của số lần cho ăn (4, 6 và 8 lần/ngày) trong ương ấu trùng cua biển từ zoea 1 đến cua 1 sử dụng thức ăn Artemia kết hợp với thức ăn nhân tạo (Lansy PL, Inve). Kết quả tỷ lệ sống cua 1 thu được lần lượt là 2,8%, 3,0% và 2,6%. Kết quả khảo sát của Trần Ngọc Hải và ctv. (2009) về sản xuất giống cua biển, tỷ lệ sống bình quân 7,68±1,55 đến giai đoạn cua 1. Trong phạm vi khảo sát của đề tài trại ương cua giống từ giai đoạn zoea 1 đến megalopa xuất bán đạt tỷ lệ sống 9,56±2,68%; trại sản xuất giống cua chọn phương án ương đến cua 1 bán đạt tỷ lệ sống bình quân 5,46±1,97 khi đối sánh với kết quả tỷ lệ sống trong các nghiên cứu trong nước thì tỷ lệ sống cũng nằm trong khoảng 4-10% (Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải, 2016; Trần Ngọc Hải và Lê quốc Việt 2017a, b; Trần Minh Nhứt và ctv., 2010). 79 4.1.3.2 Thông tin chi tiết về thức ăn nhân tạo Bảng 4.5 cho thấy thức ăn Inve gồm: Frippak #2car, Frippak utra PL 150 và Lansy shrimp PL có kích cỡ hạt thức ăn trung bình lần lượt là 125 µm, 150 µm và 500 µm. Thức ăn V8 gồm V8No2 và V8No3 với kích cỡ viên thức ăn từ 50- 100 µm và 150-250 µm, theo thứ tự. Hàm lượng protein của ba loại thức ăn Inve (Frippak fresh #2car, Frippak ultra PL150 và Lansy Shrimp PL) dao động từ 42-52% và lipid từ 7 đến 14,2%, hai loại thức ăn V8 (V8 No2 và V8No3) có hàm lượng protein là 45% và lipid là 8%. Bảng 4.5: Thông tin các loại thức ăn thương mại được sử dụng ương ấu trùng cua Thức ăn cho ấu trùng tôm (Inve, Thái Lan) Thức ăn tôm giống (V8, Thái Lan) Frippak fresh #2car Frippak ultra PL150 Lansy Shrimp PL V8No2 V8No3 Kích cỡ viên thức ăn 125 µm 150 µm 500 µm (275-780 µm) 50-100 µm 150-250 µm Protein (%) 52 42 48 45 45 Lipid (%) 14,2 7 9 8 8 Giá thức ăn (ngàn đ/kg) 1.350 920 400 560 540 Giai đoạn sử dụng zoea 1, zoea 2 zoea 3, zoea 4 zoea 5, megalopa, cua 1 zoea 1, zoea 2 zoea 3, zoea 4 Giá thức ăn nhân tạo khá cao, trong đó thức ăn Inve có giá dao động từ 400 ngàn đến 1,35 triệu đ/kg, trong đó giá cao nhất là Frippak fresh #2car, hai loại thức ăn V8 có giá 540-560 ngàn đồng/kg. Qua hai đợt khảo sát, các chủ trại cho biết thường sử dụng kết hợp hai loại thức ăn nhân tạo tùy theo giai đoạn ấu trùng. Cụ thể giai đoạn Z1 và Z2 các trại thường sử dụng thức ăn Frippak fresh #2car và V8No2 vì kích cỡ thức ăn phù hợp, giai đoạn Z3 và Z4 sử dụng kết hợp V8No2+V8No3 hoặc Frippak ultra PL150+V8No3 đến hết giai đoạn Z4. Lansy Shrimp PL thường được sử dụng từ giai Z5 đến megalopa và cua 1. Qua hai đợt quả khảo sát năm 2015 và năm 2020 cho thấy loại thức ăn sử dụng ương ấu trùng cua biển chủ yếu được các trại giống sử dụng là loại thức ăn 80 dùng cho sản xuất giống tôm sú và tôm thẻ giống sẵn có trên thị trường (thức ăn Inve và V8). Các loại thức ăn này có hàm lượng protein và lipid có thể chưa phù hợp cho tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển. Nghiên cứu trước báo cáo rằng chất dinh dưỡng trong thức ăn, trong đó protein và lipid là hai thành phần chính ảnh hưởng rất lớn đến sự biến thái, tỷ lệ sống và tăng trưởng của các loài giáp xác, và nhu cầu dinh dưỡng khác nhau theo loài và thay đổi theo giai đoạn phát triển, giai đoạn ấu trùng có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn so với giai đoạn giống, tiền trưởng thành và trưởng thành (Jones, 1998; Teshima et al., 2000). Theo Mente (2006), protein là thành phần tối quan trọng trong khẩu phần ăn của giáp xác liên quan đến chi phí thức ăn và tăng trưởng trong ương và nuôi. Nhu cầu protein ở giáp xác cao hơn so với cá, đối với tôm biển và tôm hùm thức ăn có hàm lượng protein thích hợp 30-50%, tùy giai đoạn và tính ăn của loài, một số loài giáp xác khác như cua biển ở giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng cần thức ăn đến 60% protein. Theo Sheen and Wu (1999), nhu cầu lipid của cua biển giai đoạn giống trong thức ăn dao động từ 5,3% đến 13,8%, thức ăn thiếu lipid dẫn đến giảm tăng trưởng và giảm tần suất lột xác của giáp xác, tuy nhiên nếu thức ăn quá thừa lipid dẫn đến sự tích lũy lipid trong gan tụy cao làm giảm khả năng trao đổi chất và ảnh hưởng đến tăng trưởng của chúng. Như vậy, trong thực tế ương nuôi ấu trùng cua biển các hộ sản xuất sử dụng thức ăn nhân tạo sẵn có trên thị trường chuyên dùng cho tôm biển có thể chưa đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt là lipid cho ấu trùng cua biển, kích cỡ viên thức ăn. Thêm nữa trong thực tế sản xuất, ương ấu trùng cua biển chủ yếu phụ thuộc vào việc sử dụng Artemia là chính để bù vào chất lượng thức ăn nhân tạo chưa đáp ứng tối ưu về dinh dưỡng cho sự tăng trưởng và tỷ lệ sống ấu trùng cua. Vì thế, ương cua biển ở giai đoạn zoea 5 chuyển qua megalopa thường xảy ra hiện tượng bị bẫy lột xác (lột xác không thành công sang megalopa) megalopa thường bị dị hình hoặc dính vỏ hao hụt nhiều. Theo nghiên cứu của (Holme et al., 2009), hiện tượng bẫy lột xác biểu thị ấu trùng cua biển được cho ăn thức ăn 81 thiếu dinh dưỡng hoặc không cân bằng dinh dưỡng đặc biệt là lipid và thành phần lipid trong thức ăn. Thông tin từ các nghiên cứu trước và kết quả khảo sát thực tế hiện các trại sản xuất giống cua sử dụng thức ăn ương tôm, chưa có thức ăn chuyên dùng cho ương cua biển vì vậy nghiên cứu phát triển thức ăn chế biến phù hợp nhu cầu dinh dưỡng cho ấu trùng cua biển nhằm giảm phụ thuộc vào sử dụng Artemia là rất cần thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất giống cua biển ở Việt Nam. 4.1.4 Chi phí sản xuất sản xuất cua giống Cơ cấu chi phí sản xuất giống cua biển năm 2015 (Hình 4.1) cho cho thấy chi phí thức ăn Artemia chiếm tỉ lệ cao nhất (75%) và chi phí thức ăn nhân tạo chỉ chiếm 3%. Điều này cho thấy đa số cơ sở sản xuất cua giống phụ thuộc rất nhiều vào thức ăn là Artemia. Chi phí nước mặn chiếm 15% và các chi phí khác chiếm từ 1 đến 4%. Hình 4.1: Cơ cấu chi phí sản xuất giống cua biển năm 2015 Năm 2020 khi thực hiện điều tra nhằm cập nhật lại tình hình sản xuất giống và sử dụng thức ăn cua biển cho thấy có sự thay đổi về cơ cấu chi phí sản xuất liên quan đến sử dụng thức ăn (Hình 4.2). Thức ăn tươi sống (Artemia) 75% Chi phí khác 2% Điện 1% Cua mẹ 4% Nước mặn 15% Thức ăn nhân tạo 3% Cơ cấu chi phí sản xuất năm 2015 82 Hình 4.2: cơ cấu giá thành sản xuất giống cua biển năm 2020 Chi phí chiếm cao nhất 61% là Artemia, chi phí thức ăn nhân tạo chiếm 12%. Khi so với năm 2015, tỉ lệ chi phí Artemia giảm và tỉ lệ thức ăn nhân tạo tăng, điều này biểu cơ sở sản xuất giống cua có xu hướng giảm sử dụng Artemia và tăng sử dụng thức ăn chế biến đáng kể, tuy nhiên tỉ lệ chi phí Artemia vẫn còn cao. Điều đó cho thấy đa số cơ sở sản xuất cua giống vẫn còn sử dụng Artemia làm thức ăn ương ấu trùng cua biển là chính, có thể do sử dụng thức ăn nhân tạo chuyên dùng cho tôm biển không phù hợp dinh dưỡng cho ấu trùng cua biển, nên hiệu quả tỷ lệ sống chưa được cải thiện nên các hộ sản xuất vẫn chọn thức ăn ương ấu trùng cua biển là Artemia. Qua hai đợt khảo sát năm 2015 và năm 2020 cho thấy hiện trạng sử dụng thức ăn trong ương nuôi ấu trùng cua biển là sử dụng Artemia làm thức ăn tươi sống kết hợp với thức ăn nhân tạo. Đặc biệt hiện nay chưa có loại thức ăn chế biến trên thị trường dành riêng cho ương ấu trùng cua biển nên các trại sử dụng thức ăn nhân tạo chuyên dùng cho ấu trùng tôm biển sẵn có trên thị trường làm thức ăn cho ấu trùng cua có thể không phù hợp dẫn đến năng suất thấp. Thêm vào đó, về cơ cấu chi phí sản xuất giống cua, trong đó chi phí Artemia chiếm tỉ lệ Thức ăn tươi sống (Artemia) 61% Chi phí khác 6% Điện 4% Cua mẹ 12% Nước mặn 5% Thức ăn nhân tạo 12% Cơ cấu chi phí sản xuất năm 2020 83 cao nhất (61-75%), điều này có thể làm giảm lợi nhuận cho các đợt ương nuôi thành công. Vì vậy, nghiên cứu phát triển thức ăn chế biến phù hợp dinh dưỡng trong ương ấu trùng cua biển cần được thực hiện nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất giống cua biển ở ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung. 4.2. Nội dung 2: Kết quả ảnh hưởng của việc bổ sung lipid vào thức ăn chế biến ương ấu trùng cua biển từ giai đoạn zoea 3 đến cua 1 4.2.1 Kết quả ảnh hưởng của hàm lượng lipid khác nhau trong thức ăn chế biến khi ương ấu trùng cua biển từ giai đoạn zoea 3 đến cua 1 4.2.1.1 Thí nghiệm 1: Kết quả ảnh hưởng của hàm lượng lipid trong thức ăn chế biến khi ấu trùng cua biển từ zoea 3 đến megalopa a. Các yếu tố môi trường Bảng 4.6 cho thấy trong thời gian thí nghiệm, nhiệt độ và pH nước trong ngày ít biến động với giá trị trung bình lần lượt là 27,7–29,6oC và 8,4–8,6. Hàm lượng TAN (NH4+/NH3) dao động trung bình 0,75 – 0,82 mg/L và hàm lượng NO2- ở tất cả các bể nuôi rất thấp với trung bình trong khoảng 0,01 – 0,03 mg/L Bảng 4.6: Các yếu tố môi trường trong bể nuôi từ zoea 3 đến megalopa Nghiệm thức Nhiệt độ (oC) pH TAN (mg/L) NO2- (mg/L) 7 h 14 h 7 h 14 h 6% lipid 27,7±0,1 29,4±0,2 8,4±0,2 8,5±0,2 0,81±0,14 0,03±0,01 8% lipid 27,7±0,2 29,4±0,3 8,5±0,1 8,6±0,2 0,75±0,12 0,02±0,02 10% lipid 27,8±0,1 29,6±0,1 8,5± 0,1 8,6±0,1 0,76±0,15 0,03±0,01 12% lipid 27,9±0,2 29,6±0,1 8,4±0,2 8,5±0,1 0,77±0,17 0,02±0,01 14% lipid 27,8±0,2 29,4±0,2 8,3±0,1 8,5±0,1 0,82±0,18 0,03±0,02 Thí nghiệm được bố trí trong trại, các yếu tố môi trường giữa các nghiệm thức thức ăn không chênh lệch nhau nhiều và nằm trong giới hạn thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng cua biển (Trần Ngọc Hải và ctv., 2017). Nên các yếu tố môi trường đảm bảo cho sinh trưởng và phát triển ấu trùng cua biển. 84 b. Sự biến thái, tăng trưởng và tỷ lệ sống ấu trùng cua biển Sự biến thái của ấu trùng Bảng 4.7 cho thấy thức ăn chế biến có hàm lượng lipid khác nhau đã ảnh hưởng nhiều đến chỉ số biến thái (LSI) của ấu trùng cua. Bảng 4.7: Ảnh hưởng của hàm lượng lipid khác nhau lên chỉ số biến thái (LSI) của ấu trùng từ giai đoạn zoea 3 đến zoea 5 Nghiệm thức (% lipid) 3 ngày 6 ngày 6% 3,67±0,74a 4,58±0,63a 8% 3,75±1,3a 4,62±0,63ab 10% 3,85±0,7b 4,80±0,70c 12% 3,95±0,63c 4,96±0,51d 14% 3,72±0,67a 4,66±0,70b Giá trị trong cùng một cột có các ký tự khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) LSI có khuynh hướng tăng cùng với sự tăng hàm lượng lipid trong thức ăn từ 6% đến 12% và có khuynh hướng giảm ở mức lipid 14%, được tìm thấy ở cả hai giai đoạn zoea 3- zoea 4 và zoea 4 - zoea 5. Kết quả thống kê biểu thị ở nghiệm thức 12% lipid thì ấu trùng có LSI cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại sau 3 ngày và 6 ngày ương. Nghiệm thức thức ăn có mức lipid 6% có chỉ số biến thái thấp nhất và không khác biệt thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức 8% và 14% lipid ở giai đoạn zoea 3 – zoea 4, tuy nhiên khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với nghiệm thức có 14% lipid ở giai đoạn zoea 4 – zoea 5. Kết quả thí nghiệm cho thấy khi ấu trùng cua biển được cho ăn thức ăn chứa 12% lipid cho kết quả tốt nhất về chỉ số biến thái. Nghiên cứu của Hoàng Đức Đạt (2004) xác định chỉ số biến thái của ấu trùng ở giai đoạn zoea 3-zoea 4 và zoea 4-zoea 5 lần lượt là 3,75 và 4,30. Kết quả nghiên cứu của Trần Ngọc Hải và Lê Quốc Việt (2017a) về thay thế Artemia bằng thức ăn tổng hợp trong ương nuôi ấu trùng cua biển, S. paramamosain, chỉ số biến thái trung bình của ấu trùng cua sau 3 ngày ương là 1,75-1,87 và sau 6 ngày ương có LSI trung bình là 2,8-3,0. So với kết quả nghiên cứu của hai nhóm 85 tác giả trên thì ấu trùng cua biển trong thí nghiệm có chỉ số biến thái cao hơn khi sử dụng thức ăn chứa 12% lipid. Kết quả này cho thấy thức ăn chứa hàm lượng 12% lipid là mức lipid thích hợp cho ấu trùng cua biển giúp ấu trùng giai đoạn zoea hấp thụ tốt hơn, phát triển đồng đều và lột xác nhanh hơn. Kích thước của ấu trùng Tương tự với kết quả chỉ số biến thái, chiều dài và khối lượng của ấu trùng cua từ zoea 4 đến megalop có xu hướng tăng dần với sự gia tăng của hàm lượng lipid trong thức ăn từ 6% đến 12% và giảm ở mức lipid 14% được trình bày trong Bảng 4.8. Bảng 4.8: Ảnh hưởng của hàm lượng lipid khác nhau lên chiều dài và khối lượng của ấu trùng cua từ zoea 3 đến megalopa Nghiệm thức (% lipid) Chiều dài (mm) khối lượng megalopa (mg) Zoea 3* Zoea 4 Zoea 5 Megalopa 6% 0,72±0,06 1,19±0,03a 1,53±0,01a 2,08±0,1a 3,23±0,23a 8% 0,72±0,06 1,20±0,04b 1,61±0,03b 2,21±0,09b 3,26±0,23a 10% 0,72±0,06 1,25±0,01c 1,68±0,03c 2,28±0,09c 3,34±0,24b 12% 0,72±0,06 1,26±0,02cd 1,72±0,01d 2,37±0,11d 3,44±0,23b 14% 0,72±0,06 1,23±0,02d 1,62±0,03b 2,18±0,09b 3,40±0,27b *: Bố trí thí nghiệm từ giai đoạn zoea 3 Giá trị trong cùng một cột có các ký tự khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Ấu trùng cua ở nghiệm thức 12% lipid đạt chiều dài tốt nhất và khác biệt thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức khác, tuy nhiên ở giai đoạn zoea 4 sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa nghiệm thức 12% và 14% lipid. Ngoài ra, chiều dài cua ở giai đoạn zoea 5 và megalop không khác nhau về mặt thống kê (p>0,05) giữa nghiệm thức 8% lipid và 14% lipid (Bảng 4.9). Khối lượng của megalopa ở các nghiệm thức thức ăn chứa hàm lượng lipid từ 10%, 12% và 14% tương tự nhau (p>0,05) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0.05) so với nghiệm thức 6% và 8% lipid trong thức ăn. Khối lượng megalopa giữa nghiệm thức 6% và 8% lipid không khác nhau về mặt thống kê (p>0,05). 86 Kết quả về khối lượng và chiều dài của megalopa cho thấy thức ăn chứa 12% lipid thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng cua biển. Ngược lại, thức ăn chứa hàm lượng lipid thấp nhất trong thí nghiệm (6%) đều cho kết quả thấp nhất về khối lượng và chiều dài của ấu trùng cua biển từ giai đoạn zoae 4 đến megalopa. Tỷ lệ sống của ấu trùng Tỷ lệ sống của ấu trùng cua ở giai đoạn zoea 5 đạt từ 52,8% đến 81,6% và giai đoạn megalopa từ 5,45%
File đính kèm:
luan_an_anh_huong_cua_lipid_trong_thuc_an_che_bieensleen_sin.pdf
1. BIA LUAN AN 23.3.21-converted.pdf
INFORMATION OF RESEARCH RESULTS 26052021.docx
INFORMATION OF RESEARCH RESULTS 26052021-converted.pdf
LUAN AN CO SO (NGUYEN - CAM KET MUC LUC)26.5.pdf
Tom Tat Luan an NCS-Nguyen - 26052021-final-đồ thị- test-converted.pdf
TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN (TIẾNG VIỆT) 26052021.docx