Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Ảnh hưởng ngọn lá khoai mì (Manihot esculenta Crantz) trong khẩu phần đến sinh trưởng và sinh khí mê tan ở bò thịt

á mì khô 0, 10, 20 và 30%. Các số trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey Bảng 4.5 cho thấy tỉ lệ tiêu hóa VCK và CHC trong thí nghiệm in vitro tại thời điểm 48 giờ của nghiệm thức NMK-30 thấp nhất, khác biệt này rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Nghiệm thức NMK-30 có tỉ lệ tiêu hóa thấp nhất, kết quả này cũng phù hợp với thí nghiệm 1b; tỉ lệ tiêu hóa của NM khô thấp hơn so với cỏ voi. Khi tăng mức độ thay thế NM khô vào hỗn hợp với cỏ voi dẫn đến tỉ lệ tiêu hóa có khuynh hướng giảm và thấp nhất nghiệm thức NMK-30; có thể do chất tanin của ngọn lá mì tạo thành phức hợp tanin-protein hạn chế lên men và tiêu hóa của vi sinh vật dạ cỏ dẫn đến tỉ lệ tiêu hóa in vitro thấp (Wanapat et al., 1997). Vậy hỗn hợp cỏ voi với thay thế 20% NM khô trong khẩu phần là phù hợp nhất, không ảnh hưởng đến tỉ lệ tiêu hóa dưỡng chất thức ăn. Điều này thích hợp với khuyến cáo của Vũ Duy Giảng et al. (2008) cho thấy mức thay thế LM khô hoặc ủ chua trong khẩu phần nuôi bò thích hợp nhất trong khoảng 10 – 20%. 63 4.1.3.2 Thể tích mê tan, carbonic của hỗn hợp cỏ voi với các mức độ thay thế ngọn lá mì khô bằng kỹ thuật in vitro sinh khí Kết quả tổng thể tích khí, thể tích và nồng độ mê tan, carbonic sinh ra in vitro tại thời điểm 48 giờ của hỗn hợp cỏ voi với các mức độ thay thế ngọn lá mì khô 0, 10, 20 và 30% tính theo vật chất khô, được trình bày qua bảng 4.6. Bảng 4.6: Tổng thể tích khí, thể tích và nồng độ mê tan, carbonic sinh ra in vitro tại 48 giờ của hỗn hợp cỏ voi với các mức độ thay thế ngọn lá mì khô Chỉ tiêu theo dõi Nghiệm thức SEM P NMK-0 NMK-10 NMK-20 NMK-30 Khí tổng số, ml/0,2 g VCK 37,3 a 36,6 a 34,3 b 32,5 b 0,45 <0,01 Mê tan, % 18,0 18,0 17,6 18,1 0,32 0,66 Carbonic, % 70,0 70,3 68,1 68,6 0,73 0,14 Mê tan, ml 6,73 a 6,59 ab 6,03 bc 5,90 c 0,16 0,01 Carbonic, ml 26,1 a 25,7 a 23,4 b 22,3 b 0,46 <0,01 Khí tổng số, ml/g CHC tiêu hóa 473 a 454 ab 424 c 442 bc 6,80 <0,01 Mê tan, ml/g CHC tiêu hóa 85,2 a 81,5 a 74,5 b 80,1 ab 1,49 <0,01 Carbonic, ml/g CHC tiêu hóa 331 a 319 ab 289 c 303 bc 5,24 <0,01 NMK-0, NMK-10, NMK-20, NMK-30: là hỗn hợp cỏ voi với các mức độ thay thế ngọn lá mì khô 0, 10, 20 và 30%. VCK: vật chất khô, CHC: Chất hữu cơ. Các số trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey Bảng 4.6 cho thấy tổng thể tích khí sinh ra sau khi ủ 0,2 g VCK mẫu tại thời điểm 48 giờ giảm theo mức độ thay thế NM khô trong hỗn hợp cỏ voi. Khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Do thể tích khí sinh ra tỉ lệ thuận với tỉ lệ tiêu hóa thức ăn. Nồng độ mê tan và carbonic (%) tại thời điểm 48 giờ của các nghiệm thức là tương đương nhau (P>0,05). Thể tích mê tan và carbonic (ml/0,2 g VCK) tại thời điểm 48 giờ cao nhất nghiệm thức NMK-0, kế đến NMK-10, NMK-20 và thấp nhất NMK-30, khác biệt này rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Tổng thể tích khí, thể tích mê tan và carbonic tính trên chất hữu cơ tiêu hóa (ml/g CHC tiêu hóa) tại thời điểm 48 giờ của các nghiệm thức giảm dần theo tỉ lệ nghịch với mức độ thay thế NM khô trong hỗn hợp cỏ voi. Khác biệt này rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Kết quả này phù hợp với xu hướng nghiên cứu của Phạm Ngọc Duy và ctv. (2015) khi thay thế bột lá mì khô 20% trong khẩu phần làm giảm phát thải mê tan thí nghiệm ở in vitro là 48,6%. 64 Khi tăng mức độ thay thế NM khô trong hỗn hợp cỏ voi cho thấy sinh mê tan càng giảm. Có thể NM khô là thức ăn thoát qua dạ cỏ tốt (Wanapat et al., 1997), nghĩa là hạn chế lên men dạ cỏ nên cho tỉ lệ tiêu hóa và sinh mê tan ở in vitro tỉ lệ nghịch với mức độ thay thế NM khô trong hỗn hợp với cỏ voi. Ngoài ra, có thể hàm lượng tanin đậm đặc có trong ngọn lá mì đã làm giảm sinh mê tan. Hàm lượng tanin đậm đặc của NMK là 3,04% (Bảng 3.2) gần tương đương với nghiên cứu Duong Nguyen Khang (2004) ngọn lá mì khô có tanin đậm đặc là 2,6%. Theo thí nghiệm trên bò của Duong Nguyen Khang and Wiktorsson (2004) bổ sung 20% NM của chua trong khẩu phần và số lượng tannin đậm đặc trong khẩu phần 0,4% đã làm giảm số lượng protozoa dạ cỏ. Điều này phù hợp với nghiên cứu in vitro của Newbold et al. (1995) cho thấy vi khuẩn mê tan và protozoa trong dạ cỏ có liên quan đến sinh mê tan trong khoảng 9 – 25%; báo cáo của Finlay et al. (1994) là 37%. Do protozoa trao đổi chất ở dạ cỏ sinh ra hydrogen cung cấp cho vi khuẩn sinh mê tan trong dạ cỏ (Martin et al., 2010). Hàm lượng HCN trong NM khô là 294 mg/kg VCK (Bảng 3.2) thấp hơn so với Le Thuy Binh Phuong et al. (2012) là 330 mg/kg VCK và Wanapat et al. (2000) là 350 mg/kg VCK, có thể do khác nhau giữa NM và lá mì. Hàm lượng HCN của NMK không ảnh hưởng đến sinh mê tan ở in vitro. Kết quả này phù hợp với thí nghiệm in vitro cho thấy HCN trong lá mì tươi là 696 mg/kg VCK cao hơn gấp 2 lần lá mì khô (330 mg/kg VCK), nhưng không ảnh hưởng đến sinh mê tan (Outhen et al., 2011; Le Thuy Binh Phuong et al., 2012). Nghiên cứu của Cuzin and Labat (1992) cho thấy vi sinh vật dạ cỏ lên men thủy phân vỏ củ mì phóng thích HCN vào dịch dạ cỏ, thì đồng thời cũng phóng thích enzyme β-cyanoalanine duy trì nồng độ HCN dưới 6 mg/lít dịch dạ cỏ, nên không ảnh hưởng đến hoạt động của vi khuẩn sinh mê tan. Tuy nhiên khi bổ sung KCN với hàm lượng HCN ở mức 10 và 25 mg/lít dịch dạ cỏ thì ức chế sinh mê tan dạ cỏ, nhưng khi nồng độ HCN dưới 6 mg/lít dịch dạ cỏ thì sản xuất mê tan bắt đầu hồi phục. Qua bảng 4.5 và 4.6 cho thấy hỗn hợp cỏ voi có thay thế 20% ngọn lá mì khô bằng kỹ thuật in vitro sinh khí tại thời điểm 48 giờ là tối ưu, không ảnh hưởng đến tỉ lệ tiêu hóa vật chất khô, chất hữu cơ, nhưng làm giảm thể tích mê tan sinh ra. 65 4.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hƣởng của ngọn lá mì khô, ủ chua và tƣơi trong khẩu phần lên tỉ lệ tiêu hóa và sinh mê tan trên bò lai Sind 4.2.1 Lƣợng thức ăn, dƣỡng chất thức ăn và năng lƣợng trao đổi ăn vào của bò thí nghiệm 2 Tổng lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày (kg VCK/con/ngày) và vật chất khô ăn vào theo % khối lượng bò được trình bày qua bảng 4.7. Bảng 4.7: Lượng cỏ voi, ngọn lá mì và vật chất khô ăn vào của bò thí nghiệm 2 Chỉ tiêu theo dõi, Kg VCK/con/ngày Nghiệm thức SEM P NM-0 NMK-20 NMU-20 NMT-20 Cỏ voi ăn vào 3,23 2,99 3,00 2,99 0,06 0,07 Ngọn lá mì ăn vào 0,00c 0,73a 0,75a 0,62b 0,02 <0,01 Tổng thức ăn ăn vào 3,23b 3,72a 3,74a 3,61a 0,05 <0,01 Vật chất khô ăn vào, %KL 1,95b 2,26a 2,25a 2,18a 0,03 <0,01 VCK: vật chất khô, KL: khối lượng bò. NM-0,NMK-20, NMU-20, NMT-20 là mức độ thay thế ngọn lá mì khô, ủ chua, tươi: 0 và 20% vào khẩu phần cỏ voi. Các số trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey Kết quả phân tích thống kê tại phụ lục 3 cho thấy vật chất khô ăn vào của cỏ voi có ảnh hưởng của giai đoạn thí nghiệm với (P=0,003), nhưng không có ảnh hưởng của các nghiệm thức (P=0,006). Vật chất khô ăn vào của NM không có ảnh hưởng của giai đoạn thí nghiệm (P=0,117), nhưng có ảnh hưởng của nghiệm thức (P= 0,000). Khác biệt VCK cỏ voi ăn vào giữa các giai đoạn thí nghiệm có thể do ảnh hưởng của thời tiết làm thay đổi VCK của cỏ voi nên ảnh hưởng đến lượng cỏ voi ăn vào. Qua bảng 4.7 cho thấy tổng lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày và VCK thức ăn ăn vào tính theo % khối lượng bò (% KL) tăng khác biệt rất có ý nghĩa về mặt thống kê ở các nghiệm thức thay thế NM khô, ủ chua và tươi (P<0,01). Vật chất khô thức ăn ăn vào tính theo % KL tăng ở các nghiệm thức thay thế NM khô, NM ủ chua và NM tươi. Do protein thô của NM đã cải thiện hàm lượng protein trong khẩu phần làm tăng lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày. Điều này phù hợp với nghiên cứu trên bò lai Sind của Nguyễn Văn Thu và Nguyễn Thị Kim Đông (2015) cho thấy VCK ăn vào tăng theo mức độ protein trong khẩu phần từ 140 đến 230 g/100 kg KL. Theo tài liệu của Preston and Leng (1991) minh chứng, khi khẩu phần thiếu dinh dưỡng thì lượng ăn vào giảm, chất dinh dưỡng hạn chế đầu tiên có thể là N-NH3 và các axít amin thiết yếu cho gia súc nhai lại. Ngược lại, khi bổ sung protein vào khẩu phần thiếu protein thì làm tăng số lượng VCK ăn vào, do tăng hoạt động vi sinh vật dạ cỏ 66 phân giải thức ăn. Ngoài ra, bổ sung protein vào khẩu phần còn cải thiện tính ngon miệng của của khẩu phần làm tăng VCK ăn vào. Hình 4.1 cho thấy hàm lượng protein của NM bổ sung vào khẩu phần cỏ voi có tương quan với VCK ăn vào. Vật chất khô thức ăn ăn vào tính theo % khối lượng bò ở các nghiệm thức thay thế NM có mối tương quan thuận rất chặt chẽ với số lượng protein thô ăn vào trong khoảng 0,3 – 0,5 kg/con/ngày (Bảng 4.8), thể hiện qua phương trình hồi quy tuyến tính (y = 2,45x +1,16) với hệ số xác định hồi quy là R2 = 0,84, hệ số tương quan r = 0,92 và xác suất P<0,01 (Hình 4.1). Hình 4.1: Mối tương quan giữa vật chất khô ăn vào (% KL) với lượng protein thô ăn vào (kg/con/ngày) của bò thí nghiệm 2 Ngọn lá mì tươi ăn vào hàng ngày thấp hơn so với NM khô và ủ chua, sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,05). Có thể hàm lượng HCN trong NM tươi cao gấp 2,8 lần so với NM khô và ủ chua. Do cyanogenic glycosides (linamarin) trong NM tươi khi bò ăn vào sẽ thủy phân phóng thích hydrogen cyanua (HCN) có vị đắng, từ đó làm giảm lượng tiêu thụ NM tươi hàng ngày. Điều này cũng phù hợp xu hướng nghiên cứu của Kounnavongsa et al. (2010) đã cho thấy dê tiêu thụ lượng lá mì tươi hàng ngày thấp hơn so lá mì khô. Các nghiệm thức thay thế NM có vật chất khô thức ăn ăn vào dao động là 2,18 – 2,26% KL. Kết quả này phù hợp với tài liệu của McDonald et al. (2002) đã cho thấy VCK ăn vào của bò thịt là 2,2% KL. Kết quả này tương đương với nghiên cứu trên trâu của Chanjula et al. (2004) khi bổ sung 20% LM khô trong khẩu phần rơm ủ urê có VCK ăn vào là 2,1% KL, nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Dương Nguyên Khang and Wiktorsson (2000, 2004) bổ sung 20% LM khô, ủ chua trong khẩu phần rơm ủ urê có VCK ăn vào lần lượt là 2,4% và 2,5% KL. Do lượng thức ăn ăn vào hàng ngày phụ 67 thuộc vào khối lượng bò, loại khẩu phần và chất lượng thức ăn (McDonald et al., 2002). Lượng chất hữu cơ, protein thô, xơ trung tính, tanin đậm đặc, HCN và năng lượng ăn vào của bò thí nghiệm 2 được trình bày bảng 4.8. Bảng 4.8: Lượng dưỡng chất và năng lượng trao đổi ăn vào của bò thí nghiệm 2 (VCK) Chỉ tiêu theo dõi Nghiệm thức SEM P NM-0 NMK-20 NMU-20 NMT-20 CHC, kg/con/ngày 2,92 b 3,38 a 3,40 a 3,27 a 0,05 <0,01 NDF, kg/con/ngày 1,72 b 1,90 a 1,92 a 1,89 a 0,03 0,01 CP, g/con/ngày 330 b 441 a 436 a 419 a 5,26 <0,01 CP, g/100kg KL 199 b 269 a 262 a 253 a 3,72 <0,01 ME, MJ/con/ngày 27,3 b 32,5 a 32,5 a 31,4 a 0,44 <0,01 ME, MJ/kg W 0,75 0,59 b 0,71 a 0,70 a 0,68 a 0,01 0,01 Tanin 1 , g/con/ngày 0,00 c 22,3 a 22,1 ab 19.2 b 0,61 <0,01 HCN, mg/kg KL 0,00 c 1,32 b 1,27 b 3,07 a 0,06 <0,01 HCN, mg/con/ngày 0,00 c 216 b 210 b 508 a 12,8 <0,01 CHC: chất hữu cơ, CP: protein thô, NDF: xơ trung tính, KL: khối lượng bò, HCN: hydrogen cyanua. ME: năng lượng trao đổi, W0,75: khối lượng trao đổi chất. NM-0,NMK-20, NMU-20, NMT-20 là mức độ thay thế ngọn lá mì khô, ủ chua, tươi: 0 và 20% vào khẩu phần cỏ voi, 1: tanin đậm đặc, KP: khẩu phần. Các số trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey Lượng chất hữu cơ và xơ trung tính ăn vào hàng ngày tăng rất tốt các nghiệm thức thay thế NM (P<0,01), do các dưỡng chất ăn vào tỉ lệ thuận với vật chất khô ăn vào (Bảng 4.7). Chất hữu cơ, xơ trung tính ăn vào (kg/con/ngày) thấp nhất nghiệm thức NM-0 lần lượt là 2,92 và 1,72 kg, tăng cao các nghiệm thức thay thế NM dao động lần lượt trong khoảng 3,27 – 3,40 kg và 1,89 – 1,92 kg. Hàm lượng xơ trung tính tính theo % trong khẩu phần dao động trong khoảng 51 – 53,3% (Bảng 3.4) thấp hơn so với nghiên cứu trên bò lai Sind của Danh Mô và Nguyễn Văn Thu (2009) là 63% và nghiên cứu của Nguyễn Văn Thu và Nguyễn Thị Kim Đông (2015) là 63,5%. Vậy hàm lượng NDF trong khẩu phần không ảnh hưởng đến VCK ăn vào. Lượng protein thô ăn vào dao động trong khoảng lần lượt 330 – 441 g/con/ngày và 199 – 269 g/100kg KL, tăng rất cao các nghiệm thức thay thế NM (P<0,01). Lượng protein thô ăn vào các nghiệm thức thay thế NM khô, NM ủ chua và NM tươi dao động trong khoảng 419 – 441 g/con/ngày. Kết quả này phù hợp với tài liệu của Đinh Văn Cải (2007) bò có khối lượng 136 – 181 68 kg, tăng khối lượng 453 g/con/ngày thì nhu cầu protein thô ăn vào 430 – 489 g/con/ngày. Năng lượng trao đổi tiêu thụ hàng ngày (MJ/con/ngày và MJ/kg W0,75) của các nghiệm thức dao động trong phạm vi lần lượt là 27,3 – 32,5 MJ và 0,59 – 0,71 MJ; tăng rất tốt các nghiệm thức thay thế NM khô, ủ chua và tươi (P<0,05). Các nghiệm thức thay thế NM có năng lượng trao đổi ăn vào dao động trong khoảng 31,4 – 32,5 MJ/con/ngày. Kết quả này tương đương với tiêu chuẩn Kearl (1982), bò có khối lượng là 150 kg, tăng khối lượng 500 g/ngày, nhu cầu ME là 33,6 MJ/con/ngày. Các nghiệm thức thay thế NM có số lượng tanin đậm đặc ăn vào dao động trong khoảng 19,2 – 22,3 g/con/ngày, thấp nhất nghiệm thức NMT-20. Khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Hàm lượng tanin đậm đặc ăn vào các nghiệm thức thay thế NM chiếm tỉ lệ 0,5 – 0,6% trong khẩu phần (Bảng 3.4) không thấy ảnh hưởng đến VCK ăn vào. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu Chanjula et al. (2004) thay thế 50% LM khô trong khẩu phần rơm ủ urê không ảnh hưởng đến VCK ăn vào và TLTH dưỡng chất thức ăn. Tương tự, nghiên cứu của Beauchemin et al. (2007) bổ sung 2% chất tanin từ cây thức ăn quebracho trong khẩu phần ăn cho bò không ảnh hưởng đến vật chất khô ăn vào và TLTH các dưỡng chất thức ăn. Các nghiệm thức thay thế NM có số lượng HCN ăn vào dao động trong khoảng 1,27 – 3,07 mg/kg KL hoặc 210 – 508 mg/con/ngày, cao nhất nghiệm thức NMT-20. Khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Số lượng HCN ăn vào của các nghiệm thức thay thế NM không thấy ảnh hưởng đến sức khỏe trên bò và VCK ăn vào. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Majak and Cheng (1984) liều gây độc tối thiểu của HCN trên bò là 5,1 mg/kg KL. Tương tự, khi bò cho ăn khẩu phần bổ sung NM tươi và khô thì không thấy ảnh hưởng giữa NM tươi và khô đến TLTH các dưỡng chất thức ăn, nồng độ N-NH3 và vi sinh vật dạ cỏ (Promkot and Wanapat, 2009; Wora-anu et al., 2007). Vậy hàm lượng tanin đậm đặc và hàm lượng HCN trong NM khô, ủ chua và tươi khi thay thế với mức 20% trong khẩu phần nuôi bò lai Sind chưa thấy ảnh hưởng đến VCK ăn vào và sức khỏe bò. Nhìn chung bò thí nghiệm tiêu thụ các dưỡng chất như VCK, CHC, NDF, CP và ME tăng rất tốt ở các nghiệm thức thay thế NM khô, ủ chua và tươi. Nên khẩu phần thí nghiệm được bổ sung thêm protein và ME của NM, đã cải thiện hoạt động của vi sinh vật dạ cỏ làm tăng đáng kể lượng thức ăn và dưỡng chất tiêu thụ trên bò (McDonal et al., 2002). 69 4.2.2 Tỉ lệ tiêu hóa các dƣỡng chất thức ăn và cân bằng nitơ của bò thí nghiệm 2 Tỉ lệ tiêu hóa các dưỡng chất thức ăn như vật chất khô (VCK), chất hữu cơ (CHC), protein thô (CP) và xơ trung tính (NDF) của bò thí nghiệm 2 được trình bày qua bảng 4.9. Bảng 4.9: Tỉ lệ tiêu hóa các dưỡng chất thức ăn và cân bằng nitơ của bò thí nghiệm 2 Chỉ tiêu Nghiệm thức SEM P NM-0 NMK-20 NMU-20 NMT-20 Tỉ lệ tiêu hóa, % Vật chất khô 51,8b 60,9a 60,1a 59,0a 1,18 0,01 Chất hữu cơ 53,9b 64,6a 63,5a 62,7a 1,11 <0,01 Protein thô 60,3 b 68,8 a 68,0 a 67,4 a 0,92 <0,01 Xơ trung tính 52,9b 60,9a 59,9a 59,2a 1,18 0,01 Cân bằng nitơ, g/con/ngày Nitơ ăn vào 52,8b 70,6a 69,7a 67,0a 0,84 <0,01 Nitơ thải ra 29,2b 35,5a 36,2a 37,2a 0,45 <0,01 Nitơ tích lũy 23,5b 35,1a 33,5a 29,8a 1,18 <0,01 Nitơ tích lũy, g/kg W0.75 0,51b 0,76a 0,72a 0,65a 0,03 <0,01 NM-0, NMK-20, NMU-20, NMT-20 là mức độ thay thế ngọn lá mì khô, ủ chua, tươi: 0, 20% vào khẩu phần cỏ voi. W0,75: khối lượng trao đổi chất. Các số trung bình trong cùng một hàng mang các chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01 theo phép thử tukey Bảng 4.9 cho thấy tỉ lệ tiêu hóa VCK, CHC, CP cao nhất các nghiệm thức thay thế NM khô, ủ chua và tươi trong khẩu phần cỏ voi. Sự khác biệt này rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,01). Tỉ lệ tiêu hóa VCK, CHC, CP của các nghiệm thức thay thế NM đạt trên 60% tương đương với nghiên cứu của Chu Manh Thang et al. (2010) bổ sung 22% lá mì khô trong khẩu phần ăn của bò. Tương tự, theo nghiên cứu của Yuang TLang et al. (2001) tỉ lệ tiêu hóa chất hữu cơ trên trâu của NM khô là 62%. Kết quả bảng 4.9 cho thấy bò thí nghiệm cho ăn khẩu phần cỏ voi có thay thế 20% NM khô, ủ chua và tươi đã cải thiện TLTH thức ăn tăng 7 – 9%. Kết quả này tương đương với nghiên cứu trên bò sữa của Đoàn Đức Vũ và ctv. (2002) bổ sung lá mì khô 2,0 kg/con/ngày đã làm tăng tỉ lệ tiêu hóa thức ăn 7 – 10%. Tương tự, nghiên cứu trên bò cho thấy khi bổ sung LM khô 0,6 – 1,0 kg/con/ngày làm tăng rõ rệt TLTH các dưỡng chất thức ăn so với lô đối chứng (Vongsamphanh and Wanapat, 2004; Granum et al., 2007). 70 Ngoài ra, nghiên cứu trên trâu của Trịnh Văn Trung et al. (2007) bổ sung LM khô 1,0 kg/con/ngày trong khẩu phần cỏ voi có tỉ lệ tiêu hóa VCK, CHC, CP tăng trong khoảng 6,8 – 16,6% và có giá trị lần lượt là 62,2; 65,3 và 64,7%. Tương tự, nghiên cứu của Phengvilaysouk and Wanapat (2008) bổ sung LM khô 1,0 kg/con/ngày trong khẩu phân rơm khô có TLTH VCK, CHC, CP tăng trong phạm vi 5,6 – 10,8% và có giá trị lần lượt 58,4%, 59,8% và 61%. Điều này cùng xu hướng với thí nghiệm trên trâu của Chanjula et al. (2004) cho ăn bổ sung LM khô là 20% VCK trong khẩu phần làm tăng TLTH các dưỡng chất thức ăn so với lô đối chứng. Kết quả bảng 4.9 có thể lý giải như sau: Đối với thức ăn cho bò chủ yếu là chất xơ, chúng được tiêu hóa chính nhờ vào VSV lên men trong dạ cỏ. Vi sinh vật dạ cỏ sống và hoạt động tốt phải cần nguồn năng lượng cần thiết cho duy trì và phân giải thức ăn, ngoài ra chúng cần nitơ ở dạ cỏ để tổng hợp nên protein cho chúng. Cỏ voi là thức ăn nhiều chất xơ, ít protein nên TLTH các dưỡng chất thức ăn thấp hơn các nghiệm thức thay thế NM. Nghĩa là việc thay thế cỏ voi bằng NM trong khẩu phần đã bổ sung thêm năng lượng và protein thô (Bảng 4.8). Ngoài ra, lá mì rất giàu các axít amin thiết yếu (Wanapat et al., 2000) và cũng chứa hàm lượng các chất khoáng rất cao (Fasuji, 2005). Từ nội dung trên cho thấy khi thay thế cỏ voi bằng NM trong khẩu làm tăng số lượng vi khuẩn phân giải thức ăn ở dạ cỏ (bảng 4.11), giúp cho quá trình lên men phân giải thức ăn tốt hơn từ đó làm tăng TLTH các dưỡng chất thức ăn (Vongsamphanh and Wanapat, 2004; Granum et al., 2007). Hàm lượng HCN trong NM tươi cao gấp 2,8 lần so NM khô và ủ chua (Bảng 3.2). Khi thay thế vào khẩu phần cỏ voi không thấy ảnh hưởng đến TLTH dưỡng chất thức ăn. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu trước đây cho thấy bổ sung LM tươi và khô vào khẩu phần thức ăn trên bò không ảnh hưởng đến TLTH các dưỡng chất thức ăn (Promkot and Wanapat, 2009; Wora-anu et al., 2007). Hàm lượng HCN tiêu thụ hàng ngày của bò thí nghiệm cao nhất ở NT NMT-20 là 508 mg/con/ngày (Bảng 4.8). Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Promkot and Wanapat (2009) cho thấy hàm lượng HCN ăn vào 1180 – 1256 mg/con/ngày không ảnh hưởng đến TLTH dưỡng chất thức ăn, số lượng vi khuẩn, protozoa và nấm trong dạ cỏ. Vậy khi thay thế 20% NM tro
File đính kèm:
luan_an_anh_huong_ngon_la_khoai_mi_manihot_esculenta_crantz.pdf
bialuanan.pdf
Biatomtatluanan-vi.pdf
Biatomtattienganh-en.pdf
Muc luc 4.2016.pdf
PHU LUC 4.2016.pdf
Thongtinluanan-en.pdf
Thongtinluanan-vi.pdf
Tomtatluanan-en.pdf
Tomtatluanan-vi.pdf