Luận án Chọn tạo hai dòng vịt cao sản hướng thịt cho chăn nuôi thâm canh

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Chọn tạo hai dòng vịt cao sản hướng thịt cho chăn nuôi thâm canh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Chọn tạo hai dòng vịt cao sản hướng thịt cho chăn nuôi thâm canh

vịt V22 tại trại vịt giống VIGOVA và Phạm Văn Chung (2018) khi chọn tạo dòng vịt TS132 và TS142 tại Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên. Một số phân tích di truyền trên vịt chuyên thịt trước đây thường bỏ qua ảnh hưởng của ngày nở đến tính trạng phân tích. Việc xuống giống mỗi thế hệ thường gồm 3 - 4 đợt vịt nở khác nhau, thời gian 2 đợt xuống giống liên tục chênh nhau 1 tuần, như vậy nếu xuống giống 4 đợt thì sự chênh lệch thời gian giữa đợt đầu và cuối có thể lên đến 1 tháng, đặc biệt là khi rơi vào mùa khác nhau. Cơ sở dữ liệu từ hai dòng vịt là khá lớn, kết quả phân tích đã cho thấy sự ảnh hưởng của ngày nở đến các tính trạng nghiên cứu với mức tin cậy cao. Như vậy, việc sử dụng ngày nở là một yếu tố ảnh hưởng cố định trong mô hình thống kê di truyền sẽ góp phần làm tăng độ chính xác các tham số di truyền cũng như giá trị giống ước tính đối với các tính trạng chọn lọc của hai dòng vịt V52 và V57. Từ kết quả phân tích cho thấy, yếu tố ảnh hưởng cố định đưa vào mô hình thống kê di truyền với tính trạng khối lượng cơ thể 7 và dày thịt ức 7 tuần tuổi của hai dòng vịt V52 và V57 gồm 3 yếu tố đó là thế hệ, tính biệt và ngày nở, với tính trạng năng suất trứng của dòng vịt V57 gồm 2 yếu tố đó là thế hệ và ngày nở. 3.1.2 Thành phần phương sai và hệ số di truyền của các tính trạng chọn lọc Phân tích dữ liệu từ 3.718 cá thể dòng vịt V52 và 5.219 cá thể dòng vịt V57 qua 5 thế hệ (từ 2014 – 2018) cho kết quả thành phần phương sai và hệ số di truyền các tính trạng chọn lọc được trình bày tại bảng 3.2. Độ lớn của phương sai liên quan đến tính trạng, đơn vị đo của tính trạng, loại phương sai và mô hình thống kê. Giá trị thành phần phương sai di truyền cộng gộp của mỗi tính trạng trên mỗi dòng vịt quyết định độ lớn của hệ số di truyền hay khả năng di truyền của tính trạng đó. Kết quả bảng 3.2 cho thấy, trên cùng tính trạng (KL7 và DTU7) giá trị các thành phần phương sai dòng trống V52 có xu hướng cao hơn so với kết quả của dòng mái V57. Điều này là phù hợp vì khối lượng dòng trống V52 là cao hơn so với dòng mái V57. Một điều đáng lưu ý ở kết quả phân tích trong nghiên cứu này đó là phương sai ảnh hưởng của mẹ. Đã có nhiều phân tích di truyền về các tính trạng năng suất trên vịt chuyên thịt trong 67 nước trước đây nhưng thường không thấy đề cập đến thành phần phương sai này (Dương Xuân Tuyển và cs., 2015; Nguyễn Văn Duy, 2012; Phạm Văn Chung, 2018), mới chỉ có 2 nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của mẹ đến tính trạng năng suất của vịt chuyên thịt SM (Dương Xuân Tuyển và cs., 2014; Lê Thanh Hải và cs., 2020). Bảng 3.2: Thành phần phương sai và hệ số di truyền của tính trạng khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi (KL7), dày thịt ức 7 tuần tuổi (DTU7) và năng suất trứng 42 tuần tuổi (NST42) Dòng/Thành phần phương sai Tính trạng KL7 DTU7 NST42 Dòng V52 Phương sai di truyền cộng gộp (2A) 29.828,10 2,70 - Phương sai ảnh hưởng của mẹ (2D) 6.001,81 0,16 - Phương sai ngoại cảnh (2E) 38.178,60 3,30 - Phương sai kiểu hình (2P) 74.008,50 6,20 - Hệ số di truyền (h2 ± SE) 0,40 ± 0,04 0,44 ± 0,04 - Dòng V57 Phương sai di truyền cộng gộp (2A) 8.542,31 1,11 246,57 Phương sai ảnh hưởng của mẹ (2D) 1.932,83 0,20 3,70 Phương sai ngoại cảnh (2E) 39.773,75 1,76 608,80 Phương sai kiểu hình (2P) 50.248,90 3,0 859,10 Hệ số di truyền (h2 ± SE) 0,17 ± 0,07 0,37 ± 0,08 0,29 ± 0,11 Trong nghiên cứu này, thành phần phương sai do ảnh hưởng của mẹ đối với tính trạng khối lượng cơ thể và dày thịt ức ở 7 tuần tuổi của dòng vịt trống V52 tương ứng 8,11%, và 2,58% so với phương sai kiểu hình. Phương sai do ảnh hưởng của mẹ đối với khối lượng cơ thể và dày thịt ức ở 7 tuần tuổi, năng suất trứng 42 tuần tuổi của dòng vịt mái V57 tương ứng 3,85%, 6,67% và 0,43% so với phương sai kiểu hình. Như vậy, các tính trạng chọn lọc ở cả 2 dòng vịt đều có sự ảnh hưởng của con mẹ, mức độ ảnh hưởng của con mẹ trên từng tính trạng của mỗi dòng vịt là khác nhau và không quá lớn. Tuy nhiên, ảnh hưởng của mẹ đến tính trạng khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi dòng trống V52 và tính trạng dày thịt ức của dòng mái V57 cũng là đáng kể khi so sánh với thành phần phương sai di truyền của các tính trạng này và việc hiệu chỉnh ảnh hưởng di truyền của mẹ đến các tính trạng này trong mô hình thống kê làm tăng độ tin cậy của giá trị phương sai di truyền cộng gộp trực 68 tiếp. Kết quả phân tích này cũng có xu hướng tương tự kết quả của Lê Thanh Hải và cs. (2020a) trên dòng vịt chuyên thịt V22 về mức độ ảnh hưởng của mẹ, theo nhóm tác giả thì đối với gia cầm, con mẹ không ấp trứng, không nuôi con, rất có thể sự ảnh hưởng này chủ yếu bởi các gen nằm trong ty lạp thể ở nguyên sinh chất của trứng. Báo cáo của Grosso và cs. (2010) cho thấy, đối với một số tính trạng thân thịt, ảnh hưởng do di truyền của mẹ không vượt quá 10% ảnh hưởng do di truyền cộng gộp trực tiếp. Từ kết quả phân tích cho thấy, việc đưa ảnh hưởng của mẹ vào mô hình phân tích thống kê trong nghiên cứu này đã làm tăng độ chính xác về ước tính ảnh hưởng di truyền cộng gộp trực tiếp đối với hai tính trạng khối lượng cơ thể và dày thịt ức ở 7 tuần tuổi ở cả hai dòng vịt V52 và V57. Đối với khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi, kết quả ở bảng 3.2 cho thấy, có sự khác biệt tương đối lớn về hệ số di truyền giữa dòng trống V52 và dòng mái V57. Hệ số di truyền khối lượng cơ thể dòng trống V52 ở mức tương đối cao (h2 = 0,40) so với mức thấp (h2 = 0,17) của dòng mái V57. Như vậy, việc chọn cải tiến di truyền tính khối lượng cơ thể trên dòng trống V52 sẽ thuận lợi hơn so với dòng mái V57. Điều này cũng phù hợp với mục tiêu chọn lọc: khối lượng cơ thể là tính trạng mục tiêu đối với dòng vịt trống, trong khi năng suất trứng là tính trạng mục tiêu của dòng mái. Các nghiên cứu trong và ngoài nước về mức độ di truyền của khối lượng cơ thể vịt cũng rất biến động từ thấp đến cao, nó tùy thuộc vào dòng, giống, độ tuổi Trước đây, một số tác giả trên thế giới báo cáo hệ số di truyền vịt Bắc Kinh ở 6 - 8 tuần tuổi trong khoảng 0,20 – 0,47 (Klemm, 1995; Pingel, 1999; Li và cs. 2005; Akbar và Turk, 2008; Pingel, 2011). Cùng giai đoạn này, một số tác giả trong nước cũng báo cáo khả năng di truyền tính trạng khối lượng cơ thể trên một số dòng vịt chuyên thịt SM. Dương Xuân Tuyển (1998) cho biết, hệ số di truyền khối lượng cơ thể ở 8 tuần tuổi vịt chuyên thịt SM dòng trống là 0,13 – 0,19, dòng mái 0,21 – 0,22. Ở kết quả khác của Dương Xuân Tuyển và cs. (2001 và 2006a) về hệ số di truyền khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi dòng vịt V5 và V2 nuôi tại trại vịt giống VIGOVA đạt từ 0,21 – 0,39. Nguyễn Đức Trọng và cs. (2009a) báo cáo hệ số di truyền khối lượng cơ thể ở 7 tuần tuổi dòng vịt T5 tại Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên là 0,22 – 0,25. Tuy vậy, ở các nghiên cứu trong nước trước đây, hệ số di truyền thường được phân tích bằng phương pháp phân tích phương sai (ước lượng theo thành phần phương sai của bố hoặc mẹ), với phần mềm sử dụng là Harvey hoặc SAS. Những năm gần đây, nhiều nghiên cứu sử dụng phương pháp REML với các phần mềm tiên tiến để phân tích đánh giá khả năng di truyền của tính trạng khối lượng cơ thể vịt. Georgina và cs. (2013) báo cáo khối lượng vịt MLF ở 5 tuần tuổi có hệ số di truyền từ 0,31 đến 0,41. Theo Nguyễn Văn Duy 69 (2012) hệ số di truyền khối lượng cơ thể ở 7 tuần tuổi của vịt chuyên thịt dòng MT1 là 0,30. Mucha và cs. (2014) cho biết, hệ số di truyền khối lượng cơ thể 11 tuần tuổi của vịt Bắc Kinh là rất cao (h2 = 0,75). Một số kết quả nghiên cứu khác trên vịt Bắc Kinh cho thấy, hệ số di truyền khối lượng cơ thể 6 tuần tuổi từ 0,39 - 0,48 (Thiele và Alletru, 2017; Zhang và cs., 2017; Xu và cs., 2018). Dương Xuân Tuyển và cs. (2015) báo cáo hệ số di truyền khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi dòng V22 khi chọn tạo là 0,53. Cũng trên dòng vịt V22, Lê Thanh Hải và cs. (2020a) báo cáo hệ số di truyền khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi khi chọn lọc ổn định năng suất dòng vịt này là 0,43. Như vậy, so với các nghiên cứu đã được thảo luận ở trên, kết quả hệ số di truyền khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi của dòng trống V52 và dòng mái V57 đều nằm trong khoảng kết quả của các nghiên cứu đã công bố. Đối với dày thịt ức 7 tuần tuổi, giá trị của hệ số di truyền của dòng trống V52 là 0,44 và của dòng mái V57 là 0,37. Khả năng di truyền của tính trạng dày thịt ức 7 tuần tuổi ở cả hai dòng vịt ở mức trung bình và cao, thuận lợi cho việc chọn lọc cải tiến di truyền tính trạng này. Một số tác giả đã báo cáo về khả năng di truyền của dày thịt ức cho thấy có sự khác biệt. Kết quả của Li và cs. (2005) báo cáo hệ số di truyền dày thịt ức vịt Bắc Kinh ở 6 tuần tuổi đạt cao 0,51. Theo nghiên cứu của Pingel (2011), hệ số di truyền dày thịt ức của vịt Bắc kinh ở 8 tuần tuổi là 0,32 gần bằng kết quả của dòng V57. Kết quả của Georgina và cs. (2013) về hệ số di truyền dày thịt ức của vịt MLF ở 5 tuần tuổi lại khá thấp đạt 0,17 – 0,20. Nghiên cứu của Xu và cs. (2018) cũng có xu hướng tương tự, hệ số di truyền dày thịt ức của vịt Bắc Kinh ở 6 tuần tuổi chỉ ở mức 0,12. Tuy nhiên, cũng trên vịt Bắc Kinh ở 6 tuần tuổi hệ số di truyền tính trạng dày thịt ức trong nghiên cứu của Thiele và cs. (2017) lại gần tương đương kết quả của dòng V57 (h2 = 0,34). Ở nghiên cứu khác của Szwaczkowski và cs. (2010), báo cáo 3 kết quả hệ số di truyền trực tiếp của tính trạng dày cơ ức với 3 mô hình thống kê khác nhau trên cùng một bộ dữ liệu (h12 = 0,137; h22 = 0,247; h32 = 0,278). Một kết quả nghiên cứu gần đây trong nước của Phạm Văn Chung (2018) cho thấy có sự khác biệt lớn về mức độ di truyền tính trạng dày thịt ức giữa dòng trống và dòng mái vịt chuyên thịt, dòng trống là 0,81 trong khi dòng mái chỉ là 0,24. Như vậy, hệ số di truyền tính trạng dày thịt ức của hai dòng vịt V52 và V57 nằm ở mức trung bình so với kết quả của các nghiên cứu đã công bố. Sự khác biệt về kết quả này so với kết quả của các tác giả khác là do dòng, giống, tuổi, phương pháp phân tích và cả mô hình thống kê sử dụng. Chẳng hạn mô hình thống kê trong nghiên cứu này có thêm yếu tố ảnh hưởng cố định là ngày nở và ảnh hưởng của mẹ, trong khi một số nghiên cứu trước đây không có hai yếu tố này. 70 Đối với tính trạng năng suất trứng 42 tuần tuổi, hệ số di truyền của dòng vịt V57 là 0,29. Kết quả này nằm trong khoảng các kết quả của một số tác giả nghiên cứu trên vịt chuyên thịt SM trong nước những năm qua. Dương Xuân Tuyển và cs. (2006a) cho biết, hệ số di truyền tính trạng năng suất dòng vịt V7 tại trại vịt giống VIGOVA là 0,20. Kết quả của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2009a) trên dòng vịt T6 tại Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên đạt cao hơn (h2 = 0,34). Theo Dương Xuân Tuyển và cs. (2015), dòng vịt chuyên thịt V27 có hệ số di truyền tính trạng năng suất trứng là tương đương với dòng vịt V57 (h2 = 0,28). Kết quả của Phạm Văn Chung (2018) trên dòng vịt TS142 cũng tương tự (h2 = 0,27). Hệ số di truyền năng suất trứng của giống vịt chuyên trứng cao sản của nhiều tác giả đã báo cáo đều cho thấy thấp hơn so với dòng chuyên thịt V57. Các kết quả nghiên cứu trên nhóm vịt chuyên trứng cho thấy hệ số di truyền nằm trong khoảng 0,10 – 0,22 (Cheng và cs., 1995 và 1996; Poivey và cs., 2001; Liu và cs., 2013 và 2017; Rouvier và cs., 2017; Vũ Hoàng Trung, 2019). Điều này cho thấy rằng, năng suất trứng chịu ảnh hưởng nhiều của ngoại cảnh và khi tính trạng năng suất đạt mức độ càng cao (gần giới hạn sinh học) khả năng di truyền có xu hướng càng giảm. Nhìn chung, ngoại trừ tính trạng khối lượng cơ thể dòng V57, hệ số di truyền của các tính trạng chọn lọc của 2 dòng vịt V52 và V57 còn lại đều ở mức trung bình và cao. Kết quả phân tích trong nghiên cứu này cũng cơ bản phù hợp với các nghiên cứu đã công bố trong và ngoài nước. Đồng thời sai số chuẩn của các hệ số di truyền trong nghiên cứu này đều ở mức thấp, chứng tỏ dung lượng dữ liệu sử dụng cho phân tích đã đủ lớn để các giá trị ước tính về khả năng di truyền có độ tin cậy cao. Do vậy, việc chọn lọc cải tiến di truyền các tính trạng này của hai dòng vịt đảm bảo thuận lợi và mang lại hiệu quả cao. 3.1.3 Tương quan giữa các tính trạng chọn lọc Kết quả phân tích tương quan giữa các tính trạng chọn lọc của hai dòng vịt V52 và V57 được trình bày tại bảng 3.3. Với 2 tính trạng chọn lọc, dòng vịt V52 có 1 cặp tương quan, còn dòng vịt V57 có 3 cặp tương quan với 3 tính trạng chọn lọc. Kết quả trong bảng 3.3 cho thấy, tương quan di truyền giữa khối lượng cơ thể và dày thịt ức là tương quan nghịch, tương ứng với dòng trống V52 là -0,09 và với dòng mái V57 là -0,07. Tuy nhiên, giá trị tuyệt đối của hệ số tương quan di truyền giữa hai tính trạng này trên cả hai dòng vịt là quá nhỏ (gần bằng 0), do đó hai tính trạng này có tương quan yếu, gần như độc lập nhau về mặt di truyền. Như vậy, sẽ rất khó có được đáp ứng tương quan giữa hai tính trạng khối lượng cơ thể và dày thịt ức của dòng vịt V52 và V57 trong quá trình chọn 71 lọc, hay nói cách khác muốn cải tiến di truyền hai tính trạng khối lượng cơ thể và dày thịt ức đối với hai dòng vịt này phải chọn lọc đồng thời cả hai tính trạng. Tuy nhiên, tương quan ngoại cảnh giữa hai tính trạng ở cả hai dòng vịt là tương quan thuận và đều ở mức tương đối cao, tương ứng của dòng trống V52 là 0,42 và của dòng mái V57 là 0,57. Hay nói cách khác, khi điều kiện ngoại cảnh thay đổi, sẽ đồng thời ảnh hưởng đến hai tính trạng này theo hướng cùng chiều. Vì tương quan di truyền ở mức độ quá thấp, nên tương quan kiểu hình phụ thuộc vào tương quan ngoại cảnh. Chính vì vậy, tương quan kiểu hình giữa hai tính trạng ở hai dòng vịt cũng có tương quan thuận ở mức trung bình (0,26 của dòng V52 và 0,43 ở V57). Trong các nghiên cứu đã công bố, tương quan giữa hai tính trạng này trên vịt còn hạn chế và kết quả cũng rất khác nhau giữa các nghiên cứu. Michalik và cs. (1984) tính hệ số tương quan kiểu hình giữa khối lượng cơ thể và độ dày cơ ức vịt Bắc Kinh là 0,61 - 0,70. Trong khi kết quả của Hall (2005), tương quan di truyền và kiểu hình giữa độ dày thịt ức với khối lượng cơ thể 45 ngày tuổi vịt Bắc Kinh là 0,32, và 0,12. Lê Thanh Hải và Dương Xuân Tuyển (2019) mổ khảo sát vịt chuyên thịt SM, tương quan kiểu hình giữa khối lượng cơ thể và dày thịt ức là 0,26. Bảng 3.3: Tương quan giữa tính trạng khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi (KL7), dày thịt ức 7 tuần tuổi (DTU7) và năng suất trứng 42 tuần tuổi (NST42) Dòng/Loại tương quan Cặp tính trạng KL7 - DTU7 KL7 - NST42 DTU7 - NST42 Dòng V52 Tương quan di truyền (rG ± SE) -0,09 ± 0,07 - - Tương quan ngoại cảnh (rE± SE) 0,42 ± 0,02 - - Tương quan kiểu hình (rP) 0,26 - - Dòng V57 Tương quan di truyền (rG ± SE) -0,07 ± 0,04 -0,16 ± 0,09 -0,13 ± 0,07 Tương quan ngoại cảnh (rE± SE) 0,57 ± 0,02 0,11 ± 0,05 0,15 ± 0,06 Tương quan kiểu hình (rP) 0,43 -0,03 -0,01 Giữa khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi và năng suất trứng 42 tuần tuổi của dòng vịt V57 cũng có tương quan di truyền âm. Điều này cho thấy rằng, những cá thể của dòng vịt V57 có giá trị di truyền tính trạng khối lượng cơ thể lớn thì giá trị di truyền tính trạng năng suất trứng có xu hướng thấp hơn. Nói cách khác, việc chọn lọc nâng cao tính trạng khối lượng cơ 72 thể vịt sẽ làm giảm năng suất trứng và ngược lại. Tuy vậy, giá trị tương quan ở mức thấp (rG = -0,16), nên ảnh hưởng này là không lớn. Đây là lý do mà ở các dòng vịt mái khi chọn lọc định hướng nâng cao năng suất trứng cũng vẫn cần chọn lọc tính trạng khối lượng cơ thể với một áp lực chọn lọc ở mức nào đó để có thể bình ổn hoặc cải thiện tính trạng này ở mức thấp. Tương quan kiểu hình giữa hai tính trạng này cũng là tương quan âm nhưng mức độ rất thấp (-0,03). Các nghiên cứu trước đây về tương quan giữa hai tính trạng này trên vịt cho thấy, mức độ tương quan của hai tính trạng có biến động khác nhau tùy dòng giống, nhưng đều có điểm chung đó là tương quan nghịch. Theo Hudsky và cs. (1986) cho biết, tương quan kiểu hình giữa khối lượng cơ thể với năng suất trứng và số lượng vịt con nở ra là âm. Kết quả của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2008) về hệ số tương quan giữa năng suất trứng với khối lượng cơ thể 8 và 24 tuần tuổi trên hai dòng vịt chuyên thịt T5 và T6 cũng đều có giá trị âm. Minh và cs. (2013) cho biết, hệ số tương quan kiểu hình giữa năng suất trứng 52 tuần đẻ với khối lượng 8 tuần tuổi ở giống vịt Cỏ là -0,815. Phạm Văn Chung (2018) báo cáo về tương quan di truyền và tương quan kiểu hình giữa khối lượng cơ thể và năng suất trứng dòng vịt mái chuyên thịt TS142 tại Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên tương ứng là -0,28 và -0,11. Tương tự, giữa tính trạng dày thịt ức ở 7 tuần tuổi và tính trạng năng suất trứng 42 tuần tuổi có tương quan di truyền và tương quan kiểu hình âm ở mức rất thấp, tương ứng là -0,13 và -0,01. Kết quả này tương tự kết quả của Phạm Văn Chung (2018), tương quan di truyền và tương quan kiểu hình giữa dày thịt ức và năng suất trứng của dòng vịt TS142 tương ứng là -0,19 và 0,03. Nghiên cứu về tương quan giữa cặp tính trạng này chưa thấy có tác giả nào trên thế giới báo cáo. Kết quả trong nghiên cứu này là cơ sở khoa học cho thấy rằng, việc chọn lọc nâng cao tính trạng năng suất trứng có thể làm giảm tính trạng dày thịt ức ở vịt chuyên thịt và ngược lại, điều này cần được quan tâm trong phương pháp chọn lọc. Đồng thời, việc áp dụng chỉ số để chọn lọc ba tính trạng khối lượng cơ thể ở 7 tuần tuổi, dày thịt ức ở 7 tuần tuổi và năng suất trứng 42 tuần tuổi trên dòng vịt V57 trong nghiên cứu này là hoàn toàn phù hợp, có thể cải tiến di truyền cả 3 tính trạng. 3.1.4 Giá trị giống và tiến bộ di truyền Giá trị giống, giá trị chỉ số qua 5 thế hệ của các tính trạng chọn lọc và tiến bộ di truyền của tính trạng biểu diễn qua hệ số hồi quy giữa giá trị giống trung bình theo thế hệ của dòng vịt trống V52 trình bày tại bảng 3.4, của dòng vịt mái V57 trình bày tại bảng 3.5. 73 Kết quả của dòng trống V52 cho thấy, giá trị giống cả hai tính trạng khối lượng cơ thể và dày thịt ức ở vịt trống và vịt mái đều tăng qua các thế hệ chọn lọc. Tiến bộ di truyền tính trạng khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi tăng 44,47 g/thế hệ ở vịt trống và 42,68 g/thế hệ đối với vịt mái. Tiến bộ di truyền tính trạng dày thịt ức ở 7 tuần tuổi tăng 0,304 mm/thế hệ ở vịt trống và 0,292 mm/thế hệ đối với vịt mái. Như vậy, tốc độ cải tiến di truyền ở vịt trống đều cao hơn ở vịt mái trên cả hai tính trạng chọn lọc nhưng mức chênh lệch là không nhiều. Cũng chung xu hướng với hai tính trạng chọn lọc, giá trị chỉ số ở vịt trống và vịt mái cũng tăng đều qua từng thế hệ với tốc độ tăng mỗi thế hệ ở vịt trống là 5,15 và ở vịt mái là 4,95. Bảng 3.4: Giá trị giống trung bình của khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi (KL7), dày thịt ức 7 tuần tuổi (DTU7) và chỉ số chọn lọc dòng V52 (SLI) Thế hệ Trống Mái EBVKL7 EBVDTU7 SLI EBVKL7 EBVDTU7 SLI 1 -141 -0,095 -10,50 -146 -0,020 -10,37 2 -157 0,275 -9,15 -130 0,261 -7,33 3 -103 0,758 -2,13 -92 0,726 -1,53 4 -38 0,891 3,32 -37 0,838 3,03 5 22 1,117 9,03 21 1,151 9,18 Hệ số hồi quy 44,47 0,304 5,15 42,68 0,292 4,95 Xác xuất (P) 0,016 0,004 0,002 0,003 0,002 0,000 Hệ số xác định (R2) 0,88 0,95 0,97 0,96 0,97 0,99 Tương tự dòng trống V52, ba tính trạng mục tiêu đó là khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi, dày thịt ức ở 7 tuần tuổi và năng suất trứng 42 tuần tuổi của dòng vịt mái V57 đều có giá trị giống tăng dần qua các thế hệ. Tiến bộ di truyền tính trạng khối lượng cơ thể 7 tuần tuổi tăng 11,30 g/thế hệ ở vịt trống và 13,46 g/thế hệ đối với vịt mái. Tiến bộ di truyền tính trạng dày thịt ức ở 7 tuần tuổi tăng 0,319 mm/thế hệ ở vịt trống và 0,323 mm/thế hệ đối với vịt mái. Tiến bộ di truyền năng suất trứng 42 tuần tuổi tăng 0,80 quả/thế hệ ở vịt trống và 0,96 quả/thế hệ ở vịt mái. Giá trị chỉ số ở vịt trống và vịt mái của dòng V57 cũng tăng đều qua từng thế hệ với tốc độ tăng mỗi thế hệ ở vịt trống là 9,16 và ở vịt mái là 10,73. Kết quả của dòng mái có sự trái ngược với dòng tr
File đính kèm:
luan_an_chon_tao_hai_dong_vit_cao_san_huong_thit_cho_chan_nu.pdf
NCS. LÊ THANH HẢI-LUẬN ÁN TÓM TẮT TIẾNG ANH.pdf
NCS.LÊ THANH HẢI- ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN.pdf
NCS.LÊ THANH HẢI- LUẬN ÁN TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.pdf
NCS.LÊ THANH HẢI-TRÍCH YẾU LUẬN ÁN.pdf