Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864)

thì Vitellines là dạng đạm noãn hoàng có trong sản phẩm sinh dục cái, dạng đạm này được xác định dựa vào kết quả phân tích PPP trong huyết tương nhằm tìm ra mối tương quan giữa hàm lượng PPP với các thời kỳ phát triển của tế bào trứng trong noãn sào. Vào tháng 3, cá kết trước khi bố trí thí nghiệm có đường kính trứng trung bình (0,23 ± 0,08 mm) tương đương với tuyến sinh dục ở giai đoạn II thì hàm lượng Vg trong huyết tương của cá là 0,21 ± 0,02 µg ALP/mg đạm. Sau 1 tháng nuôi vỗ, cá kết cái ở cả 3 nghiệm thức đều có tuyến sinh dục tương đương giai đoạn III, với kích thước đường kính tế bào trứng là 0,36 – 0,41 mm. Ở thời điểm này hàm lượng Vg dao động (0,26 – 0,27 µg ALP/mg đạm), khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) ở 3 nghiệm thức (Hình 4.2). Đến đầu tháng 5 (10/5), đồng thời với quá trình tăng nhanh kích thước đường kính trứng (0,5 – 0,52 mm) thì hàm lượng Vg trong huyết tương (0,83 -1,03 µg ALP/mg đạm) cũng tăng nhanh. Đặc biệt hàm lượng Vg đã tăng lên đột biến (2,46 – 2,65 µg ALP/mg đạm) ở thời điểm 15 ngày sau đó 52 (25/5). Điều này cho thấy, ở cá kết khi tuyến sinh dục phát triển từ giai đoạn III (đường kính trứng trung bình < 0,4 mm) đến giai đoạn IV (đường kính trứng từ 0,5 – 0,7 mm) thì hàm lượng Vg cũng tăng lên rất nhanh. Hàm lượng Vg của cá kết khi tuyến sinh dục ở giai đoạn III khác nhau có ý nghĩa (P < 0,05) so với giai đoạn IV, tuy nhiên hàm lượng này khác nhau không có ý nghĩa giữa các nghiệm thức (P > 0,05). Vitellogenin đảm trách sự sinh trứng cá (Matsubara et al.., 1999; Reith et al.., 2001; Matsubara et al.., 2003; Sawaguchi et al.., 2006). Những gen Vg khác nhau dẫn đến những hình thức khác nhau của đạm noãn hoàng (lipovitellin) (Reith et al.., 2001; Matsubara et al.., 2003). Theo Nguyễn Tường Anh, 1999 thì sau hai giờ khi Vg được tổng hợp người ta có thể phát hiện nó trong máu và hàm lượng này tăng lên rất nhanh trong quá trình tế bào trứng tổng hợp noãn hoàng. Kết quả nghiên cứu trên lươn đồng (Monopterus albus) cũng cho thấy trong thời kỳ tế bào trứng phát triển từ giai đoạn II đến giai đoạn IV thì hàm lượng PPP tăng lên rất nhanh (Nguyễn Anh Tuấn, 2008). Đến tháng 6, đường kính trứng cá kết ở tất cả các nghiệm thức đều ≥ 0,8 mm. Đồng thời hàm lượng Vg dao động trong khoảng 2,94 – 3,28 µg ALP/mg đạm, có tăng so với thời điểm cuối tháng 5 nhưng không tăng mạnh. Đến tháng 7 thì cả hai chỉ tiêu đường kính trứng và hàm lượng Vg đều giảm xuống. Cụ thể, đường kính trứng (0,55 – 0,57 mm) và hàm lượng Vg (0,98 – 1,03 µg ALP/mg đạm) đều giảm xuống rất nhanh và giữa các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Như vậy, trong điều kiện nuôi vỗ trong ao cá kết thành thục sinh dục vào tháng 5 và 6. Đến tháng 7, tế bào sinh dục của cá sẽ chuyển sang một chu kỳ thành thục sinh dục mới. Theo Dương Nhựt Long và Nguyễn Văn Triều (2008) thì cá kết ngoài tự nhiên thành thục sinh dục vào tháng 6, 7 hàng năm. Chế độ dinh dưỡng tốt có thể làm cho cá phát dục, thành thục và sinh sản sớm (Nguyễn Tường Anh 1999). Kết quả nghiên cứu này càng khẳng định thêm cá kết thành thục sớm hơn trong điều kiện nuôi vỗ trong ao với lượng thức ăn đầy đủ và điều kiện môi trường thích hợp. Hàm lượng Vg trong huyết tương của cá kết tăng tỷ lệ thuận với sự tăng đường kính trứng cá theo thời gian và ngược lại. Cụ thể, vào đầu tháng 4 thì hàm lượng Vg của cá ở tất cả các nghiệm thức dao động 0,26 – 0,27 µg ALP/mg đạm, đường kính tế bào trứng 0,36 – 0,41 mm (tương ứng với tuyến sinh dục giai đoạn III). Nhưng đến tháng 6 thì hàm lượng Vg và đường kính tế bào trứng cá kết tăng lên rất nhanh đạt 53 lần lượt là 2,94 – 3,28 µg ALP/mg đạm và 0,84 – 0,88 mm (tương ứng với tuyến sinh dục ở giai đoạn IV). Đến tháng 7 tuyến sinh dục của cá chủ yếu ở giai đoạn III thì các chỉ số này đều giảm nhanh chóng (Hình 4.2). Như vậy, hàm lượng Vg trong huyết tương của cá kết có sự biến động theo giai đoạn phát triển tuyến sinh dục và kích thước đường kính tế bào trứng của cá. Hàm lượng Vg tăng nhanh nhất trong giai đoạn từ đầu đến cuối tháng 5 tương ứng với tuyến sinh dục cá từ giai đoạn 3 lên giai đoạn 4 và đạt cao nhất vào tháng 6. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu trên các đối tượng thủy sản khác: lươn đồng (M. albus) (Nguyễn Anh Tuấn, 2008), tôm càng xanh (Macrobrachium rogenbergii) (Trần Thị Thanh Hiền, 2004), tôm (Macrobrachium niponese) (Okumura et al., 1992), cua (Callinectes sapidus) (Lee et al., 1996). Các chỉ số về hàm lượng Vg và đường kính trứng qua các tháng không có sự khác biệt (P > 0,05). Điều này chứng tỏ các loại thức ăn trong thí nghiệm không ảnh hưởng đến thời gian thành thục sinh dục của cá kết. y = 0,1618x + 0,3153 R 2 = 0,8668 0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0 0,0 1,0 2,0 3,0 4,0 Hàm lượng Vg (µg ALP/mg protein) Nghiệm thức I Đ ư ờ n g k ín h t rứ n g ( m m ) y = 0,1823x + 0,2929 R 2 = 0,8793 0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0 0,0 1,0 2,0 3,0 4,0 Hàm lượng Vg (µg ALP/mg protein) Nghiệm thức II Đ ư ờ n g k ín h t rứ n g ( m m ) y = 0,1643x + 0,3047 R 2 = 0,8503 0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0 0,0 1,0 2,0 3,0 4,0 Hàm lượng Vg (µg ALP/mg protein) Nghiệm thức III Đ ư ờ n g k ín h t rứ n g ( m m ) Hình 4.3. Tƣơng quan giữa đƣờng kính trứng và hàm lƣợng Vg của cá kết Sự tương quan giữa hàm lượng Vg với kích thước đường kính tế bào trứng cá kết là tương quan thuận. Ở nghiệm thức I phương trình 54 tương quan giữa hàm lượng Vg và đường kính trứng là y = 0,1618x + 0,3153 với hệ số tương quan R2 = 0,8668. Tương tự phương trình tương quan ở nghiệm thức 2 là y = 0,1823x + 0,2929 với R2 = 0,8793 và nghiệm thức 3 là y = 0,1643x + 0,3047 với R2 = 0,8503. Trong đó: x là hàm lượng Vg và y là kích thước đường kính tế bào trứng (Hình 4.3). Qua phân tích kết quả cho thấy sự tương quan trên là chặt chẽ với hệ số tương quan R2 > 0,85 ở cả 3 nghiệm thức. 4.1.2.3. Ảnh hƣởng của thức ăn nuôi vỗ đến hệ số thành thục, sức sinh sản và hàm lƣợng Vg của cá kết Ảnh hưởng của thức ăn nuôi vỗ đến hệ số thành thục sinh dục cá kết được thể hiện ở Bảng 4.4. Bảng 4.4: Hệ số thành thục và hàm lƣợng Vg của cá kết Thời gian Nghiệm thức Hệ số thành thục (%) Hàm lƣợng Vg (µg ALP/mg đạm) Cá đực Cá cái Cá cái 10/3/2010 I 0,05 ± 0,01 a 0,23 ± 0,01 a 0,21 ± 0,03 a II 0,04 ± 0,01 a 0,23 ± 0,01 a 0,21 ± 0,02 a III 0,04 ± 0,01 a 0,23 ± 0,02 a 0,21 ± 0,02 a 10/6/2010 I 0,98 ± 0,21 b 3,80 ± 0,08 d 3,28 ± 0,65 b II 0,79 ± 0,13 b 3,27 ± 0,29 c 2,94 ± 0,60 b III 0,81 ± 0,23 b 2,57 ± 0,09 b 3,08 ± 0,58 b Giá trị trong bảng là số trung bình và độ lệch. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái (a,b,c,) giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05) Trước khi tiến hành bố trí thí nghiệm, hệ số thành thục sinh dục và hàm lượng Vg của cá kết cái đạt lần lượt là 0,23 % và 0,21 µg ALP/mg đạm và khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05) ở tất cả các nghiệm thức. Hệ số thành thục của cá kết đực là 0,04 – 0,05 %. Đến tháng 6, hệ số thành thục và hàm lượng Vg của cá kết cái ở tất cả các nghiệm thức đều cao hơn có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với tháng 3. Hệ số thành thục của cá cái khác nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) giữa các nghiệm thức, trong khi đó hàm lượng Vg khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) giữa các nghiệm thức. Ở nghiệm thức I, hệ số thành thục của cá cái là 3,8 ± 0,08% cao hơn có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại. Hệ số thành thục thấp nhất là ở nghiệm thức 3 (2,57 ± 0,09%) kế đến là nghiệm thức 2 (3,27 ± 0,29%) và giữa hai nghiệm thức khác nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) (Bảng 4.4). Điều này 55 chứng tỏ thức ăn có ảnh hưởng lớn đến hệ số thành thục sinh dục của cá kết cái. Thức ăn không những là cơ sở để cung cấp vật chất dinh dưỡng cho sự sinh trưởng, năng lượng cho sự trao đổi chất mà còn là nguyên liệu cho sản phẩm sinh dục. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cá bố mẹ đò i hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao trong suốt thời kỳ phát triển tuyến sinh dục (NRC, 1983; Izquierdo et al., 2001). Đa số các loài cá nếu trong quá trình nuôi vỗ được cung cấp thức ăn phù hợp với tính ăn của loài thì cá sẽ thành thục sinh dục sớm hơn và chất lượng thành thục (hệ số thành thục, sức sinh sản) sẽ tốt hơn. Cá kết ăn động vật (cá tạp và giáp xác là 2 loại thức ăn chính xuất hiện trong dạ dày) (Nguyễn Văn Triều và ctv., 2006). Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) thì cá chỉ thành thục sinh dục tốt nhất khi được cung cấp đầy đủ thức ăn phù hợp với tập tính dinh dưỡng của loài. Trong thí nghiệm này, ở nghiệm thức 1 cá có hệ số thành thục đạt cao nhất (3,8 ± 0,08%), kế đến là nghiệm thức 2 (3,27 ± 0,29%), cao hơn có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với nghiệm thức 3 (Bảng 4.4). Điều này chứng tỏ , tép tạp nước ngọt và tép tạp kết hợp với cá tạp nước ngọt là thức ăn thích hợp trong quá trình nuôi vỗ thành thục sinh dục cá kết. Trong khi đó, nghiệm thức cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp có hệ số thành thục thấp nhất. Thức ăn công nghiệp được lựa chọn trong thí nghiệm là thức ăn nuôi cá thương phẩm không phải là thức ăn chuyên để nuôi vỗ có bố mẹ. Vì vậy, thành phần dinh dưỡng trong thức ăn không phù hợp cho sự phát triển tuyến sinh dục của cá. Theo Dương Tuấn (1981) thì các chất dinh dưỡng trong thức ăn cung cấp cần được cân đối về thành phần dinh dưỡng để đảm bảo cho cá thành thục tốt. Thêm vào đó, hàm lượng đạm trong thức ăn viên nuôi vỗ (29,5%) cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng trong quá trình nuôi vỗ của cá kết. Tăng trưởng và sinh sản ở hầu hết các loài cá sẽ được cải thiện tốt hơn ở mức đạm 30 – 40% (Shim et al., 1998; Gunasekera et al., 1997; Al-Hafedh at al, 1999; El-Sayed et al., 2003; Khan et al., 2004). Theo Lê Thanh Hùng và ctv (2000) thì cá bố mẹ trong thời kỳ nuôi vỗ thành thục có nhu cầu đạm cao hơn để cá sinh tinh dịch hay noãn bào. Vào tháng 6, hệ số thành thục của cá kết đực dao động (0,79 – 0,98 %) khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05) giữa các nghiệm thức. Kiểm tra cho thấy, ở thời điểm này tất cả cá đực đều thành thục tốt (buồng tinh màu trắng sữa, căng, chứa đầy tinh dịch). Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), trong điều kiện nuôi vỗ thường cá đực thành thục sớm hơn cá cái và thời gian kéo dài hơn. Nhu cầu đạm 56 cho quá trình thành thục của cá đực cũng thấp hơn ở cá cái (Lê Thanh Hùng, 2008). Điều này cũng được thấy rõ trong quá trình nuôi vỗ cá kết, tất cả cá kết đực đều thành thục sớm hơn cá cái và hệ số thành thục giữa các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) (Bảng 4.4) Bảng 4.5. Sức sinh sản của cá kết ở thời điểm 10/6/2010 Nghiệm thức (NT) Sức sinh sản tƣơng đối (trứng/g cá cái) NT I NT II NT III 110 ± 9,13 c 76,7 ± 3,46 b 72,2 ± 1,47 a Vào tháng 6, sức sinh sản tương đối của cá dao động trong khoảng 72 – 110 trứng/g cá cái và giữa các nghiệm thức khác nhau có ý nghĩa (P < 0,05). Sức sinh sản cao nhất là ở nghiệm thức I (110 ± 9,1 trứng/g cá cái), kế đến là nghiệm thức II (76,7 ± 3,4 trứng/g cá cái) và thấp nhất là ở nghiệm thức III (72,2 ± 1,47 trứng/g cá cái). Như vậy, tép tạp nước ngọt là thức ăn thích hợp nhất cho quá trình nuôi vỗ thành thục cá kết. Vì đây là loại thức ăn ưa thích của cá với hàm lượng đạm cao (69% CP) thành phần dinh dưỡng cân đối, giàu vitamin và khoáng. Trong khi đó thức ăn viên công nghiệp (29,5% đạm) chưa đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho cá kết bố mẹ nên cá có hệ số thành thục và sức sinh sản thấp. Tương tự ở các loài cá khác, thức ăn có hàm lượng đạm càng cao thì khối lượng trứng càng tăng và chất lượng trứng càng tốt như cá trê (Clarias gariepinus) (Sotolu, 2010), cá lăng (Mystus nemurus) (Muchlisin et al., 2006), cá rô phi và cá trắm cỏ (Gunasekera et al., 1997; Khan et al., 2004). Tuy nhiên từ kết quả thí nghiệm có thể thấy rằng, khi nuôi vỗ thành thục sinh dục cá kết bằng thức ăn viên công nghiệp thì cá vẫn có khả năng thành thục nhưng với hệ số thành thục và sức sinh sản chưa cao. Điều này chứng tỏ, cá kết hoàn toàn có thể thành thục sinh dục tốt khi nuôi vỗ bằng thức ăn công nghiệp với điều kiện thức ăn công nghiệp phải có hàm lượng đạm và thành phần dinh dưỡng thích hợp hơn. 4.1.2.4. Biến động số lƣợng hồng cầu và hàm lƣợng hemoglobin của cá kết trong thời gian nuôi vỗ Số lượng hồng cầu trong máu cá kết cái biến động từ 2,28 ± 0,11 triệu tế bào/mm3 đến 3,32 ± 0,74 triệu tế bào/mm3, cá kết đực dao động từ 2,43 ± 0,24 đến 3,53 ± 0,61 triệu tế bào/mm3. Khi mới bắt đầu bố trí 57 thí nghiệm, số lượng hồng cầu của cá khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05) giữa các nghiệm thức, ở các lần thu mẫu kế tiếp thì số lượng hồng cầu của cá đã tăng lên cao hơn có ý nghĩa (P < 0,05) so với lần thu mẫu đầu tiên và giữa các nghiệm thức cũng khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) (Bảng 4.6). Điều này chứng tỏ không có sự ảnh hưởng của thức ăn và giai đoạn thành thục sinh dục của cá kết lên số lượng hồng cầu. Bảng 4.6: Số lƣợng hồng cầu và hàm lƣợng hemoglobin của cá kết Thời gian Nghiệm thức Số lƣợng hồng cầu (triệu tế bào/mm3) Hàm lƣợng Hemoglobin (g/100ml) Cá đực Cá cái Cá đực Cá cái 10/3/2010 I 2,43 ± 0,24 2,28 ± 0,11 4,05 ± 0,27 3,58 ± 0,12 II 2,44 ± 0,27 2,33 ± 0,13 4,18 ± 0,55 3,58 ± 0,15 III 2,48 ± 0,25 2,28 ± 0,24 4,15 ± 0,72 3,58 ± 0,13 10/4/2010 I 3,41 ± 0,54 3,32 ± 0,74 6,53 ± 0,58 6,07 ± 0,95 II 3,15 ± 0,46 2,73 ± 0,53 6,78 ± 0,93 6,92 ± 1,31 III 3,25 ± 0,34 3,05 ± 0,44 6,74 ± 1,03 6,37 ± 1,22 10/5/2010 I 3,12 ± 0,62 2,70 ± 0,46 6,76 ± 0,97 6,23 ± 0,66 II 3,24 ± 0,51 2,70 ± 0,14 7,13 ± 1,23 6,92 ± 0,90 III 3,53 ± 0,61 2,83 ± 0,32 7,05 ± 1,15 7,34 ± 1,22 25/5/2010 I 3,19 ± 0,45 2,89 ± 0,23 7,63 ± 1,42 7,56 ± 0,72 II 2,98 ± 0,56 2,74 ± 0,31 7,09 ± 0,92 6,90 ± 0,82 III 3,26 ± 0,75 3,06 ± 0,37 7,17 ± 0,87 7,25 ± 0,82 10/6/2010 I 3,19 ± 0,29 2,99 ± 0,52 7,81 ± 0,92 7,71 ± 0,52 II 3,14 ± 0,86 3,10 ± 0,93 7,04 ± 0,94 7,22 ± 0,49 III 3,17 ± 0,58 2,97 ± 0,37 7,23 ± 1,05 7,03 ± 1,23 10/7/2010 I 2,83 ± 0,42 2,83 ± 0,65 7,28 ± 1,24 6,78 ± 0,32 II 3,15 ± 0,33 3,10 ± 0,43 7,28 ± 1,23 7,26 ± 0,57 III 2,85 ± 1,23 2,68 ± 0,75 7,43 ± 1,17 7,11 ± 1,12 Tương tự như số lượng hồng cầu, khi mới bắt đầu bố trí thí nghiệm thì hàm lượng hemoglobin trong máu cá kết cái dao động từ 3,58 ± 0,15 g/100ml, cá kết đực dao động từ 4,05 ± 0,27 đến 4,18 ± 0,55 g/100ml và khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05). Ở các lần thu mẫu kế tiếp vào các tháng 4, 5, 6 và 7 thì hàm lượng hemoglobin đã tăng lên một cách đáng kể. Hàm lượng hemoglobin ở các tháng này dao động từ 6,07 ± 0,95 g/100ml đến 7,71 ± 0,52 g/100ml ở cá kết cái và từ 6,53 ± 0,58 58 g/100ml đến 7,81 ± 0,92 g/100ml ở cá kết đực, khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức và các lần thu mẫu (Bảng 4.6). Điều này cho thấy, không có sự ảnh hưởng của thức ăn đến hàm lượng hemoglobin trong máu cá kết. Kết quả nghiên cứu này cho thấy hàm lượng hemoglobin trong máu cá kết cũng tương tự như cá trê (Clarias gariepinus) (Adeyemo et al., 2003; Gabriel et al., 2004), nhưng thấp hơn cá rô phi đỏ (7,3 g/100ml), cá rô phi (Nile tilapia) (10,4 g/100ml) và cá rô phi lai (hybrid tilapia) (12,7 g/100ml) (Adam et al., 2004; Terry et al., 2000). Số lượng hồng cầu và hàm lượng hemoglobin ở các nghiệm thức trong các lần thu mẫu sau (tháng 4, 5, 6 và 7) cao hơn có ý nghĩa (P < 0,05) so với lúc mới bố trí thí nghiệm (tháng 3). Nguyên nhân là do cá kết bố mẹ khi bố trí thí nghiệm mới được bắt về từ các bè nuôi cá đặt trên sông ở khu vực thượng nguồn của tỉnh An Giang và Đồng Tháp với chất lượng nước tốt và dòng chảy rất mạnh. Sau đó , cá được thả vào giai nuôi vỗ trong ao nước tĩnh với hàm lượng ôxy hòa tan thấp hơn đã gây ảnh hưởng đến hàm lượng hemoglobin trong máu cá kết. Theo Teixeira (2000) thì các chỉ tiêu sinh lý và sinh hóa máu bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường, giới tính, tuổi và thức ăn. Hàm lượng hemoglobin khác nhau ở cá đối (Mugil platanus) khi được nuôi trong bể với cá đối ngoài tự nhiên. Cụ thể cá được nuôi trong bể có hàm lượng hemoglobin (10,24 g/100ml) cao hơn cá đối tự nhiên (6,7 g/100ml) (Ranzani – Paiva và Ishikawa, 1996). Thêm vào đó, khi cá chuyển sang giai đoạn thành thục sinh dục thì cường độ trao đổi chất tăng lên. Điều này cũng dẫn đến sự tăng hàm lượng hemoglobin trong máu cá. Theo Vijayakumari và Murali (2012) thì có mối liên hệ giữa các chỉ tiêu huyết học với cường độ trao đổi chất của cá. Cá ở giai đoạn thành thục thì cường độ trao đổi chất sẽ tăng lên làm cho số lượng hồng cầu và hàm lượng hemoglobin cũng tăng theo . Ở cá kết cũng tương tự, cụ thể vào thời gian mới bắt đầu bố trí thí nghiệm số lượng hồng cầu và hàm lượng hemoglobin thấp nhưng vào các lần thu mẫu sau thì số lượng hồng cầu và hàm lượng hemoglobin đã tăng lên và cao hơn có ý nghĩa (P < 0,05). Quá trình trao đổi chất cũng tăng lên làm cho các chỉ tiêu huyết học cũng tăng theo ở cá trôi (Labeo rohita) (Siddiqui và Naseem, 1979) và cá chép (C. carpio) (Sopinska, 1983). Ngoài ra, trong thời gian thành thục tuyến sinh dục thì cũng xảy ra sự thay đổi hoạt động của hormon làm cho các chỉ tiêu huyết học cũng thay đổi (Joshi, 1980). 59 4.2. Ảnh hƣởng của loại và liều lƣợng hormone đến sinh sản cá kết 4.2.1. Ảnh hƣởng liều lƣợng não thùy đến kết quả sinh sản cá kết Kết quả sinh sản nhân tạo cá kết bằng não thùy ở các liều lượng 1,5; 2,5 và 3,5 mg/kg cá cái được thể hiện ở Bảng 4.7. Bảng 4.7: Kết quả sinh sản nhân tạo cá kết bằng não thùy Giá trị trong bảng là số trung bình và độ lệch. Giá trị trên cùng một cột có các chữ cái (a,b,) giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) Thời gian hiệu ứng thuốc ở các nghiệm thức lần lượt là 9 giờ 05 phút, 8 giờ 45 phút và 7 giờ 30 phút ở nhiệt độ nước 28,5 – 30,50C. Kết quả thí nghiệm cho thấy, thời gian hiệu ứng ngắn khi liều lượng hormon tăng. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), thì cùng một loài cá với mức độ thành thục sinh dục và điều kiện môi trường như nhau thì nếu tăng liều lượng hormon trong giới hạn nhất định sẽ dẫn đến thời gian hiệu ứng thuốc ngắn. Bảng 4.7 cho thấy, tỷ lệ cá cái rụng trứng của các nghiệm thức lần lượt là 11,1 ± 9,2%; 44,5 ± 8,5% và 88,9 ± 9,2%. Tỷ lệ rụng trứng cao nhất là ở nghiệm thức III cao hơn có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại. Sức sinh sản tương đối của các nghiệm thức khác nhau lần lượt là 22.786 ± 9.467; 65.201 ± 6.799 và 115.388 ± 13.487 trứng/kg cá cái. Tỷ lệ thụ tinh lần lượt là 17,3 ± 5,8%; 59,3 ± 4,6% và 73,3 ± 6,1%. Tỷ lệ nở lần lượt là 23,7 ± 4,1%; 52,4 ± 7,8% và 85,4 ± 10,1%. Ở liều lượng 3,5 mg/kg cá cái (NT III) , sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở cao hơn có ý nghĩa (P < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại (Bảng 4.7). Ở các nghiệm thức I và II, các chỉ tiêu sinh sản của cá thấp và không ổn định là do ở mức nồng độ não thùy thấp không đủ để kích thích trứng chín và rụng. Theo Zonneveld et al.., 1988 thì kích thích sinh sản nhân tạo cá trê (Clarias batrachus) bằng não thùy với liều 6 mg/kg cá cái sẽ cho kết quả sinh sản tốt. Trong khi đó, đối với cá tra (Pangasius sutchi) thì cần liều não thùy cao hơn và phải tiêm 2 lần: lần 1 với liều 3 – 4 mg/kg cá; lần 2 với liều 6 – 12 mg/kg cá cái và cách nhau 8 giờ (Thalathiah et al.., 1988). Thêm vào đó, hiện nay chất lượng Nghiệm thức Tỷ lệ rụng trứng (%) Sức sinh sản tƣơng đối (trứng/kg cá cái) Tỷ lệ thụ tinh (%) Tỷ lệ nở (%) ĐC (nước muối 9‰) 0 - - - I (1,5 mg/kg cá cái) 11,1 a ± 9,2 22.786 ± 9.467 a 17,3 ± 5,8 a 23,7 ± 4,1 a II (2,5 mg/kg cá cái) 44,5 b ± 8,5 65.201 ± 6.799 b 59,3 ± 4,6 b 52,4 ± 7,8 b III (3,5 mg/kg cá cái) 88,9 c ± 9,2 115
File đính kèm:
luan_an_co_so_khoa_hoc_cua_viec_nuoi_vo_thanh_thuc_va_ky_thu.pdf
thongtin_LA.doc
TomtatLA_En.doc
TomtatLA_En.pdf
TomtatLA_Vi.doc
TomtatLA_Vi.pdf