Luận án Biện pháp cải thiện hệ thống canh tác tôm - lúa trên đất phèn nhiễm mặn ở vùng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Biện pháp cải thiện hệ thống canh tác tôm - lúa trên đất phèn nhiễm mặn ở vùng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Biện pháp cải thiện hệ thống canh tác tôm - lúa trên đất phèn nhiễm mặn ở vùng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang

ộ d ẫ n d iệ n b ã o h ò a đ ấ t v à n ƣ ớ c (m S /c m ) Nhóm ruộng ECe c b a 0 2 4 6 8 10 12 R-A R-B R-CG iá t rị p H đ ấ t b ã o h ò a v à n ƣ ớ c b ã o h ò a Nhóm ruộng pH đất 64 4.2.3.2 Hàm lƣợng Na+ trao đổi và sự sodic hoá trong đất Kết quả trình bày ở Bảng 4.6 cho thấy lượng Na+ hòa tan trong đất cao nhất ở ruộng có lúa chết (R-C), kế đến là nhóm ruộng lúa năng suất dưới 3,5 tấn/ha (R-B) và thấp nhất ở các ruộng có năng suất cao hơn 3,5 tấn/ha (R-A) (p< 0,05). Na + hoà tan cao có thể đưa đến tỷ lệ Na+/ K+, Na+/ Ca2+ và Na+/ Mg 2+ trong cây cao, gây rối loạn sự biến dưỡng và tổng hợp protein, gây bất lợi cho sự sinh trưởng của cây trồng (Hornecl et al., 2007). Tương tự, lượng Na + trao đổi trên phức hệ hấp thu cũng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa ba nhóm ruộng R-A, R-B và R-C. Trên nhóm ruộng lúa chết có Na+ trao đổi cao nhất, kế đến là nhóm có năng suất thấp và thấp nhất là ở nhóm năng suất lúa cao nhất. (p<0,05). Kết quả này cho thấy nhóm ruộng lúa chết 20-25 ngày sau sạ có Na trao đổi cao (3,4 cmol.kg-1), tác động bất lợi đến sự sinh trưởng của lúa. Theo nghiên cứu của James và Zelenski (2000) thì lượng Na+ trao đổi cao hơn 2 cmol.kg1 đất được đánh giá ở mức cao, cây trồng có triệu chứng ngộ độc do mặn và không thu được năng suất. Kết quả trình bày ở Hình 4.4 cho thấy phần trăm Na+ trao đổi, ESP (Exchange Sodium Percentage) đánh giá sự sodic hóa trong đất, cao nhất ở nhóm ruộng lúa bị chết R-C, 16,93%, kế đến R-B (14,09%) và thấp nhất ở nhóm R-Alà 9,99% (p<0,05). ESP cao hơn 15 và pH trên 8.5, đất trở nên kiềm và sodic hóa (Osman, 2018; Srivastava, 2020), Như vậy, bên cạnh lượng Na hoà tan cao trong đất gây mất cân đối dinh dưỡng, pH đất cao đến 8,9, lượng Na + trao đổi cao đến ngưỡng đất bị sodic hoá, đất đã trở thành đất mặn sodic, gây bất lợi về đăc tính hoá lý đất và dinh dưỡng cây trồng, đây là yếu tố quan trọng đưa đến lúa chết ở nhóm ruộng R-C. Với ESP thấp hơn, gần đạt ngưỡng 15%, năng suất lúa thấp dưới 3,5T/ha ở nhóm R-B.. 65 Bảng 4.6: Hàm lượng Na+ hòa tan và trao đổi trong đất của ba nhóm ruộng Nhóm ruộng Na + hòa tan Na+ trao đổi (cmol.kg -1 đất) R-A 10,9±2,2b 2,1±0,3c R-B 11,8±2,6b 3,4±0,2b R-C 14,5±1,4a 4.4±0,2a F * * CV (%) 2,6 2,7 Hình 4.4: Phần trăm Na+ trao đổi trong đất của ba nhóm ruộng khảo sát R-A: Nhóm ruộng lúa có năng suất từ 3,5 tấn/ha trở lên, R-B: Nhóm ruộng lúa năng suất dưới 3,5 tấn/ha, R-C: Nhóm ruộng lúa bị chết sau khi cấy 20-25 ngày; Các thanh (I) trong hình biểu diễn độ lệch chuẩn của các nghiệm thức; Các chữ cái khác nhau trên cột chỉ sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5% qua kiểm định Duncan. 4.2.3.3 Tỷ số cation trao đổi trong đất tại ba nhóm ruộng khảo sát Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ số giữa Ca2+/Na+ và K+/Na+ cao nhất ở các ruộng nhóm R-A, kế đến R-B và thấp nhất ở nhóm ruộng có R-C, khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 4.7). Trong đất mặn, lượng Na+ trao đổi cao, tỉ số Ca/Na và K/Na thấp là yếu tố bất lợi cho cây trồng hấp thu các chất dinh dưỡng, gây giảm năng suất lúa do sự mất cân đối giữa các cation trong đất. Nồng độ Na+ cao so với Ca và K, gây đối kháng với sự hấp thu các chất dinh dưỡng khác như N, P, K, Ca và Mg (Bayuelo et al., 2003; Ammar et al., 2009; Jung et al., 2009; Osman K. T., 2018). Sự đối kháng này gây mất cân bằng dinh dưỡng đa và trung lượng của cây trồng, cần thiết cho các quá trình c b a 0 5 10 15 20 25 R- A R- B R- C P h ầ n t ră m N a + t ra o đ ổ i tr ên k eo đ ấ t E S P ( % ) Nhóm ruộng 66 sinh lý thực vật, duy trì thế năng của màng tế bào, kích hoạt enzyme, điều chỉnh áp suất thẩm thấu, vận chuyển đường trong thân (Golldack et al., 2003). Mặt khác, hàm lượng Ca2+ và K+ cao có thể trao đổi với Na+ trên phức hệ hấp thu, và Na+ dễ bị rửa ra khỏi hệ thống. Như vậy tỉ số các cation Ca2+, K+ với Na đều thấp có ý nghĩa là yếu tố mất cân bằng dinh dưỡng cho cây lúa trong các ruộng lúa bị chết. . Sự hiện diện quá cao, quá thấp hoặc không cân đối của các cation trong đất có ảnh hưởng bất lợi đến tính chất của đất (James Camberato, 2001; Osman, 2018), hàm lượng Na+ cao gây ra sự phân tán các hạt đất, cation Ca2+ và Mg2+ giúp cho đất kết t , nồng độ Na+ cao gây đối kháng với sự hấp thu các chất dinh dưỡng khác, chẳng hạn như K+ , Ca2+, N và P (Bayuelo et al., 2003; Osman, 2018). Bảng 4.7: Tỷ số cation trao đổi trong đất tại các nhóm ruộng khảo sát Nhóm ruộng Ca2+/Na+ K+/Na+ R-A 4,1 a ± 1,1 1,1a± 0,3 R-B 2,2 b ± 0,2 0,52b± 0,2 R- C 1,3 c± 0,2 0,34c± 0,3 F * * CV (%) 13,0 15,0 Ghi chú: R-A: Nhóm ruộng lúa có năng suất từ 3,5 tấn/ha trở lên, R-B: Nhóm ruộng lúa năng suất dưới 3,5 tấn/ha, R-C: Nhóm ruộng lúa bị chết sau khi cấy 20-25 ngày; Các dấu ± trong bảng biểu diễn độ lệch chuẩn của các nghiệm thức; Các chữ cái khác nhau trên cột chỉ sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5% qua kiểm định Duncan. Tóm lại: Kết quả nghiên cứu trên ba nhóm ruộng trồng lúa trong mô hình tôm-lúa tại huyện An Minh cho thấy đất đã bị sodic, trở thành đất mặn- sodic, ở nhóm ruộng R-C có lúa bị chết từ 20-25 ngày sau khi cấy. Kế đến ở nhóm ruộng R-B canh tác lúa có năng suất thấp dưới 3,5 tấn/ha, đất thuộc nhóm mặn và gần ngưỡng sodic. Sự tích lũy mặn thấp nhất ở nhóm ruộng R-A có năng suất lúa trên 3,5 tấn/ha, thuộc nhóm đất mặn. Kết quả này cung cấp cơ sở khoa học cho nghiên cứu tiếp theo về cải thiện độ mặn trong đất, giảm ESP, giúp cân đối dinh dưỡng, giúp lúa sinh trưởng tốt và đạt năng suất cao hơn, duy trì được hệ thống canh tác tôm-lúa bền vững trong vùng đất bị xâm nhập mặn. 67 4.3 Hiệu quả của phân hữu cơ, vôi và cây cỏ thủy sinh trong cải thiện đặc tính đất, sinh trƣởng phát triển và năng suất của lúa, tôm sú trong hệ thống canh tác tôm-lúa. 4.3.1 Hiệu quả của phân hữu cơ và vôi trong việc cải thiện đặc tính bất lợi của đất và năng suất lúa trong điều kiện nhà lƣới Kết quả nghiên cứu mô hình đánh giá sự tương quan giữa yếu tố môi trường bên ngoài và sinh trưởng phát triển của lúa trên đất nhiễm mặn rất có ý nghĩa, bao gồm hàm lượng Ca trao đổi; hàm lượng Na trao đổi, trị số ESP; khả năng trao đổi cation, sử d ng phân bón trong đó quan trọng là phân bón hữu cơ và vôi (Lê Văn Dũng và Đỗ Minh Nhựt, 2020). Trên cơ sở này, nghiên cứu tiếp theo được thực hiện trong nhà lưới nhằm đánh giá hiệu quả của phân hữu cơ và vôi trong cải thiện tính chất bất lợi của nhóm đất phèn và đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn. Nghiên cứu này cũng là cơ sở cho thí nghiệm đồng ruộng tại Huyện An Minh, Tỉnh Kiên Giang. 4.3.1.1 Ảnh hƣởng của phân hữu cơ và vôi đến một số đặc tính hóa học đất Hai mẫu đất phèn và phèn tiềm tàng nhiễm mặn đươc thu từ ruộng sản xuất tôm-lúa tại hai Huyện Vĩnh Thuận và An Biên Tỉnh Kiên Giang. Mẫu đất phèn nhiễm mặn đượcthu vào đầu v tôm từ mô hình canh tác tôm - lúa tại ấp Kinh 3, xã Vĩnh Thuận, Huyện Vĩnh Thuận, Tỉnh Kiên Giang đất có tầng gleyic và tầng pyrite xuất hiện ở độ sâu 20 -30 cm, tên phân loại đất là Hypo salic - Fluvisols theo FAO (2006). Mẫu đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn được thu vào cuối v lúa đầu v tôm từ mô hình canh tác lúa - tôm tại xã Nam Thái, Huyện An Biên, Tỉnh Kiên Giang, đất có chứa vật liệu sinh phèn pyrite ở độ sâu > 100 cm, tên phân loại đất Sali- EndoProto Thionic- Gleysols theo FAO (2006). - Ảnh hƣởng của phân hữu cơ và vôi đến trị số pH đất + Trên đất phèn nhiễm mặn: Kết quả trình bày ở Bảng 4.8 cho thấy pH đất rất thấp, chỉ đạt 2,8- 4,0, khoảng pH này không thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa. pH thích hợp cho cây lúa là khoảng 6 (Alia et al., 2015). Ở pH thấp (pH<5), Al3+ thường hiện diện cao, gây độc cho cây lúa (Elisa et al., 2011 và Jusop et al., 2013). Bón phân hữu cơ bã bùn mía (BBM) và phân hữu cơ vi sinh (HCVS) kết hợp bón vôi giúp pH đất gia tăng có ý nghĩa (P<0,05) so với không bón hoặc chỉ bón đơn thuần phân hữu cơ hoặc vôi vào cả hai thời điểm (43 NSC và 90 NSC). 68 Bảng 4.8: Ảnh hưởng của phân hữu cơ và vôi đến pH đất Stt Nghiệm thức pHH2O (1:2,5) 43 ngày SKC 90 ngày SKC 1 (T1) Đối chứng 2,83b 3,33c 2 (T2) 5 tấn/ha BBM 3,06b 3,63c 3 (T3) 5 tấn/ha phân hữu cơ vi sinh 3,37 b 3,60 c 4 (T4) 500 kg CaCO3/ha 3,33 b 3,95 bc 5 (T5) 5 tấn BBM + 500 kg CaCO3/ha 4,30 a 4,65 a 6 (T6) 5 tấn + 500 kg CaCO3/ha 4,09 a 4,42 ab F * * CV(%) 10,35 9,54 Ghi chú: Ghi rõ các NT T2-T6 có bón phân vô cơ thế nào??? Các cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. giá trị trung bình trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau khác biệt không có ý nghĩa thống kê qua kiểm định Duncan 5%. + Trên đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn: Kết quả trình bày ở Bảng 4.9 cho thấy, giá trị pH dao động trong khoảng từ 4,55 - 5,21 được đánh giá ở mức chua nhẹ theo thang đánh giá của Landon, (1991). pH đất tăng ở các nghiệm thức bón vôi kết hợp PHC BBM và HCVS khác biệt ý nghĩa so với nghiệm thức đối chứng, cả ở thời điểm giữa v và cuối v . PHC có chứa Ca và Mg, khi bón vào đất góp phần giảm mặn trong đất và tăng độ hữu d ng một số dinh dưỡng trong đất (Fricke và Vogtmann, 1994). Theo Võ Thị Gương và ctv., (2008) trong PHC BBM có hàm lượng CaO cao, góp phần giúp tăng pH đất. Do đó, bón PHC kết hợp với bón vôi giúp tăng pH đất hiệu quả nhất. 69 Bảng 4.9: Ảnh hưởng của PHC và vôi đến sự thay đổi pH đất Nghiệm thức Giá trị pH (1:2,5) Giữa vụ Cuối vụ 1: Phân vô cơ (60N-20P205-20K20) 4,55d 4,60d 2: Phân vô cơ + 5 tấn PHC bã bùn mía 4,91bc 4,80bc 3: Phân vô cơ + 5 tấn PHC Vi sinh 4,80c 4,66cd 4: Phân vô cơ + 0,5 tấn CaCO3 4,89cb 4,89b 5: Phân vô cơ + 5 tấn PHC bã bùn mía + 0,5 tấnCaCO3 5,21a 5,15a 6: Phân vô cơ + 5 tấn PHC Vi sinh + 0,5 tấn CaCO3 5,02b 4,91ab F * * CV (%) 2,20 2,62 *Ghi chú: giá trị trung bình trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau khác biệt không có ý nghĩa thống kê qua kiểm định Duncan. 70 - Ảnh hƣởng của phân hữu cơ và vôi đến độ mặn của đất + Trên đất phèn nhiễm mặn: Độ mặn của đất được đánh giá qua ECe, thể hiện ở bảng 4.10 giá trị ECe biến động trong khoảng 6,3 -8,4 mS.cm-1 vào giai đoạn giữa v , và giảm vào giai đoạn cuối v ở tất cả các nghiệm thức. Các nghiệm thức có bón PHC và bón PHC kết hợp vôi có ECe giảm so với đối chứng (p<0,05), ở cả giai đoạn giữa v và cuối v . Bảng 4.10: Độ dẫn điện trong đất ở hai thời điểm khảo sát Nghiệm thức Độ dẫn điện trong đất ECe (mS cm -1 ) Giữa vụ Cuối vụ NT 1. Phân vô cơ (60N–20P205– 20K20); 8,41a 6,59a NT 2. Phân vô cơ + 5 tấn PHC bã bùn mía 6,59b 4,73b NT 3. Phân vô cơ + 5 tấn PHC Vi sinh; 6,07b 5,10b NT 4. Phân vô cơ + 0,5 tấn CaCO3; 7,78a 5,46ab NT 5. Phân vô cơ + 5 tấn PHC bã bùn mía + 0,5 tấn CaCO3 6,52b 5,15b NT 6. Phân vô cơ + 5 tấn PHC Vi sinh + 0,5 tấn CaCO3. 6,36b 4,58b F * * CV (%) 1,42 5,55 + Đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn: Kết quả trình bày ở Hình 4.5 cho thấy ECe của đất cao (9,96 mS/cm) ở nghiệm thức đối chứng, chỉ bón phân vô cơ. ECe của đất giảm có ý nghĩa khi kết hợp PHC và vôi trong hai giai đoạn giữa v và cuối v . Bón vôi, cung cấp thêm Ca2+ không chỉ giúp tăng pH đất, mà Ca2+ thay thế Na+ trao đổi trên phức hệ hấp thu, đưa Na+ ra ngoài dung dịch đất, nên dễ dàng rửa trôi khỏi môi trường đất, do đó giảm độ mặn trong đất (Makoi and Verplancke, 2010). 71 Như vậy PHC và vôi thể hiện hiệu quả cao trong cải thiện độ mặn của đất trên hai nhóm đất phèn và đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn. Tuy nhiên, ECe còn trong khoảng 6,5 – 8,8 mS/cm vẫn còn trong ngưỡng đất mặn, gây bất lợi cho sự phát triển của lúa. Theo Dahnke và Whitney (1988), đất có giá trị ECe từ 4 mS/cm trở lên là đất mặn. Theo Sathish et al., (1997) ngưỡng chống chịu NaCl của cây lúa là ECe = 4 mS/m. Lúa được đánh giá là loại cây trồng tương đối nhạy cảm với mặn (Shannon et al., 1998). Theo Mass (1986) lúa giảm 50% năng suất khi ECe là 3,6 mS/cm. Hình 4.5: Ảnh hưởng của phân bón hữu cơ và vôi đến ECe trong đất *Ghi chú: Nghiệm thức 1: Phân vô cơ (60N-20P205-20K20); Nghiệm thức 2: Phân vô cơ + 5 tấn PHC bã bùn mía; Nghiệm thức 3: Phân vô cơ + 5 tấn PHC Vi sinh; Nghiệm thức 4: Phân vô cơ + 0,5 tấn CaCO3; Nghiệm thức 5: Phân vô cơ + 5 tấn PHC bã bùn mía + 0,5 tấnCaCO3; Nghiệm thức 6|: Phân vô cơ + 5 tấn PHC Vi sinh + 0,5 tấn CaCO3. Thanh dọc trên biểu đồ hình cột biểu diễn giá trị độ lệch chuẩn của giá trị trung bình. Các giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau bởi các chữ cái (a,b) giống nhau không khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%. - Ảnh hƣởng của phân hữu cơ và vôi đến Al3+ trao đổi trong đất phèn nhiễm mặn Kết quả trình bày ở Hình 4.6 cho thấy phân hữu cơ BBM hoặc phân HCVS kết hợp với vôi giúp giảm Al trao đổi trong đất rất hiệu quả (p<0,05). Hàm lượng Al3+ trao đổi trong đất giảm vào giai đoạn cuối v ở tất các nghiệm thức. . Kết quả thí nghiệm cho thấy phân hữu cơ bã bùn mía hoặc phân hữu cơ kết hợp với vôi giúp giảm nhôm trao đổi trong đất rất hiệu quả (p<0,05). Tỷ lệ pPhần trăm Al bảo hòa ở nghiệm thức đối chứng cả 2 thời 72 a A b B a A c C d D d D 0,00 2,00 4,00 6,00 8,00 10,00 12,00 Hàm lƣợng Al 43 NSKC Hàm lƣợng Al 90 NSKC H à m l ƣ ợ n g A l3 + t ra o đ ổ i (m eq /1 0 0 g ra m ) T1 T2 T3 T4 T5 T6 điểm khảo sát là 36,31 và 24,20% đều cao hơn 20%, là mức gây độc cho cây trồng (Joanna Siecinska and Artur Nosalewicz, 2016; Ikiriko et al., 2016). Bón kết hợp phân hữu cơ bã bùn mía và vôi cho thấy Al bão hòa đều giảm còn 5,40 và 1,83% so với các nghiệm thức bón đơn lẽ phân hữu cơ hoặc vôi và đối chứng (p<0,05), điều này cho thấy hiệu quả của việc bón kết hợp BBM và vôi giúp pH đất gia tăng, kết tủa Al3+ thành dạng hydroxides Al (Wildey, 2003; Ghafoor et al., 2008, Shamshuddin et al., 2010; Ikiriko et al., 2016), giảm Al trao đổi trên phức hệ hấp thu. Mặt khác, phân bón hữu cơ giúp giảm Al trao đổi và Al hòa tan thông qua tiến trình chelate hóa (Shamshuddin, 2014). Việc bổ sung phân hữu cơ giúp giảm đáng kể hàm lượng Al trao đổi và Al bão hòa trong đất, tăng pH của đất, C hữu cơ, các chất dinh dưỡng (N, P và K) và khả năng trao đổi cation (CEC) của đất cũng được ghi nhận trước đây (Ermadani et al., 2018; Krishnamoni et al., 2018), kết quả tương tự cũng cho thấy việc bón kết hợp phân hữu cơ có tác d ng giảm Al, cải thiện độ phì nhiêu của đất Ultisol, giúp cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt (Wen-rui, et al., 2020). Hình 4.6: Ảnh hưởng của phân hữu cơ và vôi đến Al3+ trao đổi trong đất theo thời gian Ghi chú: (T1) Đối chứng; (T2) 5 tấn/ha BBM; (T3) 5 tấn/ha PHC Vi sinhPHC Vi sinh; (T4) 500 kg CaCO3/ha; (T5) 5 tấn BBM + 500 kg CaCO3/ha; (T6) 5 tấn PHC Vi sinhPHC Vi sinh + 500 kg CaCO3/ha. Các cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. 73 a A cb B b CB b CB d D d D 0,00 5,00 10,00 15,00 20,00 25,00 Tỷ lệ % Na trao đổi 43 NSKC Tỷ lệ % Na trao đổi 90 NSKC T ỷ l ệ % N a t ra o đ ổ i (E S P ) T1 T2 T3 T4 T5 T6 - Ảnh hƣởng của phân hữu cơ và vôi đến ESP trong đất + Đất phèn nhiễm mặn: Hình 4.7: Ảnh hưởng của phân hữu cơ và vôi đến trị số ESP của đất Ghi chú: (T1) Đối chứng; (T2) 5 tấn/ha BBM; (T3) 5 tấn/ha PHC Vi sinh; (T4) 500 kg CaCO3/ha; (T5) 5 tấn BBM + 500 kg CaCO3/ha; (T6) 5 tấn PHC Vi sinh + 500 kg CaCO3/ha. Các cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. + Đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn: Kết quả phân tích ở Bảng 4.11 cho thấy, hàm lượng Na trao đổi ở các nghiệm thức dao động trong khoảng 0,45 - 1,90 cmol/kg đất. Hàm lượng Na+ trao đổi có khuynh hướng giảm dần ở giai đoạn từ giữa v đến cuối v canh tác lúa, giảm có ý nghĩa rõ nhất vào cuối v , khi có cung cấp thêm vôi, PHC hoặc vôi kết hợp PHC. Ca2+ có trong vôi và PHC giúp tăng trao đổi với Na+ trên phức hệ hấp thu nên nồng độ Na+ trao đổi giảm thấp so với nghiệm thức không có bổ sung vôi hoặc PHC (Qadir và Oster, 2004; Tejada et al., 2006; Shah et al., 2003; Makoi và Verplancke, 2010). Tương ứng, trị số ESP vào giữa v và cuối v cao nhất là 8,4% ở nghiệm thức chỉ bón phân vô cơ. Bón phân vô cơ kết hợp phân bón hữu cơ và vôi giúp giảm ESP có ý nghĩa ở giai đoạn cuối v . Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lâm Văn Tân và ctv. (2014). Nhìn chung, hiệu quả của PHC và vôi giúp giảm ESP tuy đất chưa bị sodic hóa, ESP < 15%, theo thang đáng giá của Davis et al., (2014). 74 Bảng 4.11: Ảnh hưởng của PHC và vôi đến Na trao đổi và ESP Nghiệm thức Na + (cmol/kg) ESP (%) Giữa vụ Cuối vụ Giữa vụ Cuối vụ Nghiệm thức 1 1,25a 1,48a 7,20a 8,41a Nghiệm thức 2 1,19ab 1,21b 6,62b 6,79b Nghiệm thức 3 1,21a 0,64d 6,83ab 3,77d Nghiệm thức 4 0,77c 0,57d 6,12c 3,10e Nghiệm thức 5 1,10b 1,05c 4,51d 5,87c Nghiệm thức 6 1,27a 0,45e 7,13a 2,46f F * * * * CV (%) 6,43 8,67 4,11 2,94 *Ghi chú: Nghiệm thức 1: Phân vô cơ (60N-20P205- 20K20); Nghiệm thức 2: Phân vô cơ + 5 tấn PHC bã bùn mía; Nghiệm thức 3: Phân vô cơ + 5 tấn PHC Vi sinh; Nghiệm thức 4: Phân vô cơ + 0,5 tấn CaCO3; Nghiệm thức 5: Phân vô cơ + 5 tấn PHC bã bùn mía + 0,5 tấnCaCO3; Nghiệm thức 6|: Phân vô cơ + 5 tấn PHC Vi sinh + 0,5 tấn CaCO3. Các giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau bởi các chữ cái (a,b) giống nhau không khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%. - Ảnh hƣởng của phân hữu cơ và vôi đến P và N hữu dụng trong đất + Trên đất phèn nhiễm mặn: Kết quả trình bày Hình 4.8A cho thấy các nghiệm thức có bón phân hữu cơ và vôi có hàm lượng lân hữu d ng trong đất cao hơn khác biệt có ý nghĩa so với nghiệm thức đối chứng tại cả hai thời điểm quan sát (43 NSC và 90 NSC). Bón kết hợp phân bón hữu cơ và vôi đã giúp gia tăng hàm lượng lân hữu d ng trong đất so với bón đơn lẻ phân hữu cơ hoặc chỉ bón vôi. Lân hữu d ng trong đất tăng là do sự gia tăng pH đất đã giúp cho lân bị kiềm giữ trong đất dưới dạng AlPO4 và FePO4 được hòa tan từ đó phóng thích lân. Bên cạnh đó, phân hữu cơ cũng có khả năng cải thiện lân hữu d ng trong đất, giúp tăng hoạt động của vi sinh vật hòa tan lân (Panhwar et al., 2014a; Panhwar et al., 2014b). Phân hữu cơ là hợp chất hữu cơ có chứa chất dinh dưỡng thực vật và các chất hữu cơ, có thể cải thiện tính chất vật lý, hóa học và sinh học của đất (Albiach et al ., 2000). Kết quả nghiên cứu hình 4.8B cho thấy hàm lương đạm hữu d ng trong đất ở các nghiệm thức tăng có ý nghĩa khi bón phân hữu cơ kết hợp với vôi tại cả hai thời điểm quan sát. Việc 75 đơn lẻ phân hữu cơ và vôi trên đất phèn nhiễm mặn chưa giúp gia tăng hàm lượng đạm hữu d ng trong đất. Hiệu quả của phân hữu cơ kết hợp vôi giúp tăng pH đất và làm giảm độc tính nồng độ Al trong dung dịch đất, từ đó giúp gia tăng lượng đạm và lân hữu d ng trong đất (Huang et al., 2010; Pincus et al., 2016; Pan et al., 2019) (hình 4.8A, B). Hình 4.8: Ảnh hưởng của phân hữu cơ và CaCO3 đến hàm lượng lân hữu d ng (A) và đạm hữu d ng (B) của đất theo thời gian. c B c B b B c B ab A a A 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 N-HD 43 NSKC N-HD 90 NSKC (m g /k g N -H D ) NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 NT6 (B) e D c C d D f E a A b B 0 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 P-HD 43 NSKC P-HD 90 NSKC (m g /k g P -H D ) NT1 NT2 NT3 NT4 NT5 NT6 (A) 76 Ghi chú: Các cột trung bình có cùng chữ cái theo sau chữ theo sau khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. (T1) Đối chứng; (T2) 5 tấn/ha BBM; (T3) 5 tấn/ha PHC Vi sinh ; (T4) 500 kg CaCO3/ha; (T5) 5 tấn BBM + 500 kg CaCO3/ha; (T6) 5 tấn PHC Vi sinh + 500 kg CaCO3/ha. Các cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. + Đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn: Kết q
File đính kèm:
luan_an_bien_phap_cai_thien_he_thong_canh_tac_tom_lua_tren_d.pdf
2. Trang thong tin TV va TA co chu ky LVD.pdf
2.1 trang thong tin tieng viet va tieng anh.doc
3. Tom tat TV.pdf
4. Tom tat TA.pdf