Luận án Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi lợn đến chất lượng phúc lợi động vật và năng suất chăn nuôi ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi lợn đến chất lượng phúc lợi động vật và năng suất chăn nuôi ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi lợn đến chất lượng phúc lợi động vật và năng suất chăn nuôi ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng

ày cho thấy, không có mối liên hệ giữa quy mô với tỷ lệ của lợn bị viêm bao khớp, tổn thƣơng bờ vai với các quy mô (P> 0,05). Tỷ lệ lợn nái ở 4 quy mô bị viêm bao khớp điểm 2 (từ 0,4-1,82%) và tổn thƣơng bờ vai nặng với mức điểm 2 (từ 0,4-1,72%) chiếm tỷ lệ thấp (Bảng 4.3). Thở dốc là chỉ tiêu để đánh giá điều kiện tiểu khí hậu chuồng nuôi. Theo tiêu chuẩn đánh giá Chất lƣợng Phúc lợi®2009, những lợn nái thở trên 28 lần/phút thì đƣợc cho là thở dốc và thƣờng gặp khi nhiệt độ chuồng nuôi 55 cao, thiết kế chuồng nuôi và hệ thống làm mát chƣa đáp ứng yêu cầu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự khác biệt đáng kể trong chỉ tiêu thở dốc của lợn nái ở các quy mô chăn nuôi khác nhau. Những lợn nái nuôi trong quy mô nhỏ nuôi chuồng tỷ lệ thở dốc cao (52,59%) cao hơn ở lợn nái nuôi trong các quy mô nhỏ nuôi cũi, quy mô vừa và lớn (lần lƣợt là 30,30%; 31,58% và 24,62%) (Bảng 4.3). Chỉ số OR cho thấy không có sự ảnh hƣởng của quy mô nhỏ nuôi chuồng và nhỏ nuôi cũi với tỷ lệ lợn nái thở dốc (OR= 0,64; 95%CI: 0,16- 2,50) nhƣng tỷ lệ lợn nái thở dốc của quy mô nhỏ nuôi chuồng nhiều hơn 85% quy mô vừa (OR= 0,15; 95%CI: 0,029-0,7) và 99,6% so với quy mô lớn (OR=0,04; 95%CI: 0,01- 0,125) (Bảng 4.4). Zulovich (2012) cho rằng khoảng nhiệt độ thích hợp ở lợn nái mang thai từ 10oC đến 20oC. Tuy nhiên, mùa hè ở Việt Nam nhiệt độ trong nhà dao động từ 28 C đến 35°C, lợn ở trại quy mô nhỏ nuôi chuồng với hệ thống hở có nhiệt độ môi trƣờng rất nóng gây tỷ lệ thở dốc cao, ảnh hƣởng đến phúc lợi của lợn nái. Đây là một thách thức lớn đối với các trại quy mô nhỏ nuôi chuồng và cần có hệ thống làm mát phù hợp để giảm nhiệt độ trong chuồng khi nhiệt độ ngoài trời cao. Bảng 4.5. Mối liên hệ giữa quy mô và các chỉ tiêu đánh giá phúc lợi về sức khỏe Chỉ tiêu Điểm Quy mô P Nhỏ Vừa (n=247) Lớn (n=597) Nuôi chuồng (n=116) Nuôi cũi (n= 165) Què 0 97,41 99,39 100 98,32 0,10 1 2.59 0,61 0,00 1,68 2 0,00 0,00 0,00 0,00 Vết thƣơng cơ thể 0 88,79 82,42 71,26 70,85 <0,001 1 11,21 15,76 26,32 25,63 2 0,00 1,82 2,43 3,52 Ho 0 99,14 100 100 99,83 0,28 1 0,86 0,00 0,00 0,17 2 0,00 0,00 0,00 0,00 Viêm da 0 78,45 90,91 80,16 90,45 <0,001 1 17,24 8,48 13,77 8,04 2 4,31 0,61 6,07 1,51 Viêm cục bộ 0 93,10 93,94 87,85 95,31 <0,001 1 6,90 2,42 9,72 4,52 2 0,00 3,64 2,43 0,17 56 Kết quả đánh giá mối liên hệ giữa quy mô chăn nuôi và các chỉ tiêu đánh giá phúc lợi về mặt sức khỏe cho thấy quy mô có mối liên hệ đến các chỉ tiêu nhƣ vết thuơng cơ thể, viêm da, viêm cục bộ (P<0,001) (Bảng 4.5). Tuy nhiên, chỉ số OR cho thấy quy mô chỉ ảnh hƣởng đến tỷ lệ vết thƣơng trên cơ thể ở lợn. Cụ thể, OR của điểm vết thƣơng trên cơ thể bằng 0 của quy mô nhỏ nuôi chuồng không có sự khác nhau so với quy mô nhỏ nuôi cũi (OR= 1,67; 95%CI: 0,54-5,15) và quy mô vừa (OR=3,17; 95%CI:0,84-12) nhƣng nhiều hơn quy mô lớn là 3,36 (95% CI; 1-11,35) (Bảng 4.6). Điều này có nghĩa là lợn nái nuôi trong chuồng có tỷ lệ vết thƣơng trên cơ thể thấp hơn 3,36 lần so với lợn nuôi ở quy mô lớn. Trên thực tế, lợn nái đƣợc nuôi trong quy mô nhỏ nuôi chuồng có diện tích rộng, một nái trong 1 chuồng nên khả năng bị tổn thƣơng trên cơ thể rất ít. Trái lại, lợn nuôi trong cũi chật hẹp, thƣờng bị các thanh cũi cọ xát gây tổn thƣơng, đôi khi còn bị những con bên cạnh chuồng tấn công. Bảng 4.6. Ảnh hƣởng của quy mô đến các chỉ tiêu đánh giá phúc lợi về sức khỏe Chỉ tiêu Quy mô Nhỏ Vừa Lớn Nuôi chuồng (n=116) Nuôi cũi (n= 165) (n=247) (n=597) Vết thƣơng cơ thể OR 1 1,67 3,17 3,36 95%CI - 0,54 - 5,15 0,84 - 12 1 - 11,35 Viêm da OR 1 0,36 0,925 0,38 95%CI - 0,13 - 1,01 0,37 - 2,34 0,11 - 1,41 Viêm cục bộ OR 1 0,83 1,83 0,70 95%CI - 0,27 - 2,56 0,50 - 6,65 0,26 - 1,9 Ghi chú: OR thể hiện chỉ số chênh giữa tỷ lệ điểm 0 của các chỉ tiêu đánh giá ở quy mô nhỏ nuôi chuồng so với tỷ lệ điểm 0 ở quy mô nhỏ nuôi cũi; quy mô vừa và quy mô lớn. Kết quả đánh giá cho biết có mối liên hệ giữa quy mô chăn nuôi với các tiêu chí đánh giá tập tính nhƣ mối quan hệ với ngƣời và các tập tính rập khuôn (nhai bã trầu, uốn lƣỡi, cắn chuồng, cắn núm uống) (P<0,001) (Bảng 4.7). Điều này đƣợc thể hiện rõ hơn ở bảng 4.8 với chỉ số OR của từng chỉ tiêu đánh giá. Một trong những tiêu chí Chất lƣợng Phúc lợi® 2009 sử dụng để đánh giá phúc lợi cho động vật nông nghiệp chính là mối quan hệ của ngƣời chăn nuôi với con vật. Phản ứng chủ yếu của động vật nông nghiệp với ngƣời chăn nuôi là sự 57 sợ hãi. Các phản ứng sợ hãi là phản ứng tức thời mà động vật cho thấy những kích thích nguy hiểm tiềm tàng trong môi trƣờng sống của chúng (Andersen et al., 2006). Lợn nái ở các hệ thống chuồng trại quy mô vừa và lớn cho thấy tỷ lệ sợ ngƣời cao (lần lƣợt là 47,37% và 84,25% số lợn nái với điểm 2), cao hơn đáng kể so với các quy mô nhỏ nuôi chuồng là 6,9% và 38,18% ở quy mô nhỏ nuôi cũi (P <0,05) (Bảng 4.7). Điều này cũng đƣợc khẳng định bởi chỉ số OR điểm 0 (thân thiện với ngƣời) của quy mô nhỏ nuôi chuồng cao hơn quy mô nhỏ nuôi cũi là 2,52 lần (95%CI: 1,13-5,61), với quy mô vừa là 3,70 (95%CI:1,34-10,23), đặc biệt cao hơn rất nhiều quy mô lớn là 21,15 (95%CI: 4,49-99,54) (Bảng 4.8). Tại các trang trại quy mô nhỏ, lợn nái thƣờng xuyên tiếp xúc với ngƣời chăn nuôi, chủ hộ là ngƣời trực tiếp chăm sóc, nuôi dƣỡng dẫn đến mối quan hệ giữa ngƣời và động vật tốt, mức độ thân thiện với ngƣời cao chiếm tỷ lệ 68,97% ở quy mô nhỏ nuôi chuồng và 50,30% ở quy mô nhỏ nuôi cũi. Trái lại, ở những quy mô vừa và lớn, do mật độ chăn nuôi cao, chuồng trại chật hẹp, lợn nái không có khả năng phòng vệ nên lợn nái thƣờng có biểu hiện sợ hãi khi tiếp xúc với ngƣời lạ và ngƣời chăn nuôi. Ở nhiều trang trại quy mô lớn, lợn nái cũng buộc phải động dục sau khi cai sữa bằng các biện pháp can thiệp bạo lực nhƣ bắt ép di chuyển, vận động, đánh lợn... gây ra sự sợ hãi của lợn nái đối với con ngƣời. Bảng 4.7. Mối liên hệ giữa quy mô và các chỉ tiêu đánh giá phúc lợi về tập tính Chỉ tiêu Điểm Quy mô Quy mô vừa Quy mô lớn P Nhỏ Vừa Lớn Nuôi chuồng (n=116) Nuôi cũi (n= 165) (n=247) (n=597) Mối quan hệ với ngƣời 0 68,97 50,30 41,70 15,41 <,0001 1 24,14 11,52 10,93 0,34 2 6,9 38,18 47,37 84,25 Nhai bã trầu 0 83,62 73,33 63,97 61,98 <,0001 2 16,38 26,67 36,03 38,02 Uốn lƣỡi 0 94,83 72,12 82,19 89,78 <,0001 2 5,17 27,88 17,81 10,22 Cắn chuồng 0 - 76,36 64,37 85,43 <,0001 2 - 23,64 35,63 14,57 Căn núm uống 0 - 76,97 65,99 86,66 <,0001 2 - 23,03 34,01 13,34 58 Tập tính rập khuôn là những tập tính bất thƣờng khi lợn nái không thích ứng với những thay đổi của môi trƣờng. Tập tính rập khuôn thƣờng đƣợc thể hiện bởi lợn nái nuôi trong các cũi mang thai bao gồm các tập tính nhai bã trầu, uốn lƣỡi, cắn thanh chuồng, cắn núm uống (Jansen et al., 2007; Vieuille-Thomas et al., 1995). Kết quả đánh giá cho thấy có mối liên hệ giữa các quy mô chăn nuôi với tỷ lệ thể hiện các tập tính rập khuôn (P<0,05), ảnh hƣởng cụ thể đƣợc thể hiện qua bảng 4.8. Chỉ số OR lợn không thể hiện tập tính nhai bã trầu của quy mô nhỏ nuôi chuồng cao hơn 2,47 lần so với lợn nuôi trong quy mô nhỏ nuôi cũi (95%CI: 1,16-5,23); cao hơn 3.38 lần so với lợn nuôi quy mô vừa (95%CI: 1,58 - 7,24) và 2.92 lần (95%CI: 1,85 - 4,59) so với quy mô lớn (Bảng 4.8). Hay nói cách khác, tỷ lệ lợn nái ở quy mô nhỏ nuôi chuồng thể hiện tập tính nhai bã trầu ít hơn so với 3 quy mô còn lại. Kết quả nghiên cứu phù hợp với kết quả nghiên cứu của Arellano et al. (1992), tác giả cho biết, lợn nái nuôi trong cũi thƣờng thể hiện tập tính rập khuôn nhiều hơn những lợn nuôi chuồng, đặc biệt là tập tính nhai bã trầu. Việc cung cấp đệm lót và tăng diện tích sàn, sử dụng thức ăn có vật chất xơ có thể sẽ giảm tỷ lệ thể hiện tập tính rập khuôn ở lợn nái (Bench et al., 2013; Bergeron et al., 2000; Weng et al., 1998). Bảng 4.8. Ảnh hƣởng của quy mô đến các tiêu chí đánh giá phúc lợi về tập tính Chỉ tiêu Tham số Quy mô nhỏ Nhỏ Vừa Lớn Nuôi chuồng (n=116) Nuôi cũi (n= 165) (n=247) (n=597) Mối quan hệ với ngƣời OR 1 2,52 3,70 21,15 95%CI - 1,13-5,61 1,34-10,23 4,49-99,54 Nhai bã trầu OR 1 2,47 3,38 2,92 95%CI - 1,16-5,23 1,58-7,24 1,85-4,59 Uốn lƣỡi OR 1 5,71 3,68 2,63 95%CI - 2,22- 14,66 1,17-11,45 1,08-6,40 Cắn thanh chuồng OR - 1 1,84 0,59 95%CI - - 0,35-9,58 0,157-2,25 Cắn núm uống OR - 1 1,87 0,63 95%CI - - 0,51- 6,86 0,05-1,50 Ghi chú: OR thể hiện chỉ số chênh giữa tỷ lệ điểm 0 của các chỉ tiêu đánh giá ở quy mô nhỏ nuôi chuồng so với tỷ lệ điểm 0 ở quy mô nhỏ nuôi cũi; quy mô vừa và quy mô lớn. 59 Tóm lại, sự khác biệt đáng kể về phúc lợi lợn nái giữa các quy mô chăn nuôi đƣợc xác định. Lợn nái ở các quy mô nhỏ có thể trạng tốt hơn, nhƣng có nguy cơ bị thở dốc khi gặp thời tiết nóng so với ở các trang trại quy mô vừa và lớn. Xu hƣớng các vết thƣơng trên cơ thể, tình trạng da và khối viêm cục bộ tăng hơn ở các lợn nái đƣợc nuôi ở những trang trại có quy mô vừa và lớn so với các lợn nái ở những hộ quy mô nhỏ. Lợn nái nuôi trong cũi ở các trang trại quy mô vừa và lớn thể hiện một số tập tính rập khuôn (nhai bã trầu, uốn lƣỡi, cắn thanh chuồng, cắn núm uống...) và sợ ngƣời với tỷ lệ cao hơn so với những con nuôi trong chuồng ở các quy mô nhỏ. 4.2. PHÚC LỢI CỦA LỢN CÁI NUÔI THEO NHÓM CÓ SÂN VÀ KHÔNG CÓ SÂN 4.2.1. Đánh giá phúc lợi của lợn cái theo Chất lƣợng Phúc lợi® 2009 Tiến hành đánh giá phúc lợi 20 lợn cái nuôi nhóm theo hai kiểu chuồng có sân và không có sân trong 8 tuần liên tiếp. Tiêu chí nuôi dƣỡng đƣợc đánh giá thông qua chỉ tiêu điểm thể trạng, kết quả nghiên cứu này cho thấy không có mối liên hệ giữa kiểu chuồng đến điểm thể trạng của lợn cái (P=0,16) (Bảng 4.9). Tuy nhiên, lợn có điểm thể trạng bằng 1 tƣơng đối cao chiếm 47,54% ở kiểu chuồng có sân và 52,78% ở kiểu chuồng không có sân, rất ít lợn có điểm thể trạng tồi (điểm 2, có thể nhìn thấy xƣơng sƣờn và xƣơng hông) (tƣơng ứng là 4,92% và 0%). Trên thực tế, khẩu phần dinh dƣỡng đƣợc sử dụng cho lợn dùng trong nghiên cứu này là giống nhau và dành cho lợn cái hậu bị nuôi nhốt trong cũi hoàn toàn, bị hạn chế vận động. Nếu theo tiêu chí liên quan đến giống, việc cân đối khẩu phần cho lợn cái hậu bị là rất quan trọng vì nó liên quan đến năng suất sinh sản, khả năng lên giống, lợn cái thƣờng đƣợc hạn chế khẩu phần tránh thể trạng quá béo. Vì vậy, đứng trên góc độ phúc lợi động vật, tỷ lệ lợn cái có điểm thể trạng trung bình cao, thể hiện chế độ cho ăn chƣa phù hợp với nhu cầu của lợn cái nuôi nhóm. Theo Salak-Johnson et al. (2007), điểm thể trạng của lợn cái cũng bị ảnh hƣởng bởi các diện tích sàn khác nhau (P<0,001), điểm thể trạng giảm ở những lợn nuôi trong chuồng có diện tích sàn 1,4m2 so với 2,3m2 và 3,3m2. Với tiêu chí chuồng trại, kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối liên hệ cũng nhƣ sự ảnh hƣởng của kiểu chuồng có sân và không có sân đến các chỉ tiêu đánh giá về tỷ lệ viêm bao khớp, điểm tổn thƣơng bờ vai, tỷ lệ thở dốc (Bảng 4.9). Tỷ lệ viêm bao khớp ở lợn cái giữa hai kiểu chuồng không có sự khác nhau 60 (P=0,67), tỷ lệ lợn cái viêm bao khớp mức độ ít (điểm 1) ở cả hai kiểu chuồng tƣơng đối thấp lần lƣợt là 8,2% ở nhóm lợn nuôi nhóm có sân và 9,72% ở nhóm không có sân trong tổng các số các lƣợt đánh giá và không có lợn cái nào bị điểm 2. Chỉ số OR ở bảng 4.9 cũng cho thấy không có sự ảnh hƣởng của kiểu chuồng có sân và không có sân đến tỷ lệ viêm bao khớp ở lợn nái (OR=1,17; 95%CI: 0,35- 3,9). Bảng 4.9. Ảnh hƣởng của kiểu chuồng đến các chỉ tiêu đánh giá phúc lợi về nuôi dƣỡng và chuồng trại Tiêu chí Chỉ tiêu Điểm Chuồng có sân (%) Chuồng không sân (%) P OR 95%CI Nuôi dƣỡng Điểm thể trạng 0 47,54 47,22 0,16 0,91 0,45-1,81 1 47,54 52,78 2 4,92 0,00 Chuồng trại Viêm bao khớp 0 91,80 90,28 0,76 1,17 0,35-3,9 1 8,20 9,72 2 0,00 0,00 Tổn thƣơng bờ vai 0 98,36 95,83 0,40 2,69 0,31-22,87 1 1,64 4,17 2 0,00 0,00 Dính phân 0 77,05 79,17 0,68 0,94 0,51-1,73 1 19,67 15,28 2 3,28 5,56 Thở dốc 0 18,03 29,17 0,13 0,54 0,23-1,27 2 81,97 70,83 Ghi chú: OR thể hiện chỉ số chênh giữa tỷ lệ điểm 0 của các chỉ tiêu đánh giá ở kiểu chuồng có sân so với tỷ lệ điểm 0 ở kiểu chuồng không có sân. Điểm tổn thƣơng bờ vai thông thƣờng đƣợc đánh giá đối với lợn nái nuôi trong cũi khi vai thƣờng xuyên bị cọ xát vào thành chuồng, đặc biệt các điểm nối thành chuồng. Khi kích thƣớc cơ thể càng to, bờ vai bị tổn thƣơng sẽ nhiều hơn bởi sự cọ xƣớc các thanh cũi sắt, đặc biệt những điểm nối thanh cũi do sự không tƣơng thích với kích thƣớc chuồng. Điểm tổn thƣơng càng nhiều, vết thƣơng càng sâu thì thể hiện chuồng trại càng chật hẹp và chất lƣợng kém, không phù hợp. Tuy nhiên, với hệ thống nuôi lợn theo nhóm, tổn thƣơng bờ vai giảm đáng kể do giảm sự tiếp xúc với thành chuồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ lợn bị tổn thƣơng bờ vai rất thấp và không khác nhau 2 nhóm lợn (1,64% và 4,17%, P=0,4); điều này đƣợc khẳng định khi OR của điểm 0 chuồng có sân so với 61 không có sân là 2,69 với 95%CI: 0,31-22,87. Kết quả này tƣơng đƣơng với kết quả của Salak-Johnson et al. (2007) cho biết, điểm tổn thƣơng bờ vai thấp ở lợn nuôi nhóm thấp và tƣơng đƣơng ở lợn nái khi nuôi với các diện tích sàn 1,4m 2 /con; 2,3m 2 /con; 3,3m 2 /con. Tỷ lệ lợn bị phân dính trên cơ thể ít hơn 10% tƣơng đối cao chiếm 77,05% ở nhóm chuồng có sân tƣơng đƣơng với 79,17% ở nhóm chuồng không có sân (P=0,68); OR của điểm 0 kiểu chuồng có sân với kiểu chuồng không có sân là 0,94 với 95%CI: 0,51-1,73. Salak-Johnson et al. (2007) cho biết điểm phân dính cơ thể của lợn nuôi nhóm ở các diện tích sàn khác nhau là tƣơng đối thấp nhận định này phù hợp với kết quả của nghiên cứu. Theo Temple et al. (2011) tỷ lệ lợn thịt nuôi nhóm bị dính phân trên cơ thể với điểm 1 chiếm khoảng 16,6%; điểm 2 là 3,7% và cũng tƣơng đƣơng với tỷ lệ đƣợc báo cáo theo điều tra của Pháp tƣơng ứng là 13,6% và 3,6% (Courboulay et al., 2009). Bảng 4.10. Ảnh hƣởng của kiểu chuồng đến các chỉ tiêu đánh giá phúc lợi về sức khỏe và tập tính Tiêu chí Chỉ tiêu Điểm Chuồng có sân (%) Chuồng không sân (%) P OR 95%CI Sức khỏe Què 0 95,08 97,22 0,52 0,52 0,10-2,80 1 4,92 2,78 2 0,00 0,00 Vết thƣơng cơ thể 0 63,93 45,83 0,10 1,91 0,94-3,93 1 24,59 40,28 2 11,48 13,89 Viêm da 0 86,89 87,50 0,98 0,93 0,37-2,34 1 8,20 8,33 2 4,92 4,17 Viêm cục bộ 0 86,89 94,44 0,19 0,38 0,13-1,11 1 3,28 0,00 2 9,84 5,56 Tập tính Mối quan hệ với ngƣời 0 73,77 70,83 0,71 1,21 0,58-2,51 1 26,23 29,17 2 0,00 0,00 Rập khuôn 0 40,98 30,56 0,21 1,57 0,86-2,88 2 59,02 69,44 Khám phá 0 70,49 71,22 0,83 0,90 0,46-1,76 2 29,51 27,78 Ghi chú: OR thể hiện chỉ số chênh giữa tỷ lệ điểm 0 của các chỉ tiêu đánh giá ở kiểu chuồng có sân so với tỷ lệ điểm 0 ở kiểu chuồng không có sân. 62 Trong nghiên cứu này, tỷ lệ lợn cái thở dốc rất cao và không có sự khác nhau ở cả hai kiểu chuồng với 81,97% ở nhóm chuồng có sân và 70,83% ở nhóm chuồng không có sân (P=0,13) với OR là 0,54 và 95%CI: 0,23-1,27. Điều này có thể do nghiên cứu đƣợc thực hiện vào mùa hè, nhiệt độ trung bình khá cao. Kết quả đánh giá của chỉ tiêu sức khỏe cho thấy ở cả hai kiểu chuồng tỷ lệ bị què thấp và kiểu chuồng không ảnh hƣởng đến tỷ lệ què (4,92% ở chuồng có sân và 2,78% ở chuồng không có sân, P=0,52) với OR là 0,52 và 95%CI:0,10- 2,80. Các loại tổn thƣơng móng thƣờng là nguyên nhân chính làm tăng tỷ lệ què và ảnh hƣởng đến phúc lợi của lợn nái. Theo Enokida et al. (2011) viêm móng, bàn chân thƣờng rất phổ biến ở lợn nái, mỗi nái thƣờng bị ít nhất một lần trong thời gian theo dõi với tỷ lệ tƣơng đối cao 88% đến 100%, tuy nhiên chỉ có khoảng 9,7% lợn nái bị què. Với lợn cái nuôi nhóm, chỉ tiêu vết thƣơng trên cơ thể rất quan trọng vì nó thể hiện tần suất, tỷ lệ gây hấn, đánh nhau của các lợn cái cùng chuồng. Mặc dù kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ các điểm vết thƣơng trên cơ thể của lợn cái không bị ảnh hƣởng bởi 2 kiểu chuồng (P= 0,1), tuy nhiên tỷ lệ lợn cái có điểm tổn thƣơng trên cơ thể khá cao và có xu hƣớng khác nhau với điểm tổn thƣơng bằng 1 (có 5-10 vết thƣơng nhỏ trên cơ thể) chiếm 24,59% với lợn cái nuôi chuồng có sân và 40,28% với lợn cái nuôi chuồng không có sân tuy nhiên chỉ số OR là 1,91 và 95%CI: 0,94-3,93 cho thấy không có sự ảnh hƣởng của kiểu chuồng đến tỷ lệ vết thƣơng trên cơ thể (Bảng 4.10). Trên thực tế quan sát cho thấy, những vết thƣơng này thƣờng xuất hiện ở những ngày đầu ghép nhóm. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trƣớc đây của Salak-Johnson et al. (2007) cho thấy, điểm tổn thƣơng cơ thể của lợn nái tăng khi diện tích sàn giảm. Ở cả 2 kiểu chuồng đều xuất hiện điểm tổn thƣơng bằng 2 (có nhiều hơn 1 vùng có 5- 10 điểm tổn thƣơng hoặc những vết thƣơng sâu, hở) chiểm tỷ lệ tƣơng đƣơng là 11,48% và 13,89% và những vết thƣơng này thƣờng xuất hiện ở tuần đầu khi mới ghép nhóm thể hiện sự gây hấn mạnh mẽ trong giai đoạn phân chia thứ bậc (Chapinal et al., 2010). Không có mối liên hệ giữa của kiểu chuồng và điểm tổn thƣơng trên da (P=0,89) và các ổ viêm cục bộ (P=0,19), tỷ lệ lợn không bị viêm da và viêm cục bộ cao chiếm hơn 85% (bảng 4.10). Tuy nhiên, theo các nghiên cứu trƣớc đây, điểm tổn thƣơng trên da ở những lợn nái nuôi nhóm trong suốt thời gian mang 63 thai sẽ nhiều hơn lợn nái nuôi trong cũi (Anil et al., 2003; Karlen et al., 2007; Turner, 2000) điều này có thể đƣợc giải thích khi những vết xƣớc do đánh nhau, gây hấn bị viêm, nhiễm trùng làm tăng tỷ lệ viêm da và viêm cục bộ ở lợn nái nuôi nhóm. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy không có mối liên hệ của kiểu chuồng đến mức độ sợ ngƣời (P=0,71). Mức độ thân thiện với ngƣời chăn nuôi (điểm 0) của lợn cái nuôi ở hai kiểu chuồng tƣơng đối cao với 73,77% ở kiểu chuồng có sân và 70,83% ở kiểu chuồng không có sân với OR là 1,21 và 95%CI: 0,58-2,25. Không có điểm 2 về mức độ sợ ngƣời ở lợn nái nuôi ở hai kiểu chuồng và kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Scott et al. (2009). Tập tính rập khuôn là một trong những tiêu chí quan trọng cho thấy phúc lợi động vật tồi (Manteca and Salas, 2007). Nghiên cứu này đề cập đến các tập tính rập khuôn thƣờng gặp ở lợn cái nuôi nhóm: nhai bã trầu, uốn lƣỡi, cắn chuồng, cắn núm uống và liếm sàn, kết quả cho thấy, kiểu chuồng không ảnh hƣởng đến các tập tính rập khuôn này (P=0,21). Tỷ lệ thể hiện tập tính khám phá (ủi dũi) là tập tính tự nhiên ở lợn nái nuôi chuồng có sân chiếm 29,51%, ở chuồng không có sân là 27,78% và không có mối liên hệ với kiểu chuồng (P=0,83). Kết quả phân tích chỉ số OR ở bảng 4.10 thể hiện chỉ số OR của điểm 0 các chỉ tiêu của nhóm lợn nuôi chuồng có sân so với nhóm lợn cái nuôi ở chuồng không sân cho thấy không có sự ảnh hƣởng của kiểu chuồng đến các chỉ tiêu đánh giá phúc lợi về nuôi dƣỡng, chuồng trại, sức khỏe và tập tính. Nhƣ vậy, kiểu chuồng có sân và không có sân không có mối liên hệ cũng nhƣ không ảnh hƣởng đến 4 tiêu chí đánh giá phúc lợi động vật của lợn cái nuôi nhóm theo hƣớng dẫn của Chất lƣợng Phúc lợi® 2009. 4.2.2. Đánh giá mức độ stress thông qua biến đổi nồng độ cortisol trong huyết tƣơng và nƣớc bọt 4.2.2.1. Ảnh hưởng của kiểu chuồng đến biến động nồng độ cortisol trong nước bọt của lợn cái hậu bị qua các ngày ghép nhóm Kết quả định lƣợng cortisol cho thấy không có sự sai khác về nồng độ cortisol trong nƣớc bọt của lợn cái hậu bị nuôi nhóm giữa hai kiểu chuồng nuôi (có sân và không có sân) ở các ngày lấy mẫu thứ 1, 3; 7; 15; 30 và 50 sau khi ghép nhóm (P>0,05) (Bảng 4.11). Điều này cho thấy, với cùng một điều kiện chăm sóc, nuôi dƣỡng, việc nuôi lợn theo nhóm có bố trí thêm sân hay không có 64 sân không ảnh hƣởng đến tới nồng độ cortisol trong nƣớc bọt
File đính kèm:
luan_an_anh_huong_cua_phuong_thuc_chan_nuoi_lon_den_chat_luo.pdf
Tom tat luan an - Nguyen Thi Phuong - 08.01.2018.pdf
Trang thong tin LA tieng Anh - Nguyen Thi Phuong Giang - 08.01.2018.doc
Trang thong tin LA tieng Viet - Nguyen Thi Phuong Giang - 08.01.2018.doc