Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864)

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 1

Trang 1

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 2

Trang 2

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 3

Trang 3

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 4

Trang 4

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 5

Trang 5

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 6

Trang 6

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 7

Trang 7

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 8

Trang 8

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 9

Trang 9

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 135 trang nguyenduy 06/10/2025 40
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864)

Luận án Cơ sở khoa học của việc nuôi vỗ thành thục và kỹ thuật sản xuất giống cá kết (Micronema bleekeri Gunther, 1864)
thì Vitellines là dạng đạm noãn 
hoàng có trong sản phẩm sinh dục cái, dạng đạm này được xác định dựa 
vào kết quả phân tích PPP trong huyết tương nhằm tìm ra mối tương 
quan giữa hàm lượng PPP với các thời kỳ phát triển của tế bào trứng 
trong noãn sào. Vào tháng 3, cá kết trước khi bố trí thí nghiệm có 
đường kính trứng trung bình (0,23 ± 0,08 mm) tương đương với tuyến 
sinh dục ở giai đoạn II thì hàm lượng Vg trong huyết tương của cá là 
0,21 ± 0,02 µg ALP/mg đạm. Sau 1 tháng nuôi vỗ, cá kết cái ở cả 3 
nghiệm thức đều có tuyến sinh dục tương đương giai đoạn III, với kích 
thước đường kính tế bào trứng là 0,36 – 0,41 mm. Ở thời điểm này hàm 
lượng Vg dao động (0,26 – 0,27 µg ALP/mg đạm), khác nhau không có 
ý nghĩa thống kê (P > 0,05) ở 3 nghiệm thức (Hình 4.2). Đến đầu tháng 
5 (10/5), đồng thời với quá trình tăng nhanh kích thước đường kính 
trứng (0,5 – 0,52 mm) thì hàm lượng Vg trong huyết tương (0,83 -1,03 
µg ALP/mg đạm) cũng tăng nhanh. Đặc biệt hàm lượng Vg đã tăng lên 
đột biến (2,46 – 2,65 µg ALP/mg đạm) ở thời điểm 15 ngày sau đó 
 52 
(25/5). Điều này cho thấy, ở cá kết khi tuyến sinh dục phát triển từ giai 
đoạn III (đường kính trứng trung bình < 0,4 mm) đến giai đoạn IV 
(đường kính trứng từ 0,5 – 0,7 mm) thì hàm lượng Vg cũng tăng lên rất 
nhanh. Hàm lượng Vg của cá kết khi tuyến sinh dục ở giai đoạn III khác 
nhau có ý nghĩa (P < 0,05) so với giai đoạn IV, tuy nhiên hàm lượng 
này khác nhau không có ý nghĩa giữa các nghiệm thức (P > 0,05). 
Vitellogenin đảm trách sự sinh trứng cá (Matsubara et al.., 1999; Reith 
et al.., 2001; Matsubara et al.., 2003; Sawaguchi et al.., 2006). Những 
gen Vg khác nhau dẫn đến những hình thức khác nhau của đạm noãn 
hoàng (lipovitellin) (Reith et al.., 2001; Matsubara et al.., 2003). Theo 
Nguyễn Tường Anh, 1999 thì sau hai giờ khi Vg được tổng hợp người 
ta có thể phát hiện nó trong máu và hàm lượng này tăng lên rất nhanh 
trong quá trình tế bào trứng tổng hợp noãn hoàng. Kết quả nghiên cứu 
trên lươn đồng (Monopterus albus) cũng cho thấy trong thời kỳ tế bào 
trứng phát triển từ giai đoạn II đến giai đoạn IV thì hàm lượng PPP tăng 
lên rất nhanh (Nguyễn Anh Tuấn, 2008). 
Đến tháng 6, đường kính trứng cá kết ở tất cả các nghiệm thức đều 
≥ 0,8 mm. Đồng thời hàm lượng Vg dao động trong khoảng 2,94 – 3,28 
µg ALP/mg đạm, có tăng so với thời điểm cuối tháng 5 nhưng không 
tăng mạnh. Đến tháng 7 thì cả hai chỉ tiêu đường kính trứng và hàm 
lượng Vg đều giảm xuống. Cụ thể, đường kính trứng (0,55 – 0,57 mm) 
và hàm lượng Vg (0,98 – 1,03 µg ALP/mg đạm) đều giảm xuống rất 
nhanh và giữa các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P 
> 0,05). Như vậy, trong điều kiện nuôi vỗ trong ao cá kết thành thục 
sinh dục vào tháng 5 và 6. Đến tháng 7, tế bào sinh dục của cá sẽ 
chuyển sang một chu kỳ thành thục sinh dục mới. Theo Dương Nhựt 
Long và Nguyễn Văn Triều (2008) thì cá kết ngoài tự nhiên thành thục 
sinh dục vào tháng 6, 7 hàng năm. Chế độ dinh dưỡng tốt có thể làm 
cho cá phát dục, thành thục và sinh sản sớm (Nguyễn Tường Anh 
1999). Kết quả nghiên cứu này càng khẳng định thêm cá kết thành thục 
sớm hơn trong điều kiện nuôi vỗ trong ao với lượng thức ăn đầy đủ và 
điều kiện môi trường thích hợp. 
Hàm lượng Vg trong huyết tương của cá kết tăng tỷ lệ thuận với sự 
tăng đường kính trứng cá theo thời gian và ngược lại. Cụ thể, vào đầu 
tháng 4 thì hàm lượng Vg của cá ở tất cả các nghiệm thức dao động 
0,26 – 0,27 µg ALP/mg đạm, đường kính tế bào trứng 0,36 – 0,41 mm 
(tương ứng với tuyến sinh dục giai đoạn III). Nhưng đến tháng 6 thì 
hàm lượng Vg và đường kính tế bào trứng cá kết tăng lên rất nhanh đạt 
 53 
lần lượt là 2,94 – 3,28 µg ALP/mg đạm và 0,84 – 0,88 mm (tương ứng 
với tuyến sinh dục ở giai đoạn IV). Đến tháng 7 tuyến sinh dục của cá 
chủ yếu ở giai đoạn III thì các chỉ số này đều giảm nhanh chóng (Hình 
4.2). Như vậy, hàm lượng Vg trong huyết tương của cá kết có sự biến 
động theo giai đoạn phát triển tuyến sinh dục và kích thước đường kính 
tế bào trứng của cá. Hàm lượng Vg tăng nhanh nhất trong giai đoạn từ 
đầu đến cuối tháng 5 tương ứng với tuyến sinh dục cá từ giai đoạn 3 lên 
giai đoạn 4 và đạt cao nhất vào tháng 6. Kết quả này cũng tương tự như 
nghiên cứu trên các đối tượng thủy sản khác: lươn đồng (M. albus) 
(Nguyễn Anh Tuấn, 2008), tôm càng xanh (Macrobrachium 
rogenbergii) (Trần Thị Thanh Hiền, 2004), tôm (Macrobrachium 
niponese) (Okumura et al., 1992), cua (Callinectes sapidus) (Lee et al., 
1996). Các chỉ số về hàm lượng Vg và đường kính trứng qua các tháng 
không có sự khác biệt (P > 0,05). Điều này chứng tỏ các loại thức ăn 
trong thí nghiệm không ảnh hưởng đến thời gian thành thục sinh dục 
của cá kết. 
y = 0,1618x + 0,3153
R
2
 = 0,8668
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
0,0 1,0 2,0 3,0 4,0
Hàm lượng Vg (µg ALP/mg protein)
Nghiệm thức I
Đ
ư
ờ
n
g
 k
ín
h
 t
rứ
n
g
 (
m
m
)
y = 0,1823x + 0,2929
R
2
 = 0,8793
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
0,0 1,0 2,0 3,0 4,0
Hàm lượng Vg (µg ALP/mg protein)
Nghiệm thức II
Đ
ư
ờ
n
g
 k
ín
h
 t
rứ
n
g
 (
m
m
)
y = 0,1643x + 0,3047
R
2
 = 0,8503
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
0,0 1,0 2,0 3,0 4,0
Hàm lượng Vg (µg ALP/mg protein)
Nghiệm thức III
Đ
ư
ờ
n
g
 k
ín
h
 t
rứ
n
g
 (
m
m
)
Hình 4.3. Tƣơng quan giữa đƣờng kính trứng và hàm lƣợng Vg của cá kết 
Sự tương quan giữa hàm lượng Vg với kích thước đường kính tế 
bào trứng cá kết là tương quan thuận. Ở nghiệm thức I phương trình 
 54 
tương quan giữa hàm lượng Vg và đường kính trứng là y = 0,1618x + 
0,3153 với hệ số tương quan R2 = 0,8668. Tương tự phương trình tương 
quan ở nghiệm thức 2 là y = 0,1823x + 0,2929 với R2 = 0,8793 và 
nghiệm thức 3 là y = 0,1643x + 0,3047 với R2 = 0,8503. Trong đó: x là 
hàm lượng Vg và y là kích thước đường kính tế bào trứng (Hình 4.3). 
Qua phân tích kết quả cho thấy sự tương quan trên là chặt chẽ với hệ số 
tương quan R2 > 0,85 ở cả 3 nghiệm thức. 
4.1.2.3. Ảnh hƣởng của thức ăn nuôi vỗ đến hệ số thành thục, sức 
sinh sản và hàm lƣợng Vg của cá kết 
Ảnh hưởng của thức ăn nuôi vỗ đến hệ số thành thục sinh dục cá kết 
được thể hiện ở Bảng 4.4. 
Bảng 4.4: Hệ số thành thục và hàm lƣợng Vg của cá kết 
Thời gian 
Nghiệm 
thức 
Hệ số thành thục (%) 
Hàm lƣợng Vg 
(µg ALP/mg đạm) 
Cá đực Cá cái Cá cái 
10/3/2010 
I 0,05 ± 0,01
a
 0,23 ± 0,01
a
 0,21 ± 0,03
a
II 0,04 ± 0,01
a
 0,23 ± 0,01
a
 0,21 ± 0,02
a
III 0,04 ± 0,01
a
 0,23 ± 0,02
a
 0,21 ± 0,02
a
10/6/2010 
I 0,98 ± 0,21
b
 3,80 ± 0,08
d
 3,28 ± 0,65
b
II 0,79 ± 0,13
b
 3,27 ± 0,29
c
 2,94 ± 0,60
b
III 0,81 ± 0,23
b
 2,57 ± 0,09
b
 3,08 ± 0,58
b
Giá trị trong bảng là số trung bình và độ lệch. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái (a,b,c,) 
giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05) 
Trước khi tiến hành bố trí thí nghiệm, hệ số thành thục sinh dục và 
hàm lượng Vg của cá kết cái đạt lần lượt là 0,23 % và 0,21 µg ALP/mg 
đạm và khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05) ở tất cả các nghiệm 
thức. Hệ số thành thục của cá kết đực là 0,04 – 0,05 %. Đến tháng 6, hệ 
số thành thục và hàm lượng Vg của cá kết cái ở tất cả các nghiệm thức 
đều cao hơn có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với tháng 3. Hệ số thành 
thục của cá cái khác nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) giữa các 
nghiệm thức, trong khi đó hàm lượng Vg khác nhau không có ý nghĩa 
thống kê (P > 0,05) giữa các nghiệm thức. Ở nghiệm thức I, hệ số thành 
thục của cá cái là 3,8 ± 0,08% cao hơn có ý nghĩa so với các nghiệm 
thức còn lại. Hệ số thành thục thấp nhất là ở nghiệm thức 3 (2,57 ± 
0,09%) kế đến là nghiệm thức 2 (3,27 ± 0,29%) và giữa hai nghiệm 
thức khác nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) (Bảng 4.4). Điều này 
 55 
chứng tỏ thức ăn có ảnh hưởng lớn đến hệ số thành thục sinh dục của cá 
kết cái. Thức ăn không những là cơ sở để cung cấp vật chất dinh dưỡng 
cho sự sinh trưởng, năng lượng cho sự trao đổi chất mà còn là nguyên 
liệu cho sản phẩm sinh dục. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cá bố mẹ đò i 
hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao trong suốt thời kỳ phát triển tuyến sinh dục 
(NRC, 1983; Izquierdo et al., 2001). Đa số các loài cá nếu trong quá 
trình nuôi vỗ được cung cấp thức ăn phù hợp với tính ăn của loài thì cá 
sẽ thành thục sinh dục sớm hơn và chất lượng thành thục (hệ số thành 
thục, sức sinh sản) sẽ tốt hơn. Cá kết ăn động vật (cá tạp và giáp xác là 
2 loại thức ăn chính xuất hiện trong dạ dày) (Nguyễn Văn Triều và ctv., 
2006). Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) thì cá chỉ 
thành thục sinh dục tốt nhất khi được cung cấp đầy đủ thức ăn phù hợp 
với tập tính dinh dưỡng của loài. Trong thí nghiệm này, ở nghiệm thức 
1 cá có hệ số thành thục đạt cao nhất (3,8 ± 0,08%), kế đến là nghiệm 
thức 2 (3,27 ± 0,29%), cao hơn có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với 
nghiệm thức 3 (Bảng 4.4). Điều này chứng tỏ , tép tạp nước ngọt và tép 
tạp kết hợp với cá tạp nước ngọt là thức ăn thích hợp trong quá trình 
nuôi vỗ thành thục sinh dục cá kết. Trong khi đó, nghiệm thức cho cá 
ăn thức ăn viên công nghiệp có hệ số thành thục thấp nhất. Thức ăn 
công nghiệp được lựa chọn trong thí nghiệm là thức ăn nuôi cá thương 
phẩm không phải là thức ăn chuyên để nuôi vỗ có bố mẹ. Vì vậy, thành 
phần dinh dưỡng trong thức ăn không phù hợp cho sự phát triển tuyến 
sinh dục của cá. Theo Dương Tuấn (1981) thì các chất dinh dưỡng 
trong thức ăn cung cấp cần được cân đối về thành phần dinh dưỡng để 
đảm bảo cho cá thành thục tốt. Thêm vào đó, hàm lượng đạm trong thức 
ăn viên nuôi vỗ (29,5%) cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng 
trong quá trình nuôi vỗ của cá kết. Tăng trưởng và sinh sản ở hầu hết 
các loài cá sẽ được cải thiện tốt hơn ở mức đạm 30 – 40% (Shim et al., 
1998; Gunasekera et al., 1997; Al-Hafedh at al, 1999; El-Sayed et al., 
2003; Khan et al., 2004). Theo Lê Thanh Hùng và ctv (2000) thì cá bố 
mẹ trong thời kỳ nuôi vỗ thành thục có nhu cầu đạm cao hơn để cá sinh 
tinh dịch hay noãn bào. 
Vào tháng 6, hệ số thành thục của cá kết đực dao động (0,79 – 
0,98 %) khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05) giữa các nghiệm thức. 
Kiểm tra cho thấy, ở thời điểm này tất cả cá đực đều thành thục tốt 
(buồng tinh màu trắng sữa, căng, chứa đầy tinh dịch). Theo Phạm Minh 
Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), trong điều kiện nuôi vỗ thường cá 
đực thành thục sớm hơn cá cái và thời gian kéo dài hơn. Nhu cầu đạm 
 56 
cho quá trình thành thục của cá đực cũng thấp hơn ở cá cái (Lê Thanh 
Hùng, 2008). Điều này cũng được thấy rõ trong quá trình nuôi vỗ cá 
kết, tất cả cá kết đực đều thành thục sớm hơn cá cái và hệ số thành thục 
giữa các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) 
(Bảng 4.4) 
Bảng 4.5. Sức sinh sản của cá kết ở thời điểm 10/6/2010 
Nghiệm thức (NT) Sức sinh sản tƣơng đối 
(trứng/g cá cái) 
NT I 
NT II 
NT III 
110 ± 9,13
c 
76,7 ± 3,46
b 
72,2 ± 1,47
a
Vào tháng 6, sức sinh sản tương đối của cá dao động trong khoảng 
72 – 110 trứng/g cá cái và giữa các nghiệm thức khác nhau có ý nghĩa 
(P < 0,05). Sức sinh sản cao nhất là ở nghiệm thức I (110 ± 9,1 trứng/g 
cá cái), kế đến là nghiệm thức II (76,7 ± 3,4 trứng/g cá cái) và thấp nhất 
là ở nghiệm thức III (72,2 ± 1,47 trứng/g cá cái). Như vậy, tép tạp nước 
ngọt là thức ăn thích hợp nhất cho quá trình nuôi vỗ thành thục cá kết. 
Vì đây là loại thức ăn ưa thích của cá với hàm lượng đạm cao (69% CP) 
thành phần dinh dưỡng cân đối, giàu vitamin và khoáng. Trong khi đó 
thức ăn viên công nghiệp (29,5% đạm) chưa đáp ứng đủ nhu cầu dinh 
dưỡng cho cá kết bố mẹ nên cá có hệ số thành thục và sức sinh sản 
thấp. Tương tự ở các loài cá khác, thức ăn có hàm lượng đạm càng cao 
thì khối lượng trứng càng tăng và chất lượng trứng càng tốt như cá trê 
(Clarias gariepinus) (Sotolu, 2010), cá lăng (Mystus nemurus) 
(Muchlisin et al., 2006), cá rô phi và cá trắm cỏ (Gunasekera et al., 
1997; Khan et al., 2004). Tuy nhiên từ kết quả thí nghiệm có thể thấy 
rằng, khi nuôi vỗ thành thục sinh dục cá kết bằng thức ăn viên công 
nghiệp thì cá vẫn có khả năng thành thục nhưng với hệ số thành thục và 
sức sinh sản chưa cao. Điều này chứng tỏ, cá kết hoàn toàn có thể thành 
thục sinh dục tốt khi nuôi vỗ bằng thức ăn công nghiệp với điều kiện 
thức ăn công nghiệp phải có hàm lượng đạm và thành phần dinh dưỡng 
thích hợp hơn. 
4.1.2.4. Biến động số lƣợng hồng cầu và hàm lƣợng hemoglobin của 
cá kết trong thời gian nuôi vỗ 
Số lượng hồng cầu trong máu cá kết cái biến động từ 2,28 ± 0,11 
triệu tế bào/mm3 đến 3,32 ± 0,74 triệu tế bào/mm3, cá kết đực dao động 
từ 2,43 ± 0,24 đến 3,53 ± 0,61 triệu tế bào/mm3. Khi mới bắt đầu bố trí 
 57 
thí nghiệm, số lượng hồng cầu của cá khác nhau không có ý nghĩa (P > 
0,05) giữa các nghiệm thức, ở các lần thu mẫu kế tiếp thì số lượng hồng 
cầu của cá đã tăng lên cao hơn có ý nghĩa (P < 0,05) so với lần thu mẫu 
đầu tiên và giữa các nghiệm thức cũng khác nhau không có ý nghĩa 
thống kê (P > 0,05) (Bảng 4.6). Điều này chứng tỏ không có sự ảnh 
hưởng của thức ăn và giai đoạn thành thục sinh dục của cá kết lên số 
lượng hồng cầu. 
Bảng 4.6: Số lƣợng hồng cầu và hàm lƣợng hemoglobin của cá kết 
Thời gian 
Nghiệm 
thức 
Số lƣợng hồng cầu 
(triệu tế bào/mm3) 
Hàm lƣợng Hemoglobin 
(g/100ml) 
Cá đực Cá cái Cá đực Cá cái 
10/3/2010 
I 2,43 ± 0,24 2,28 ± 0,11 4,05 ± 0,27 3,58 ± 0,12 
II 2,44 ± 0,27 2,33 ± 0,13 4,18 ± 0,55 3,58 ± 0,15 
III 2,48 ± 0,25 2,28 ± 0,24 4,15 ± 0,72 3,58 ± 0,13 
10/4/2010 
I 3,41 ± 0,54 3,32 ± 0,74 6,53 ± 0,58 6,07 ± 0,95 
II 3,15 ± 0,46 2,73 ± 0,53 6,78 ± 0,93 6,92 ± 1,31 
III 3,25 ± 0,34 3,05 ± 0,44 6,74 ± 1,03 6,37 ± 1,22 
10/5/2010 
I 3,12 ± 0,62 2,70 ± 0,46 6,76 ± 0,97 6,23 ± 0,66 
II 3,24 ± 0,51 2,70 ± 0,14 7,13 ± 1,23 6,92 ± 0,90 
III 3,53 ± 0,61 2,83 ± 0,32 7,05 ± 1,15 7,34 ± 1,22 
25/5/2010 
I 3,19 ± 0,45 2,89 ± 0,23 7,63 ± 1,42 7,56 ± 0,72 
II 2,98 ± 0,56 2,74 ± 0,31 7,09 ± 0,92 6,90 ± 0,82 
III 3,26 ± 0,75 3,06 ± 0,37 7,17 ± 0,87 7,25 ± 0,82 
10/6/2010 
I 3,19 ± 0,29 2,99 ± 0,52 7,81 ± 0,92 7,71 ± 0,52 
II 3,14 ± 0,86 3,10 ± 0,93 7,04 ± 0,94 7,22 ± 0,49 
III 3,17 ± 0,58 2,97 ± 0,37 7,23 ± 1,05 7,03 ± 1,23 
10/7/2010 
I 2,83 ± 0,42 2,83 ± 0,65 7,28 ± 1,24 6,78 ± 0,32 
II 3,15 ± 0,33 3,10 ± 0,43 7,28 ± 1,23 7,26 ± 0,57 
III 2,85 ± 1,23 2,68 ± 0,75 7,43 ± 1,17 7,11 ± 1,12 
Tương tự như số lượng hồng cầu, khi mới bắt đầu bố trí thí nghiệm 
thì hàm lượng hemoglobin trong máu cá kết cái dao động từ 3,58 ± 0,15 
g/100ml, cá kết đực dao động từ 4,05 ± 0,27 đến 4,18 ± 0,55 g/100ml 
và khác nhau không có ý nghĩa (P > 0,05). Ở các lần thu mẫu kế tiếp 
vào các tháng 4, 5, 6 và 7 thì hàm lượng hemoglobin đã tăng lên một 
cách đáng kể. Hàm lượng hemoglobin ở các tháng này dao động từ 6,07 
± 0,95 g/100ml đến 7,71 ± 0,52 g/100ml ở cá kết cái và từ 6,53 ± 0,58 
 58 
g/100ml đến 7,81 ± 0,92 g/100ml ở cá kết đực, khác nhau không có ý 
nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức và các lần thu mẫu (Bảng 4.6). 
Điều này cho thấy, không có sự ảnh hưởng của thức ăn đến hàm lượng 
hemoglobin trong máu cá kết. Kết quả nghiên cứu này cho thấy hàm 
lượng hemoglobin trong máu cá kết cũng tương tự như cá trê (Clarias 
gariepinus) (Adeyemo et al., 2003; Gabriel et al., 2004), nhưng thấp 
hơn cá rô phi đỏ (7,3 g/100ml), cá rô phi (Nile tilapia) (10,4 g/100ml) 
và cá rô phi lai (hybrid tilapia) (12,7 g/100ml) (Adam et al., 2004; 
Terry et al., 2000). 
Số lượng hồng cầu và hàm lượng hemoglobin ở các nghiệm thức 
trong các lần thu mẫu sau (tháng 4, 5, 6 và 7) cao hơn có ý nghĩa (P < 
0,05) so với lúc mới bố trí thí nghiệm (tháng 3). Nguyên nhân là do cá 
kết bố mẹ khi bố trí thí nghiệm mới được bắt về từ các bè nuôi cá đặt 
trên sông ở khu vực thượng nguồn của tỉnh An Giang và Đồng Tháp với 
chất lượng nước tốt và dòng chảy rất mạnh. Sau đó , cá được thả vào 
giai nuôi vỗ trong ao nước tĩnh với hàm lượng ôxy hòa tan thấp hơn đã 
gây ảnh hưởng đến hàm lượng hemoglobin trong máu cá kết. Theo 
Teixeira (2000) thì các chỉ tiêu sinh lý và sinh hóa máu bị ảnh hưởng 
bởi các yếu tố môi trường, giới tính, tuổi và thức ăn. Hàm lượng 
hemoglobin khác nhau ở cá đối (Mugil platanus) khi được nuôi trong bể 
với cá đối ngoài tự nhiên. Cụ thể cá được nuôi trong bể có hàm lượng 
hemoglobin (10,24 g/100ml) cao hơn cá đối tự nhiên (6,7 g/100ml) 
(Ranzani – Paiva và Ishikawa, 1996). Thêm vào đó, khi cá chuyển sang 
giai đoạn thành thục sinh dục thì cường độ trao đổi chất tăng lên. Điều 
này cũng dẫn đến sự tăng hàm lượng hemoglobin trong máu cá. Theo 
Vijayakumari và Murali (2012) thì có mối liên hệ giữa các chỉ tiêu 
huyết học với cường độ trao đổi chất của cá. Cá ở giai đoạn thành thục 
thì cường độ trao đổi chất sẽ tăng lên làm cho số lượng hồng cầu và 
hàm lượng hemoglobin cũng tăng theo . Ở cá kết cũng tương tự, cụ thể 
vào thời gian mới bắt đầu bố trí thí nghiệm số lượng hồng cầu và hàm 
lượng hemoglobin thấp nhưng vào các lần thu mẫu sau thì số lượng 
hồng cầu và hàm lượng hemoglobin đã tăng lên và cao hơn có ý nghĩa 
(P < 0,05). Quá trình trao đổi chất cũng tăng lên làm cho các chỉ tiêu 
huyết học cũng tăng theo ở cá trôi (Labeo rohita) (Siddiqui và Naseem, 
1979) và cá chép (C. carpio) (Sopinska, 1983). Ngoài ra, trong thời 
gian thành thục tuyến sinh dục thì cũng xảy ra sự thay đổi hoạt động 
của hormon làm cho các chỉ tiêu huyết học cũng thay đổi (Joshi, 1980). 
 59 
4.2. Ảnh hƣởng của loại và liều lƣợng hormone đến sinh sản cá kết 
4.2.1. Ảnh hƣởng liều lƣợng não thùy đến kết quả sinh sản cá kết 
Kết quả sinh sản nhân tạo cá kết bằng não thùy ở các liều lượng 1,5; 2,5 
và 3,5 mg/kg cá cái được thể hiện ở Bảng 4.7. 
 Bảng 4.7: Kết quả sinh sản nhân tạo cá kết bằng não thùy 
Giá trị trong bảng là số trung bình và độ lệch. Giá trị trên cùng một cột có các chữ cái (a,b,) giống 
nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) 
Thời gian hiệu ứng thuốc ở các nghiệm thức lần lượt là 9 giờ 05 
phút, 8 giờ 45 phút và 7 giờ 30 phút ở nhiệt độ nước 28,5 – 30,50C. Kết 
quả thí nghiệm cho thấy, thời gian hiệu ứng ngắn khi liều lượng hormon 
tăng. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), thì cùng một loài cá với mức độ 
thành thục sinh dục và điều kiện môi trường như nhau thì nếu tăng liều 
lượng hormon trong giới hạn nhất định sẽ dẫn đến thời gian hiệu ứng 
thuốc ngắn. 
Bảng 4.7 cho thấy, tỷ lệ cá cái rụng trứng của các nghiệm thức lần 
lượt là 11,1 ± 9,2%; 44,5 ± 8,5% và 88,9 ± 9,2%. Tỷ lệ rụng trứng cao 
nhất là ở nghiệm thức III cao hơn có ý nghĩa so với các nghiệm thức 
còn lại. Sức sinh sản tương đối của các nghiệm thức khác nhau lần lượt 
là 22.786 ± 9.467; 65.201 ± 6.799 và 115.388 ± 13.487 trứng/kg cá cái. 
Tỷ lệ thụ tinh lần lượt là 17,3 ± 5,8%; 59,3 ± 4,6% và 73,3 ± 6,1%. Tỷ 
lệ nở lần lượt là 23,7 ± 4,1%; 52,4 ± 7,8% và 85,4 ± 10,1%. 
Ở liều lượng 3,5 mg/kg cá cái (NT III) , sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh 
và tỷ lệ nở cao hơn có ý nghĩa (P < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại 
(Bảng 4.7). Ở các nghiệm thức I và II, các chỉ tiêu sinh sản của cá thấp 
và không ổn định là do ở mức nồng độ não thùy thấp không đủ để kích 
thích trứng chín và rụng. Theo Zonneveld et al.., 1988 thì kích thích 
sinh sản nhân tạo cá trê (Clarias batrachus) bằng não thùy với liều 6 
mg/kg cá cái sẽ cho kết quả sinh sản tốt. Trong khi đó, đối với cá tra 
(Pangasius sutchi) thì cần liều não thùy cao hơn và phải tiêm 2 lần: lần 
1 với liều 3 – 4 mg/kg cá; lần 2 với liều 6 – 12 mg/kg cá cái và cách 
nhau 8 giờ (Thalathiah et al.., 1988). Thêm vào đó, hiện nay chất lượng 
Nghiệm thức 
Tỷ lệ rụng 
trứng (%) 
Sức sinh sản 
tƣơng đối 
(trứng/kg cá cái) 
Tỷ lệ thụ 
tinh (%) 
Tỷ lệ nở 
(%) 
ĐC (nước muối 9‰) 0 - - - 
I (1,5 mg/kg cá cái) 11,1
a 
± 9,2 22.786 ± 9.467
a
 17,3 ± 5,8
a
 23,7 ± 4,1
a
II (2,5 mg/kg cá cái) 44,5
b 
± 8,5 65.201 ± 6.799
b
 59,3 ± 4,6
b
 52,4 ± 7,8
b
III (3,5 mg/kg cá cái) 88,9
c 
± 9,2 115

File đính kèm:

  • pdfluan_an_co_so_khoa_hoc_cua_viec_nuoi_vo_thanh_thuc_va_ky_thu.pdf
  • docthongtin_LA.doc
  • docTomtatLA_En.doc
  • pdfTomtatLA_En.pdf
  • docTomtatLA_Vi.doc
  • pdfTomtatLA_Vi.pdf