Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 1

Trang 1

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 2

Trang 2

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 3

Trang 3

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 4

Trang 4

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 5

Trang 5

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 6

Trang 6

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 7

Trang 7

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 8

Trang 8

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 9

Trang 9

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 163 trang nguyenduy 11/10/2025 100
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ

Luận án Bệnh tiểu đường trên chó tại các Quận huyện Thành phố Cần Thơ
 máu HbA chiếm 
khoảng 97-98%, HbA2 chiếm khoảng 2,5% và HbF khoảng 0,5%. HbA gắn 
với glucose tại đoạn cuối với amino acid valin của chuỗi β. 
Giá trị trung bình của insulin trên nhóm giống chó nội là 12,53 
µIU/mL thấp hơn giống chó ngoại (12,61 µIU/mL) và không khác biệt về 
mặt thống kê (P>0,05). Kết quả này khá phù hợp với nhận định của Hine, 
2013, tác giả cho rằng hoạt lực insulin trên chó khỏe mạnh hoàn toàn không 
phụ thuộc vào nhóm giống. 
4.1.3 Giá trị trung bình chung của hằng số sinh hóa glucose, 
glycohemoglobin (HbA1c) và insulin trên chó khỏe theo giới tính 
Các giá trị trung bình chung của hằng số sinh hóa glucose, HbA1c và 
insulin trên chó khỏe theo giới tính được trình bày trong Bảng 4.3. 
Bảng 4.3: Trung bình chung của HbA1c và insulin trên chó theo giới tính 
Chỉ tiêu Giới tính SL khảo sát (con) 
Glucose (mg/dL) Đực 240 83,76±11,51 
Cái 240 84,16±11,01 
HbA1c (%) Đực 240 4,19±0,84 
 Cái 240 4,35±0,82 
Insulin (µIU/mL) Đực 240 12,17±4,62 
 Cái 240 12,97±3,65 
SL: Số lượng 
62 
Kết quả Bảng 4.3 cho thấy, giá trị trung bình của HbA1c trên chó cái 
là 4,35% cao hơn trên chó đực (4,19%). Tuy nhiên, hai giá trị khác nhau 
không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Kết quả này khá phù hợp với kết quả 
nghiên cứu Marca and Loste (2000), tác giả đã định lượng HbA1c trên 86 
con chó khỏe mạnh và kết luận rằng HbA1c không phụ thuộc vào giới tính. 
Giá trị trung bình của glucose trên chó đực là 83,76 mg/dL thấp hơn 
chó cái (84,16 mg/dL) và giá trị trung bình insulin trên chó đực là 12,17 
µIU/mL thấp hơn chó cái (12,97 µIU/mL). Bởi vì chó cái có những thay đổi 
về kích thích tố sinh sản trong quá trình động dục có thể gây kháng insulin 
tạm thời làm tăng glucose trong máu ở một giai đoạn nhất định (Vosough, 
2003). Thêm vào đó, Fall (2007), cũng cho rằng mức progesterone nội sinh 
trên chó cái tăng cao trong quá trình động dục có thể dẫn đến hàm lượng 
hormone tăng trưởng có nguồn gốc tuyến vú tăng cao, từ đó làm tăng sự đề 
kháng insulin dẫn đến tăng insulin trong máu. Về mặt sinh lý insulin là 
hormone do tế bào β của tuyến tụy tiết ra chủ yếu để phản ứng với glucose, 
giúp vận chuyển glucose từ thức ăn vào các tế bào dùng làm năng lượng. 
Tuy nhiên sự sai khác giá trị trung bình của glucose và insulin trên chó cái 
và chó đực không có ý nghĩa về mặt thống kê (P>0,05). Vì vậy, hàm lượng 
glucose máu, nồng độ HbA1c và hoạt lực insulin trên chó khỏe không phụ 
thuộc vào giới tính. Kết quả này phù hợp với nhận định của Malin (2010), 
tác giả cho rằng trên chó khỏe mạnh bình thường, hầu như giới tính không 
ảnh hưởng đến sự tiết insulin. 
4.1.4 Giá trị trung bình chung của hằng số sinh hóa glucose 
glycohemoglobin (HbA1c) và insulin trên chó khỏe theo tuổi 
Lứa tuổi là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến tình 
trạng sức khỏe cũng như bệnh tật của chó. Giá trị trung bình của glucose, 
HbA1c và insulin theo độ tuổi được trình bày trong Bảng 4.4. 
Bảng 4.4 cho thấy, nhóm I (Tuổi <1) có giá trị trung bình glucose 
83,47 mg/dL, nhóm tuổi II (1≤ Tuổi ≤4) với giá trị trung bình của glucose 
là 83,25 mg/dlL, nhóm tuổi III (4< Tuổi ≤7) là 85,00 mg/dL, nhóm chó có 
độ tuổi lớn, nhóm IV (>7 năm) có hàm lượng glucose trong máu cao nhất 
92,05 mg/dL. Điều này có thể do quá trình tổng hợp và thoái hóa glycogen 
ở gan và cơ xảy ra chậm trong nhóm chó này. Glucose vào máu qua hai cơ 
chế: Hấp thu từ ruột non thông qua sự tiêu hóa thức ăn và quá trình thoái 
hóa glycogen, sự đồng phân fructose, galactose và tân sinh đường từ acid 
63 
amin. Tiến trình hấp thu thay đổi theo mức độ hoạt động của thyroxine và 
hormone ở bộ máy tiêu hóa. Tất cả các điều kiện tác động lên tiến trình tiêu 
hóa của dạ dày ruột điều ảnh hưởng đến hấp thu glucose. Gan là nguồn 
cung cấp chính để duy trì hàm lượng glucose trong máu. Epinephrin và 
glucagon thúc đẩy phóng thích glucose từ glycogen. Glucocorticoid thúc 
đẩy quá trình tân sinh glucose, đối kháng với tác động giảm glucose máu 
của insulin. Tất cả các mô bào cùng sử dụng glucose đều đặn trong quá 
trình tạo năng lượng, trong quá trình chuyển đổi thành sản phẩm khác 
(glycogen, pentose, mỡ hay acid amin). Vì thế glucose chuyển từ dòng máu 
ra được điều khiển bởi tốc độ sử dụng glucose ở mô bào vào tất cả các thời 
điểm. Insulin làm tăng tốc độ sử dụng glucose bằng cách vận chuyển vào 
bắp cơ hoặc mô mỡ hoặc phosphoryl hóa ở gan (Đỗ Trung Quân, 2013). 
Tuy nhiên, các giá trị glucose trên chó khỏe mạnh theo nhóm tuổi khác 
nhau không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). 
Bảng 4.4: Giá trị trung bình hằng số glucose, HbA1c và insulin trên chó khỏe theo 
nhóm tuổi 
Chỉ tiêu Nhóm tuổi (năm) SL khảo sát (con) 
Glucose (mg/dL) I (Tuổi <1) 120 83,47±12,62 
 II (1≤ Tuổi ≤4) 120 83,25±11,65 
 III (4< Tuổi ≤7) 120 85,00±11,76 
 IV (Tuổi >7) 120 92,05±12,15 
HbA1c (%) I (Tuổi <1) 120 4,36±1,02 
 II (1≤ Tuổi ≤4) 120 4,17±0,84 
 III (4< Tuổi ≤7) 120 4,27±0,82 
 IV (Tuổi > 7) 120 4,44±0,85 
Insulin (µIU/mL) I (Tuổi <1) 120 13,40±3,51 
 II (1≤ Tuổi ≤4) 120 12,52±4,09 
 III (4< Tuổi ≤7) 120 12,58±3,73 
 IV (Tuổi >7) 120 11,80±3,95 
SL: Số lượng 
Giá trị trung bình HbA1c tăng dần theo độ tuổi và cao nhất ở nhóm 
chó già, chó lớn hơn 7 năm tuổi (4,54±1,02). HbA1c phản ánh mức glucose 
máu trong vòng trên dưới 8 tuần trước khi đo vì thế nồng độ HbA1c cao khi 
lượng đường trong máu tăng cao kéo dài trong suốt khoảng thời gian 2 
tháng (American Diabetes Association, 2011). Tuy nhiên, các giá trị trung 
bình của HbA1c theo nhóm tuổi trên chó khác nhau không có ý nghĩa về 
mặt thống kê (P>0,05). Kết quả này phù hợp với nhận định của Catchpole 
et al., 2008, tác giả cho rằng HbA1c không phụ thuộc vào độ tuổi của chó. 
64 
Khác với giá trị của HbA1c, giá trị trung bình của hoạt lực insulin trên 
chó khỏe giảm dần theo độ tuổi, cụ thể như sau nhóm chó có độ tuổi I (<1 
năm tuổi) giá trị trung là 13,40 µIU/mL; nhóm chó có độ tuổi II (1≤ Tuổi 
≤4) là 12,58; nhóm chó III (47 
năm tuổi có giá trị insulin trung bình thấp nhất là 11,8 µIU/mL. Bởi lẽ, chó 
càng già sức đề kháng càng kém dễ phát sinh bệnh nhất là sự rối loạn 
chuyển hóa carbohydrate trong gan. Hơn nữa, chó càng già thì sự thoái hóa 
về cấu trúc và suy giảm về chức năng của tế bào nói chung, tế bào β của 
tuyến tụy nói riêng và làm giảm xuất tiết insulin, đồng thời làm giảm độ 
nhạy của thụ thể tế bào đích với insulin dẫn đến suy yếu chức năng tiết 
insulin vào máu (Richard et al., 2005). Tuy nhiên, sự khác biệt các giá trị 
trung bình của hoạt lực insulin trên chó giữa các nhóm tuổi khác nhau 
không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Kết quả này cũng khá phù hợp với 
nhận định của Ron Hine (2013) 
4.1.5 Giá trị trung bình của glucose, HbA1c và insulin trên chó 
khỏe theo nhóm trọng lượng 
Các giá trị trung bình nồng độ hằng số glucose, HbA1c và insulin trên 
chó khỏe theo nhóm trọng lượng được trình bày trong Bảng 4.5. 
Bảng 4.5: Trung bình nồng độ hằng số glucose, HbA1c và insulin trên chó khỏe 
theo nhóm trọng lượng 
Chỉ tiêu Trọng lượng (Kg) SLkhảo sát (con) 
Glucose (mg/dL) A (TL <9) 160 83,95±12,45 
 B (9 < TL ≤ 20) 160 85,41±11,86 
 C (TL >20) 160 85,46±11,24 
HbA1c (%) A (TL < 9) 160 4,3±0,86 
 B (9< TL ≤ 20) 160 4,28±0,91 
 C (TL >20) 160 4,44±0,84 
Insulin (µIU/mL) A (TL <9) 160 12,18±4,02 
 B (9< TL ≤ 20) 160 12,74±4,14 
 C (TL >20) 160 12,79±3,6 
SL: Số lượng; TL: Trọng lượng 
Giá trị trung bình glucose trong nhóm trọng lượng A là 83,95 mg/dL, 
nhóm B là 85,41 mg/dL, 85,46 mg/dL giá trị trung bình của glucose trên 
nhóm chó có trọng lượng C. Các giá trị trung bình này khác nhau không 
có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Kết quả này phù hợp với nhận định của 
65 
Malin (2010), tác giả cho rằng hàm lượng glucose trên máu ngoại vi của 
chó không phụ thuộc vào trọng lượng cơ thể chó. 
Thuật ngữ HbA1c dùng để chỉ hemoglobin (Hb) bị glycosyl hóa 
(Glycosylate). Hồng cầu trong quá trình lưu hành làm chức năng hô 
hấp có một tỷ lệ nhỏ Hb sẽ gắn kết với glucose máu để tạo nên phân tử 
HbA1c. Glucose có thể liên kết với Hb trong máu ở bất kỳ thời gian nào 
trong suốt đời sống của hồng cầu (Bunn et al., 1978), quá trình liên kết 
này là không thể đảo ngược và tỉ lệ HbA1c sẽ tăng lên theo lượng đường 
trong máu (American Diabetes Association, 2011). 
Giá trị trung bình của HbA1c trên nhóm chó có trọng lượng nhỏ, 
nhóm A là 4,3 %, nhóm B là 4,28 %, nhóm C là 4,44%. Giá trị trung bình 
của HbA1c giữa các nhóm trọng lượng khác nhau không có ý nghĩa thống 
kê (P>0,05). Vì vậy HbA1c trên chó khỏe không phụ thuộc vào trọng 
lượng của chó (Catchpole et al., 2008). 
Insulin là một hormone được tiết ra ở tế bào ß của đảo tụy, khi lượng 
đường trong máu tăng thì kích thích tuyến tụy tiết insulin để giúp tế bào 
đích hấp thu năng lượng. Quá trình tiết của insulin diễn ra trong cơ thể rất 
nhịp nhàng thông qua các chất chuyên chở GLUT2, GLUT4 và tỷ số năng 
lượng ATP/ADP (Rutter, 2001; Richardson, 2007). Nồng độ insulin trung 
bình trong máu khi đói là 10 µIU/mL. Thông thường, nồng độ insulin 
ngoại vi tăng lên sau ăn 8-10 phút, đạt đỉnh cao sau 30-45 phút và trở về 
giá trị cơ bản bình thường sau 90-120 phút (Đỗ Trung Quân, 2013). 
Giá trị trung bình của insulin nhóm chó trọng lượng A là 12,18 
µIU/mL, nhóm chó trọng lượng trung bình B là 12,74 µIU/mL và nhóm có 
trọng lượng lớn nhóm C có giá trị trung bình của insulin là 12,79 µIU/mL. 
Mẫu máu để định lượng hoạt lực insulin trên chó khỏe mạnh được lấy khi 
chó bị nhịn đói (sau 8 giờ không ăn) nên giá trị trung bình của insulin giữa 
3 nhóm trọng lượng chó khỏe ít thay đổi. Các giá trị này khác nhau không 
có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Vì vậy, hoạt lực insulin không phụ thuộc 
vào nhóm trọng lượng trên chó khỏe mạnh. 
4.1.6 Xác định giá trị sinh hóa glycohemoglobin (HbA1c) và 
insulin trong máu chó tiểu đường 
Các giá trị sinh hóa glycosylated hemoglobin (HbA1c) và insulin 
trong máu chó tiểu đường được trình bày trong Bảng 4.6. 
66 
Bảng 4.6: Trung bình hằng số glucose, HbA1c và insulin trên chó tiểu đường theo 
nhóm hàm lượng đường huyết 
Mức đường 
huyết 
SLKS 
(con) 
HbA1c (%) Insulin (µIU/mL) 
ĐBĐ ĐBĐ 
108 < ĐH < 180 20 5,2-6,3 5,36a±0,64 5-14 9,72b±3,53 
180 ≤ ĐH ≤ 250 10 6,4-7,3 6,77b±0,59 2,4-25 13,74a±10,73 
ĐH > 250 10 6,6-10 7,48b±1,18 2,01-28 12,12b±11,74 
a,b Các giá trị mang chữ cái khác nhau trong cùng một cột sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) 
SLKS: Số lượng khảo sát; ĐBĐ: Độ biến động 
Bảng 4.6 thể hiện, giá trị trung bình của HbA1c tỷ lệ thuận với nồng 
độ đường trong máu. Thực tế cho thấy, giá trị trung bình của HbA1c của 20 
con chó trong nhóm đường huyết (108< ĐH <180 mg/dL) là 5,36% và dao 
động trong khoảng 5,2-6,3%. Cả 20 trường hợp này chưa xuất hiện triệu 
chứng lâm sàng đặc trưng của bệnh tiểu đường (tiểu đường tiền lâm sàng) 
phần lớn chúng được phát hiện tiểu đường khi được chỉ định xét nghiệm 
thăm dò bệnh khác. Có thể nói, những trường hợp này đang ở giai đoạn đầu 
của bệnh tiểu đường nên thời gian để glucose gắn vào hemoglobin (Hb) 
ngắn (Davison, 2003; Catchpole et al., 2008; Malin, 2010). 
Trong nhóm đường huyết (180≤ ĐH ≤250 mg/dL), giá trị trung bình 
của HbA1c là 6,77% và giá trị trung bình của HbA1c trong nhóm đường 
huyết (ĐH >250 mg/dL) là 7,48%. Số chó trong 2 nhóm đường huyết này 
đều xuất hiện triệu chứng lâm sàng rõ ràng nên giá trị trung bình của 2 
nhóm này không thể hiện tính khác biệt với P>0,05. Tuy nhiên, chúng khác 
biệt rất có ý nghĩa thống kê (P<0,01) với nhóm đường huyết (108≤ ĐH 
≤180 mg/dL) - nhóm tiểu đường tiền lâm sàng. Vì vậy, nồng độ HbA1c phụ 
thuộc hoàn toàn vào nồng độ đường huyết. American Diabetes Association 
(2011) cũng khẳng định rằng, sự hình thành HbA1c xảy ra chậm 0,05% 
trong ngày và tồn tại suốt trong đời sống hồng cầu (120 ngày), thay đổi sớm 
nhất trong vòng 4 tuần, quá trình liên kết này là không thể đảo ngược và tỉ 
lệ Hb bị Glycosyl hóa sẽ tăng lên theo hàm lượng đường trong máu. Kết 
quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả của Mahaffey (1982), tác giả 
tiến hành thí nghiệm tại bộ môn Nội khoa Thú Y của trường Cao đẳng 
Chăn nuôi - Thú y Nippon, Tokyo, Nhật Bản. Tác giả đã đo 
glycohemoglobin (HbA1c) trên 40 con chó tiểu đường của 16 phòng mạch 
Thú Y trên 3 mức đường huyết khác nhau. Kết quả là giá trị trung bình của 
HbA1c trong 3 nhóm tương ứng 5,62%, 6,43%, 9,63%. Giá trị HbA1c của 
67 
nhóm 1 khác nhau rất có ý nghĩa thống kê với nhóm 2 và 3 (P<0,05). Tác 
giả khẳng định rằng HbA1c rất có giá trị trong chẩn đoán bệnh tiểu đường 
và theo dõi hiệu quả điều trị của bệnh tiểu đường trên chó. 
Giá trị trung bình của insulin trong nhóm đường huyết (108< ĐH 
<180 mg/dL) là 9,72 µIU/mL; trong nhóm đường huyết (180≤ ĐH ≤250 
mg/dL) có giá trị trung bình của insulin là 10,74 µIU/mL; trong nhóm 
đường huyết (ĐH >250 mg/dL) nồng độ trung bình của insulin là 12,12%. 
Điều này thể hiện giá trị trung bình của insulin trên chó tiểu đường còn nằm 
trong giới hạn sinh lý insulin bình thường (5-20 µIU/mL) và tăng dần theo 
nồng độ đường trong máu. Tuy nhiên sự khác biệt của giá trị này là không 
có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Insulin trong nhóm chó tiểu đường tiền lâm 
sàng có hoạt lực dao đông trong (5-14 µIU/mL) và còn trong giới hạn sinh 
lý insulin bình thường (5-20 µIU/mL). Kết quả này khá phù hợp với nhận 
định của Đỗ Trung Quân (2013), tác giả cho rằng giai đoạn đầu của bệnh 
tiểu đường quá trình tiết insulin hầu như rất ít thay đổi. 
Trong hai nhóm đường huyết (180≤ ĐH ≤250 mg/dL) và (ĐH >250 
mg/dL) thuộc nhóm chó tiểu đường lâm sàng nên hoạt lực insulin nằm 
trong khoảng dao động rất khác so với mức sinh lý bình thường (5-20 
µIU/mL) và độ lệch (SD) cũng rất lớn. Nhóm đường huyết (180≤ ĐH ≤250 
mg/dL) có hoạt lực insulin dao động trong khoảng 2,4-25 mg/dL và SD là 
10,73 mg/dL. Nhóm đường huyết (ĐH >250 mg/dL) có hoạt lực insulin dao 
động trong khoảng 2.01-28 mg/dL và SD là 11,47 mg/dL. Theo AAHA 
(2010) ở mức đường huyết cao (ĐH >250 mg/dL), con thú đã xuất hiện dấu 
hiệu toàn thân chẳng hạn như chán ăn, mất nước, ói mửa, có thể hôn mê, 
suy nhược, thể trạng kém gây rối loạn quá trình tiết insulin. Kết quả này 
khá phù hợp với Porte and Kahn (1995), tác giả cho rằng rối loạn tiết 
insulin do suy chức năng tế bào β của tuyến tụy; ở giai đoạn đầu của sự 
tăng glucose trong máu thì nồng độ insulin trong máu tăng hoặc bình 
thường, đến giai đoạn sau khi glucose trong máu lớn hơn 180 mg/dl (10 
mmol/L) các rối loạn chức năng tiết insulin của tế bào β thể hiện rõ rệt. Khi 
glucose trong máu tăng insulin được tiết ra rất chậm so với mức đường 
huyết. Nếu glucose máu tiếp tục tăng, lượng insulin lúc này không những 
không tăng mà sẽ giảm xuống từ từ. 
Trong hai nhóm đường huyết (180≤ ĐH ≤250 mg/dL) và (ĐH >250 
mg/dL) xuất hiện 8 trường hợp có hoạt lực insulin rất thấp (2,1-4,8 
68 
µIU/mL) thấp hơn mức sinh lý bình thường (5-20 µIU/mL). Những trường 
hợp này có thể do giảm tiết insulin của hư hại tế bào β ở đảo tụy; 4 trường 
hợp có hoạt lực insulin ở mức sinh lý bình thường dao động trong khoảng 
12-20 mg/dL; 8 trường hợp có hoạt lực insulin ở mức cao hơn mức sinh lý 
bình thường dao động trong khoảng 21-28 mg/dL. Những trường hợp này 
có thể do kháng insulin, lúc này tế bào β hoạt động khác thường dẫn đến 
lượng insulin toàn phần có thể tăng hoặc bình thường (Richard, 2005). 
4.1.7 So sánh giá trị trung bình của glycohemoglobin (HbA1c) trên 
chó khỏe và chó tiểu đường 
Các giá trị trung bình của glycosylated hemoglobin (HbA1c) trên chó 
khỏe và chó tiểu đường được trình bày trong Bảng 4.7. 
Bảng 4.7: Giá trị trung bình của glycosylated hemoglobin (HbA1c) trên chó khỏe và 
chó tiểu đường 
Chỉ tiêu HbA1c 
Số lượng khảo sát 
(con) 
Độ biến động 
Chó khỏe 480 2,7- 6(*) 4,36a±0,83 
Chó tiểu đường tiền lâm sàng 20 5,2-6,3 5,36b±0,64 
Chó tiểu đường lâm sàng 20 6,4-10 7,13c±0,98 
a,b,c Các giá trị mang chữ cái khác nhau trong cùng một cột sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) 
(*) Hằng số 
Bảng 4.7 thể hiện, giá trị trung bình của HbA1c trên chó khỏe là 
4,36% và dao động trong khoảng 2,72-6%; trên chó tiểu đường tiền lâm 
sàng 5,36% và dao động trong khoảng 5,2-6,3%; trên chó tiểu đường lâm 
sàng 7,13% và dao động trong khoảng 6,4-10%. Những giá trị trung bình 
này khác nhau rất có ý nghĩa thống kê (P<0,01). HbA1c có thể được xem 
xét để sử dụng trong xét nghiệm sàng lọc cho bệnh tiểu đường ở chó và thử 
nghiệm lâm sàng để theo dõi kiểm soát và đánh giá các phản ứng của động 
vật mắc bệnh tiểu đường để điều trị. 
Kết quả khá phù hợp với nghiên cứu của Wood and Smith (1980), tác 
giả tiến hành xét nghiệm HbA1c bằng sắc ký lỏng trên 7 con chó bình 
thường và 7 con chó mắc bệnh tiểu đường. Kết quả chó mắc tiểu đường có 
HbA1c cao hơn so với chó khỏe (P<0,001). Một nghiên cứu của Hasegawa 
(1991), tác giả cho rằng các giá trị trung bình của chỉ số HbA1c trên chó 
tiểu đường cao hơn đáng kể so với những chó khỏe và khác nhau rất có ý 
69 
nghĩa thống kê với (P<0,01). Tác giả cho rằng ưu điểm của phương pháp 
này là để chẩn đoán và theo dõi hiệu quả của liệu pháp insulin trong điều trị 
bệnh tiểu đường trên chó. Elliott et al. (1997) cũng sử dụng phương pháp 
HPLC để xét nghiệm HbA1C và kết luận rằng: Trung bình HbA1c trên chó 
khỏe là 3,3±0,8% và trên chó tiểu đường 7,3±1,8%. Giá trị trung bình của 
hai nhóm chó này khác nhau rất có ý nghĩa thống kê (P<0,01). Thêm vào 
đó, Marca and Loste (2003), cũng cho rằng HbA1c phụ thuộc và nồng độ 
đường huyết trên chó. Catchpole et al., (2008) đã tiến hành định lượng 
HbA1c trên 112 con chó bị tiểu đường và tác giả kết luận rằng chỉ số 
HbA1c trên chó tiểu đường dao động trong khoảng 4,9-13,0%, trung bình 
9,3%. Tác giả cũng khẳng định HbA1c là chỉ tiêu hàng đầu để chẩn đoán và 
đánh giá hiệu quả điều trị tiểu đường trên chó. 
4.1.8 Tóm lại 
Qua quá trình khảo sát và phân tích kết quả bước đầu cho thấy 
- Hằng số nồng độ glucose trong máu mao mạch của chó khỏe mạnh là 
62-108 mg/dL. 
- Hằng số nồng độ glucose trong huyết tương của chó khỏe mạnh là 
70-121 mg/dL. 
- Hằng số nồng độ sinh hóa glycohemoglobin (HbA1c) trong máu của 
chó khỏe mạnh là 2,7-6,0% và nồng độ HbA1c không phụ thuộc vào nhóm 
giống, nhóm tuổi, nhóm trọng lượng và giới tính (P>0,05). 
- Nồng độ HbA1c trên chó tiểu đường tiền lâm sàng dao động trong 
khoảng 5,2-6,3% và trên chó tiểu đường lâm sàng là 6,4-10% 
- Nồng độ HbA1c khác nhau rất có ý nghĩa thống kê (P<0,01) giữa 
nhóm chó khỏe mạnh, nhóm chó tiểu đường tiền lâm sàng và nhóm chó tiểu 
đường lâm sàng. 
- Giá trị HbA1c trong khoảng 5,2-6,3%: tiểu đường tiền lâm sàng, 
mức nguy cơ bệnh tiểu đường. 
- Ngưỡng HbA1c ≥6,4% 
- Hằng số hoạt lực insulin trong huyết thanh của chó khỏe là 5-20 
µIU/mL 
- Hoạt lực insulin trong huyết thanh chó khỏe không phụ thuộc vào 
nhóm giống, nhóm tuổi, nhóm trọng lượng và giới tính (P>0,05). 
- Hoạt lực insulin trên chó tiểu đường tiền lâm sàng có giá trị trung 
bình dao động trong khoảng sinh lý bình thường 5-14 µIU/mL. 
70 
- Hoạt lực insulin trên chó tiểu đường lâm sàng dao động trong 
khoảng 2,1-28 µIU/mL với độ biến động lớn. 
4.2 Tình hình bệnh tiểu đường trên chó được nuôi dưỡng ở thành 
phố Cần Thơ (TPCT) 
Bệnh tiểu đường bao gồm một nhóm các bệnh trao đổi chất được đặc 
trưng bởi sự tăng quá mức glucose máu, do khiếm khuyết trong tiết insulin, 
và quá trình hoạt động của insulin, hoặc cả hai (ADA, 2013). Trong nhân y, 
bệnh tiểu đường là một vấn nạn lớn về sức khoẻ cộng đồng. Trong thú y, 
bệnh tiểu đường trên chó đã và đang được các nhà nghiên cứu rất quan tâm 
vì chó góp phần không nhỏ vào công cuộc nghiên cứu y sinh học và những 
tiến triển tự phát do rối loạn bệnh lý giống như người. Người ta dùng chó 
để khảo sát bệnh mới bệnh lạ trên người nên chó ngày càng có

File đính kèm:

  • pdfluan_an_benh_tieu_duong_tren_cho_tai_cac_quan_huyen_thanh_ph.pdf
  • docThông tin tieng viet Thao 11-7.doc
  • pdfTom tat luan an tieng anh Thảo in. 11-7doc.pdf
  • pdftom tat tieng viet thao chon in 11-7.pdf
  • doctrang tt LA tiếng anh Thảo in 11-7 (2).doc