Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 1

Trang 1

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 2

Trang 2

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 3

Trang 3

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 4

Trang 4

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 5

Trang 5

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 6

Trang 6

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 7

Trang 7

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 8

Trang 8

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 9

Trang 9

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 123 trang nguyenduy 09/10/2025 130
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt

Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt
á mì khô 0, 
10, 20 và 30%. Các số trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái khác nhau thì khác nhau có 
ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey 
Bảng 4.5 cho thấy tỉ lệ tiêu hóa VCK và CHC trong thí nghiệm in vitro 
tại thời điểm 48 giờ của nghiệm thức NMK-30 thấp nhất, khác biệt này rất có 
ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Nghiệm thức NMK-30 có tỉ lệ tiêu hóa thấp 
nhất, kết quả này cũng phù hợp với thí nghiệm 1b; tỉ lệ tiêu hóa của NM khô 
thấp hơn so với cỏ voi. Khi tăng mức độ thay thế NM khô vào hỗn hợp với cỏ 
voi dẫn đến tỉ lệ tiêu hóa có khuynh hướng giảm và thấp nhất nghiệm thức 
NMK-30; có thể do chất tanin của ngọn lá mì tạo thành phức hợp tanin-protein 
hạn chế lên men và tiêu hóa của vi sinh vật dạ cỏ dẫn đến tỉ lệ tiêu hóa in vitro 
thấp (Wanapat et al., 1997). 
Vậy hỗn hợp cỏ voi với thay thế 20% NM khô trong khẩu phần là phù 
hợp nhất, không ảnh hưởng đến tỉ lệ tiêu hóa dưỡng chất thức ăn. Điều này 
thích hợp với khuyến cáo của Vũ Duy Giảng et al. (2008) cho thấy mức thay 
thế LM khô hoặc ủ chua trong khẩu phần nuôi bò thích hợp nhất trong khoảng 
10 – 20%. 
63 
4.1.3.2 Thể tích mê tan, carbonic của hỗn hợp cỏ voi với các mức độ thay 
thế ngọn lá mì khô bằng kỹ thuật in vitro sinh khí 
Kết quả tổng thể tích khí, thể tích và nồng độ mê tan, carbonic sinh ra in 
vitro tại thời điểm 48 giờ của hỗn hợp cỏ voi với các mức độ thay thế ngọn lá 
mì khô 0, 10, 20 và 30% tính theo vật chất khô, được trình bày qua bảng 4.6. 
Bảng 4.6: Tổng thể tích khí, thể tích và nồng độ mê tan, carbonic sinh ra in vitro tại 
48 giờ của hỗn hợp cỏ voi với các mức độ thay thế ngọn lá mì khô 
Chỉ tiêu theo dõi 
Nghiệm thức 
SEM 
P NMK-0 NMK-10 NMK-20 NMK-30 
Khí tổng số, ml/0,2 g VCK 37,3
a
 36,6
a
 34,3
b
 32,5
b
 0,45 <0,01 
Mê tan, % 18,0
18,0
17,6
18,1
0,32 0,66 
Carbonic, % 70,0 70,3 68,1 68,6 0,73 0,14 
Mê tan, ml 6,73
a 
6,59
ab 
6,03
bc 
5,90
c 
0,16 0,01 
Carbonic, ml 26,1
a 
25,7
a 
23,4
b 
22,3
b 
0,46 <0,01 
Khí tổng số, ml/g CHC tiêu 
hóa 473
a 
454
ab 
424
c 
442
bc 
6,80 <0,01 
Mê tan, ml/g CHC tiêu hóa 85,2
a
 81,5
a
 74,5
b
 80,1
ab
 1,49 <0,01 
Carbonic, ml/g CHC tiêu hóa 331
a 
319
ab
 289
c
 303
bc
 5,24 <0,01 
 NMK-0, NMK-10, NMK-20, NMK-30: là hỗn hợp cỏ voi với các mức độ thay thế ngọn lá mì khô 0, 
10, 20 và 30%. VCK: vật chất khô, CHC: Chất hữu cơ. Các số trung bình trong cùng một hàng mang 
các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey 
Bảng 4.6 cho thấy tổng thể tích khí sinh ra sau khi ủ 0,2 g VCK mẫu tại 
thời điểm 48 giờ giảm theo mức độ thay thế NM khô trong hỗn hợp cỏ voi. 
Khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Do thể tích khí sinh ra tỉ lệ 
thuận với tỉ lệ tiêu hóa thức ăn. 
Nồng độ mê tan và carbonic (%) tại thời điểm 48 giờ của các nghiệm 
thức là tương đương nhau (P>0,05). Thể tích mê tan và carbonic (ml/0,2 g 
VCK) tại thời điểm 48 giờ cao nhất nghiệm thức NMK-0, kế đến NMK-10, 
NMK-20 và thấp nhất NMK-30, khác biệt này rất có ý nghĩa về mặt thống kê 
(P<0,01). 
Tổng thể tích khí, thể tích mê tan và carbonic tính trên chất hữu cơ tiêu 
hóa (ml/g CHC tiêu hóa) tại thời điểm 48 giờ của các nghiệm thức giảm dần 
theo tỉ lệ nghịch với mức độ thay thế NM khô trong hỗn hợp cỏ voi. Khác biệt 
này rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Kết quả này phù hợp với xu 
hướng nghiên cứu của Phạm Ngọc Duy và ctv. (2015) khi thay thế bột lá mì 
khô 20% trong khẩu phần làm giảm phát thải mê tan thí nghiệm ở in vitro là 
48,6%. 
64 
Khi tăng mức độ thay thế NM khô trong hỗn hợp cỏ voi cho thấy sinh 
mê tan càng giảm. Có thể NM khô là thức ăn thoát qua dạ cỏ tốt (Wanapat et 
al., 1997), nghĩa là hạn chế lên men dạ cỏ nên cho tỉ lệ tiêu hóa và sinh mê tan 
ở in vitro tỉ lệ nghịch với mức độ thay thế NM khô trong hỗn hợp với cỏ voi. 
Ngoài ra, có thể hàm lượng tanin đậm đặc có trong ngọn lá mì đã làm 
giảm sinh mê tan. Hàm lượng tanin đậm đặc của NMK là 3,04% (Bảng 3.2) 
gần tương đương với nghiên cứu Duong Nguyen Khang (2004) ngọn lá mì 
khô có tanin đậm đặc là 2,6%. Theo thí nghiệm trên bò của Duong Nguyen 
Khang and Wiktorsson (2004) bổ sung 20% NM của chua trong khẩu phần và 
số lượng tannin đậm đặc trong khẩu phần 0,4% đã làm giảm số lượng protozoa 
dạ cỏ. Điều này phù hợp với nghiên cứu in vitro của Newbold et al. (1995) 
cho thấy vi khuẩn mê tan và protozoa trong dạ cỏ có liên quan đến sinh mê tan 
trong khoảng 9 – 25%; báo cáo của Finlay et al. (1994) là 37%. Do protozoa 
trao đổi chất ở dạ cỏ sinh ra hydrogen cung cấp cho vi khuẩn sinh mê tan 
trong dạ cỏ (Martin et al., 2010). 
Hàm lượng HCN trong NM khô là 294 mg/kg VCK (Bảng 3.2) thấp hơn 
so với Le Thuy Binh Phuong et al. (2012) là 330 mg/kg VCK và Wanapat et 
al. (2000) là 350 mg/kg VCK, có thể do khác nhau giữa NM và lá mì. Hàm 
lượng HCN của NMK không ảnh hưởng đến sinh mê tan ở in vitro. Kết quả 
này phù hợp với thí nghiệm in vitro cho thấy HCN trong lá mì tươi là 696 
mg/kg VCK cao hơn gấp 2 lần lá mì khô (330 mg/kg VCK), nhưng không ảnh 
hưởng đến sinh mê tan (Outhen et al., 2011; Le Thuy Binh Phuong et al., 
2012). Nghiên cứu của Cuzin and Labat (1992) cho thấy vi sinh vật dạ cỏ lên 
men thủy phân vỏ củ mì phóng thích HCN vào dịch dạ cỏ, thì đồng thời cũng 
phóng thích enzyme β-cyanoalanine duy trì nồng độ HCN dưới 6 mg/lít dịch 
dạ cỏ, nên không ảnh hưởng đến hoạt động của vi khuẩn sinh mê tan. Tuy 
nhiên khi bổ sung KCN với hàm lượng HCN ở mức 10 và 25 mg/lít dịch dạ cỏ 
thì ức chế sinh mê tan dạ cỏ, nhưng khi nồng độ HCN dưới 6 mg/lít dịch dạ cỏ 
thì sản xuất mê tan bắt đầu hồi phục. 
Qua bảng 4.5 và 4.6 cho thấy hỗn hợp cỏ voi có thay thế 20% ngọn lá mì 
khô bằng kỹ thuật in vitro sinh khí tại thời điểm 48 giờ là tối ưu, không ảnh 
hưởng đến tỉ lệ tiêu hóa vật chất khô, chất hữu cơ, nhưng làm giảm thể tích mê 
tan sinh ra. 
65 
4.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hƣởng của ngọn lá mì khô, ủ chua và tƣơi trong khẩu 
phần lên tỉ lệ tiêu hóa và sinh mê tan trên bò lai Sind 
4.2.1 Lƣợng thức ăn, dƣỡng chất thức ăn và năng lƣợng trao đổi ăn vào 
của bò thí nghiệm 2 
 Tổng lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày (kg VCK/con/ngày) và vật chất 
khô ăn vào theo % khối lượng bò được trình bày qua bảng 4.7. 
Bảng 4.7: Lượng cỏ voi, ngọn lá mì và vật chất khô ăn vào của bò thí nghiệm 2 
Chỉ tiêu theo dõi, 
 Kg VCK/con/ngày 
Nghiệm thức 
SEM 
P NM-0 NMK-20 NMU-20 NMT-20 
Cỏ voi ăn vào 3,23 2,99 3,00 2,99 0,06 0,07 
Ngọn lá mì ăn vào 0,00c 0,73a 0,75a 0,62b 0,02 <0,01 
Tổng thức ăn ăn vào 3,23b 3,72a 3,74a 3,61a 0,05 <0,01 
Vật chất khô ăn vào, %KL 1,95b 2,26a 2,25a 2,18a 0,03 <0,01 
VCK: vật chất khô, KL: khối lượng bò. NM-0,NMK-20, NMU-20, NMT-20 là mức độ thay thế ngọn lá 
mì khô, ủ chua, tươi: 0 và 20% vào khẩu phần cỏ voi. Các số trung bình trong cùng một hàng mang 
các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey 
Kết quả phân tích thống kê tại phụ lục 3 cho thấy vật chất khô ăn vào của 
cỏ voi có ảnh hưởng của giai đoạn thí nghiệm với (P=0,003), nhưng không có 
ảnh hưởng của các nghiệm thức (P=0,006). Vật chất khô ăn vào của NM 
không có ảnh hưởng của giai đoạn thí nghiệm (P=0,117), nhưng có ảnh hưởng 
của nghiệm thức (P= 0,000). Khác biệt VCK cỏ voi ăn vào giữa các giai đoạn 
thí nghiệm có thể do ảnh hưởng của thời tiết làm thay đổi VCK của cỏ voi nên 
ảnh hưởng đến lượng cỏ voi ăn vào. 
Qua bảng 4.7 cho thấy tổng lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày và VCK 
thức ăn ăn vào tính theo % khối lượng bò (% KL) tăng khác biệt rất có ý nghĩa 
về mặt thống kê ở các nghiệm thức thay thế NM khô, ủ chua và tươi (P<0,01). 
Vật chất khô thức ăn ăn vào tính theo % KL tăng ở các nghiệm thức thay thế 
NM khô, NM ủ chua và NM tươi. Do protein thô của NM đã cải thiện hàm 
lượng protein trong khẩu phần làm tăng lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày. 
Điều này phù hợp với nghiên cứu trên bò lai Sind của Nguyễn Văn Thu và 
Nguyễn Thị Kim Đông (2015) cho thấy VCK ăn vào tăng theo mức độ protein 
trong khẩu phần từ 140 đến 230 g/100 kg KL. Theo tài liệu của Preston and 
Leng (1991) minh chứng, khi khẩu phần thiếu dinh dưỡng thì lượng ăn vào 
giảm, chất dinh dưỡng hạn chế đầu tiên có thể là N-NH3 và các axít amin thiết 
yếu cho gia súc nhai lại. Ngược lại, khi bổ sung protein vào khẩu phần thiếu 
protein thì làm tăng số lượng VCK ăn vào, do tăng hoạt động vi sinh vật dạ cỏ 
66 
phân giải thức ăn. Ngoài ra, bổ sung protein vào khẩu phần còn cải thiện tính 
ngon miệng của của khẩu phần làm tăng VCK ăn vào. 
Hình 4.1 cho thấy hàm lượng protein của NM bổ sung vào khẩu phần cỏ 
voi có tương quan với VCK ăn vào. Vật chất khô thức ăn ăn vào tính theo % 
khối lượng bò ở các nghiệm thức thay thế NM có mối tương quan thuận rất 
chặt chẽ với số lượng protein thô ăn vào trong khoảng 0,3 – 0,5 kg/con/ngày 
(Bảng 4.8), thể hiện qua phương trình hồi quy tuyến tính (y = 2,45x +1,16) với 
hệ số xác định hồi quy là R2 = 0,84, hệ số tương quan r = 0,92 và xác suất 
P<0,01 (Hình 4.1). 
Hình 4.1: Mối tương quan giữa vật chất khô ăn vào (% KL) với lượng protein thô ăn 
vào (kg/con/ngày) của bò thí nghiệm 2 
Ngọn lá mì tươi ăn vào hàng ngày thấp hơn so với NM khô và ủ chua, sự 
khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,05). Có thể hàm lượng HCN 
trong NM tươi cao gấp 2,8 lần so với NM khô và ủ chua. Do cyanogenic 
glycosides (linamarin) trong NM tươi khi bò ăn vào sẽ thủy phân phóng thích 
hydrogen cyanua (HCN) có vị đắng, từ đó làm giảm lượng tiêu thụ NM tươi 
hàng ngày. Điều này cũng phù hợp xu hướng nghiên cứu của Kounnavongsa 
et al. (2010) đã cho thấy dê tiêu thụ lượng lá mì tươi hàng ngày thấp hơn so lá 
mì khô. 
Các nghiệm thức thay thế NM có vật chất khô thức ăn ăn vào dao động 
là 2,18 – 2,26% KL. Kết quả này phù hợp với tài liệu của McDonald et al. 
(2002) đã cho thấy VCK ăn vào của bò thịt là 2,2% KL. Kết quả này tương 
đương với nghiên cứu trên trâu của Chanjula et al. (2004) khi bổ sung 20% 
LM khô trong khẩu phần rơm ủ urê có VCK ăn vào là 2,1% KL, nhưng thấp 
hơn so với nghiên cứu của Dương Nguyên Khang and Wiktorsson (2000, 
2004) bổ sung 20% LM khô, ủ chua trong khẩu phần rơm ủ urê có VCK ăn 
vào lần lượt là 2,4% và 2,5% KL. Do lượng thức ăn ăn vào hàng ngày phụ 
67 
thuộc vào khối lượng bò, loại khẩu phần và chất lượng thức ăn (McDonald et 
al., 2002). 
Lượng chất hữu cơ, protein thô, xơ trung tính, tanin đậm đặc, HCN và 
năng lượng ăn vào của bò thí nghiệm 2 được trình bày bảng 4.8. 
Bảng 4.8: Lượng dưỡng chất và năng lượng trao đổi ăn vào của bò thí nghiệm 2 
(VCK) 
Chỉ tiêu theo dõi 
Nghiệm thức 
SEM 
P NM-0 NMK-20 NMU-20 NMT-20 
CHC, kg/con/ngày 2,92
b 
3,38
a 
3,40
a 
3,27
a 
0,05 <0,01 
NDF, kg/con/ngày 1,72
b 
1,90
a 
1,92
a 
1,89
a 
0,03 0,01 
CP, g/con/ngày 330
b 
441
a 
436
a 
419
a 
5,26 <0,01 
CP, g/100kg KL 199
b 
269
a 
262
a 
253
a 
3,72 <0,01 
ME, MJ/con/ngày 27,3
b
 32,5
a
 32,5
a
 31,4
a
 0,44 <0,01 
ME, MJ/kg W
0,75 
0,59
b 
0,71
a 
0,70
a 
0,68
a 
0,01 0,01 
Tanin
1
, g/con/ngày 0,00
c 
22,3
a 
22,1
ab 
19.2
b 
0,61 <0,01 
HCN, mg/kg KL 0,00
c 
1,32
b 
1,27
b 
3,07
a 
0,06 <0,01 
HCN, mg/con/ngày 0,00
c 
216
b 
210
b 
508
a 
12,8 <0,01 
CHC: chất hữu cơ, CP: protein thô, NDF: xơ trung tính, KL: khối lượng bò, HCN: hydrogen cyanua. 
ME: năng lượng trao đổi, W0,75: khối lượng trao đổi chất. NM-0,NMK-20, NMU-20, NMT-20 là mức 
độ thay thế ngọn lá mì khô, ủ chua, tươi: 0 và 20% vào khẩu phần cỏ voi, 1: tanin đậm đặc, KP: khẩu 
phần. Các số trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa 
thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey 
Lượng chất hữu cơ và xơ trung tính ăn vào hàng ngày tăng rất tốt các 
nghiệm thức thay thế NM (P<0,01), do các dưỡng chất ăn vào tỉ lệ thuận với 
vật chất khô ăn vào (Bảng 4.7). Chất hữu cơ, xơ trung tính ăn vào 
(kg/con/ngày) thấp nhất nghiệm thức NM-0 lần lượt là 2,92 và 1,72 kg, tăng 
cao các nghiệm thức thay thế NM dao động lần lượt trong khoảng 3,27 – 3,40 
kg và 1,89 – 1,92 kg. Hàm lượng xơ trung tính tính theo % trong khẩu phần 
dao động trong khoảng 51 – 53,3% (Bảng 3.4) thấp hơn so với nghiên cứu trên 
bò lai Sind của Danh Mô và Nguyễn Văn Thu (2009) là 63% và nghiên cứu 
của Nguyễn Văn Thu và Nguyễn Thị Kim Đông (2015) là 63,5%. Vậy hàm 
lượng NDF trong khẩu phần không ảnh hưởng đến VCK ăn vào. 
Lượng protein thô ăn vào dao động trong khoảng lần lượt 330 – 441 
g/con/ngày và 199 – 269 g/100kg KL, tăng rất cao các nghiệm thức thay thế 
NM (P<0,01). Lượng protein thô ăn vào các nghiệm thức thay thế NM khô, 
NM ủ chua và NM tươi dao động trong khoảng 419 – 441 g/con/ngày. Kết quả 
này phù hợp với tài liệu của Đinh Văn Cải (2007) bò có khối lượng 136 – 181 
68 
kg, tăng khối lượng 453 g/con/ngày thì nhu cầu protein thô ăn vào 430 – 489 
g/con/ngày. 
Năng lượng trao đổi tiêu thụ hàng ngày (MJ/con/ngày và MJ/kg W0,75) 
của các nghiệm thức dao động trong phạm vi lần lượt là 27,3 – 32,5 MJ và 
0,59 – 0,71 MJ; tăng rất tốt các nghiệm thức thay thế NM khô, ủ chua và tươi 
(P<0,05). Các nghiệm thức thay thế NM có năng lượng trao đổi ăn vào dao 
động trong khoảng 31,4 – 32,5 MJ/con/ngày. Kết quả này tương đương với 
tiêu chuẩn Kearl (1982), bò có khối lượng là 150 kg, tăng khối lượng 500 
g/ngày, nhu cầu ME là 33,6 MJ/con/ngày. 
Các nghiệm thức thay thế NM có số lượng tanin đậm đặc ăn vào dao 
động trong khoảng 19,2 – 22,3 g/con/ngày, thấp nhất nghiệm thức NMT-20. 
Khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Hàm lượng tanin đậm đặc 
ăn vào các nghiệm thức thay thế NM chiếm tỉ lệ 0,5 – 0,6% trong khẩu phần 
(Bảng 3.4) không thấy ảnh hưởng đến VCK ăn vào. Kết quả này phù hợp với 
nghiên cứu Chanjula et al. (2004) thay thế 50% LM khô trong khẩu phần rơm 
ủ urê không ảnh hưởng đến VCK ăn vào và TLTH dưỡng chất thức ăn. Tương 
tự, nghiên cứu của Beauchemin et al. (2007) bổ sung 2% chất tanin từ cây 
thức ăn quebracho trong khẩu phần ăn cho bò không ảnh hưởng đến vật chất 
khô ăn vào và TLTH các dưỡng chất thức ăn. 
 Các nghiệm thức thay thế NM có số lượng HCN ăn vào dao động trong 
khoảng 1,27 – 3,07 mg/kg KL hoặc 210 – 508 mg/con/ngày, cao nhất nghiệm 
thức NMT-20. Khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Số lượng 
HCN ăn vào của các nghiệm thức thay thế NM không thấy ảnh hưởng đến sức 
khỏe trên bò và VCK ăn vào. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Majak 
and Cheng (1984) liều gây độc tối thiểu của HCN trên bò là 5,1 mg/kg KL. 
Tương tự, khi bò cho ăn khẩu phần bổ sung NM tươi và khô thì không thấy 
ảnh hưởng giữa NM tươi và khô đến TLTH các dưỡng chất thức ăn, nồng độ 
N-NH3 và vi sinh vật dạ cỏ (Promkot and Wanapat, 2009; Wora-anu et al., 
2007). 
Vậy hàm lượng tanin đậm đặc và hàm lượng HCN trong NM khô, ủ chua 
và tươi khi thay thế với mức 20% trong khẩu phần nuôi bò lai Sind chưa thấy 
ảnh hưởng đến VCK ăn vào và sức khỏe bò. 
Nhìn chung bò thí nghiệm tiêu thụ các dưỡng chất như VCK, CHC, 
NDF, CP và ME tăng rất tốt ở các nghiệm thức thay thế NM khô, ủ chua và 
tươi. Nên khẩu phần thí nghiệm được bổ sung thêm protein và ME của NM, đã 
cải thiện hoạt động của vi sinh vật dạ cỏ làm tăng đáng kể lượng thức ăn và 
dưỡng chất tiêu thụ trên bò (McDonal et al., 2002). 
69 
4.2.2 Tỉ lệ tiêu hóa các dƣỡng chất thức ăn và cân bằng nitơ của bò thí 
nghiệm 2 
Tỉ lệ tiêu hóa các dưỡng chất thức ăn như vật chất khô (VCK), chất hữu 
cơ (CHC), protein thô (CP) và xơ trung tính (NDF) của bò thí nghiệm 2 được 
trình bày qua bảng 4.9. 
Bảng 4.9: Tỉ lệ tiêu hóa các dưỡng chất thức ăn và cân bằng nitơ của bò thí nghiệm 2 
Chỉ tiêu Nghiệm thức 
SEM 
P NM-0 NMK-20 NMU-20 NMT-20 
Tỉ lệ tiêu hóa, % 
Vật chất khô 51,8b 60,9a 60,1a 59,0a 1,18 0,01 
Chất hữu cơ 53,9b 64,6a 63,5a 62,7a 1,11 <0,01 
Protein thô 60,3
b 
68,8
a 
68,0
a 
67,4
a 
0,92 <0,01 
Xơ trung tính 52,9b 60,9a 59,9a 59,2a 1,18 0,01 
Cân bằng nitơ, g/con/ngày 
Nitơ ăn vào 52,8b 70,6a 69,7a 67,0a 0,84 <0,01 
Nitơ thải ra 29,2b 35,5a 36,2a 37,2a 0,45 <0,01 
Nitơ tích lũy 23,5b 35,1a 33,5a 29,8a 1,18 <0,01 
Nitơ tích lũy, g/kg W0.75 0,51b 0,76a 0,72a 0,65a 0,03 <0,01 
NM-0, NMK-20, NMU-20, NMT-20 là mức độ thay thế ngọn lá mì khô, ủ chua, tươi: 0, 20% vào khẩu 
phần cỏ voi. W0,75: khối lượng trao đổi chất. Các số trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái 
khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey 
Bảng 4.9 cho thấy tỉ lệ tiêu hóa VCK, CHC, CP cao nhất các nghiệm 
thức thay thế NM khô, ủ chua và tươi trong khẩu phần cỏ voi. Sự khác biệt 
này rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Tỉ lệ tiêu hóa VCK, CHC, CP 
của các nghiệm thức thay thế NM đạt trên 60% tương đương với nghiên cứu 
của Chu Manh Thang et al. (2010) bổ sung 22% lá mì khô trong khẩu phần ăn 
của bò. Tương tự, theo nghiên cứu của Yuang TLang et al. (2001) tỉ lệ tiêu 
hóa chất hữu cơ trên trâu của NM khô là 62%. 
Kết quả bảng 4.9 cho thấy bò thí nghiệm cho ăn khẩu phần cỏ voi có 
thay thế 20% NM khô, ủ chua và tươi đã cải thiện TLTH thức ăn tăng 7 – 9%. 
Kết quả này tương đương với nghiên cứu trên bò sữa của Đoàn Đức Vũ và ctv. 
(2002) bổ sung lá mì khô 2,0 kg/con/ngày đã làm tăng tỉ lệ tiêu hóa thức ăn 7 – 
10%. Tương tự, nghiên cứu trên bò cho thấy khi bổ sung LM khô 0,6 – 1,0 
kg/con/ngày làm tăng rõ rệt TLTH các dưỡng chất thức ăn so với lô đối chứng 
(Vongsamphanh and Wanapat, 2004; Granum et al., 2007). 
70 
Ngoài ra, nghiên cứu trên trâu của Trịnh Văn Trung et al. (2007) bổ sung 
LM khô 1,0 kg/con/ngày trong khẩu phần cỏ voi có tỉ lệ tiêu hóa VCK, CHC, 
CP tăng trong khoảng 6,8 – 16,6% và có giá trị lần lượt là 62,2; 65,3 và 
64,7%. Tương tự, nghiên cứu của Phengvilaysouk and Wanapat (2008) bổ 
sung LM khô 1,0 kg/con/ngày trong khẩu phân rơm khô có TLTH VCK, 
CHC, CP tăng trong phạm vi 5,6 – 10,8% và có giá trị lần lượt 58,4%, 59,8% 
và 61%. Điều này cùng xu hướng với thí nghiệm trên trâu của Chanjula et al. 
(2004) cho ăn bổ sung LM khô là 20% VCK trong khẩu phần làm tăng TLTH 
các dưỡng chất thức ăn so với lô đối chứng. 
Kết quả bảng 4.9 có thể lý giải như sau: Đối với thức ăn cho bò chủ yếu 
là chất xơ, chúng được tiêu hóa chính nhờ vào VSV lên men trong dạ cỏ. Vi 
sinh vật dạ cỏ sống và hoạt động tốt phải cần nguồn năng lượng cần thiết cho 
duy trì và phân giải thức ăn, ngoài ra chúng cần nitơ ở dạ cỏ để tổng hợp nên 
protein cho chúng. Cỏ voi là thức ăn nhiều chất xơ, ít protein nên TLTH các 
dưỡng chất thức ăn thấp hơn các nghiệm thức thay thế NM. Nghĩa là việc thay 
thế cỏ voi bằng NM trong khẩu phần đã bổ sung thêm năng lượng và protein 
thô (Bảng 4.8). Ngoài ra, lá mì rất giàu các axít amin thiết yếu (Wanapat et al., 
2000) và cũng chứa hàm lượng các chất khoáng rất cao (Fasuji, 2005). Từ nội 
dung trên cho thấy khi thay thế cỏ voi bằng NM trong khẩu làm tăng số lượng 
vi khuẩn phân giải thức ăn ở dạ cỏ (bảng 4.11), giúp cho quá trình lên men 
phân giải thức ăn tốt hơn từ đó làm tăng TLTH các dưỡng chất thức ăn 
(Vongsamphanh and Wanapat, 2004; Granum et al., 2007). 
Hàm lượng HCN trong NM tươi cao gấp 2,8 lần so NM khô và ủ chua 
(Bảng 3.2). Khi thay thế vào khẩu phần cỏ voi không thấy ảnh hưởng đến 
TLTH dưỡng chất thức ăn. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu trước 
đây cho thấy bổ sung LM tươi và khô vào khẩu phần thức ăn trên bò không 
ảnh hưởng đến TLTH các dưỡng chất thức ăn (Promkot and Wanapat, 2009; 
Wora-anu et al., 2007). Hàm lượng HCN tiêu thụ hàng ngày của bò thí nghiệm 
cao nhất ở NT NMT-20 là 508 mg/con/ngày (Bảng 4.8). Kết quả này thấp hơn 
so với nghiên cứu của Promkot and Wanapat (2009) cho thấy hàm lượng HCN 
ăn vào 1180 – 1256 mg/con/ngày không ảnh hưởng đến TLTH dưỡng chất 
thức ăn, số lượng vi khuẩn, protozoa và nấm trong dạ cỏ. Vậy khi thay thế 
20% NM tro

File đính kèm:

  • pdfluan_an_anh_huong_ngon_la_khoai_mi_manihot_esculenta_crantz.pdf
  • pdfbialuanan.pdf
  • pdfBiatomtatluanan-vi.pdf
  • pdfBiatomtattienganh-en.pdf
  • pdfMuc luc 4.2016.pdf
  • pdfPHU LUC 4.2016.pdf
  • pdfThongtinluanan-en.pdf
  • pdfThongtinluanan-vi.pdf
  • pdfTomtatluanan-en.pdf
  • pdfTomtatluanan-vi.pdf