Luận án Đặc điểm đất dưới rừng dầu nhiệt đới (Dipterocarpaceae) và khả năng chuyển đổi trồng cao su ở Tây Nguyên

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đặc điểm đất dưới rừng dầu nhiệt đới (Dipterocarpaceae) và khả năng chuyển đổi trồng cao su ở Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đặc điểm đất dưới rừng dầu nhiệt đới (Dipterocarpaceae) và khả năng chuyển đổi trồng cao su ở Tây Nguyên

bằng - cơ sở cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng lúa, hoa màu. c) Tài nguyên nước ngầm: Theo tài liệu nghiên cứu thăm dò, đánh giá nước dưới đất của Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Địa chất Trường Mỏ Địa chất và Trung Tâm tư vấn Công nghệ Môi trường thuộc liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt nam: nước dưới đất có trữ lượng và chất lượng tốt, thường tồn tại trong các khe nứt của đá phun trào Bazan. Đặc biệt ở đây có hiện tượng mất nước (nước tầng trên chảy xuống tầng dưới). Trong các trầm tích bở rời Đệ tứ, trầm tích Neogen, trầm tích Jura có mức chứa nước từ nghèo đến trung bình, còn các tầng khác không đáng kể. Nước dưới đất ở Tây Nguyên có tổng trữ lượng: 25,5 x 106m3/ngày phân bố không đều. Các cao nguyên như: Pleiku, Buôn Ma Thuột và Đăk Nông có nguồn nước ngầm đồi dào. Trong khi các vùng khác như: Cheo Reo, Phú Túc và An Khê có mực nước ngầm rất sâu và trữ lượng nước thấp. 75 Về trữ lượng khai thác nước dưới đất trong các phân vị địa chất thuỷ văn tổng cộng đạt 19,3 triệu m3/ngày. Đối với vùng tập trung nghiên cứu, chiều sâu mực nước ngầm thay đổi lớn, theo bề mặt địa hình và điều kiện thế nằm của tầng. Chiều sâu mực nước biến đổi từ 4 - 57 m ở Buôn Ma Thuột. Tài nguyên nước ngầm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tương đối phong phú nhưng chỉ tập trung ở khối Bazan Buôn Ma Thuột - Krông Buk. Ngoài ra ở một số khối Bazan khác có trữ lượng nước ngầm nhỏ hơn. Tại những khu vực này có thể khai thác nước để phục vụ sinh hoạt, kinh tế vườn và tưới cho cây trồng qua giếng đào, giếng khoan. Nhưng ở một số khu vực như M’Đrăk, Krông Bông, Ea Kar, phía đông huyện Ea Hleo lượng nước ngầm rất kém việc đầu tư khai thác đòi hỏi nguồn kinh phí lớn. Kết quả đánh giá của Trung tâm nghiên cứu Môi trường Địa chất - Trường Đại học Tổng hợp Địa chất và Khoáng sản về trữ lượng và tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk như sau: Bảng 3.6: Trữ lượng khai thác tiềm năng của khu vực trong tỉnh Đắk Lắk STT Vùng Trữ lượng tĩnh tiềm năng (m3) Trữ lượng động tiềm năng (m3) Trữ lượng khai thác tiềm năng (m3/ngày) 1 Cao nguyên BMT 25.000 x 10 6 170.676 944.613 2 Cao nguyên M’Đrăk 214 x 106 11.033 17.453 3 Krông Pách- Lăk 202 x 106 63.562 69.723 4 Bình nguyên Ea Súp 5.997 x 10 6 1.600.000 1.779.910 Tổng 2.811.699 Nguồn: [119] Vùng nghiên cứu phần lớn diện tích thuộc vùng có nguồn nước đặc biệt khó khăn, nhất là vùng bình nguyên Ea Súp (bao gồm phần lớn huyện Ea Súp và Buôn Đôn, một phần ở Ea Hleo). Do mùa mưa tập trung lượng nước dư thừa, mùa khô nhiệt độ rất cao, lượng bốc hơi rất lớn làm nước trong đất bị khô kiệt. d) Hiện trạng thủy lợi: Trước giải phóng 5 tỉnh Tây Nguyên chỉ xây dựng được một số công trình thuỷ lợi nhỏ chủ yếu là đập dâng như: đập Đăk Tía, An Phú năng lực tưới trên 500 ha. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, công tác thuỷ lợi trên 5 tỉnh đã phát 76 triển mạnh mẽ, hàng loạt các công trình thuỷ lợi lớn, nhỏ đã được xây dựng với hình thức: nhân dân làm và Nhà nước hỗ trợ. Đến năm 2015, toàn vùng đã xây dựng 2.354 công trình gồm: hồ chứa 1.190 cái, đập dâng 972 cái, trạm bơm 130 cái. Năng lực tưới thiết kế 288,5 nghìn ha, đã tưới 214,6 nghìn ha, trong đó lúa 83,15 nghìn ha, cây công nghiệp 117 nghìn ha (bảng 3.7). Trong các lưu vực của vùng còn xây dựng 62 công trình thủy lợi khác có khả năng tưới cho hơn 10 nghìn ha. Bảng 3.7: Tổng hợp hiện trạng thủy lợi vùng Tây Nguyên năm 2015 TT Vùng Số lượng công trình (CT) F tưới thiết kế (tk) (ha) Diện tích tưới thực tế (ha) Thực tế (tt)/tk (%) F cần tưới (ha) Ftt/F cần tưới (%) Tổng Lúa CCN Màu+ cây khác I Toàn vùng 2.354 288.484 214.645 83.145 117.015 14.485 74,40 772.189 27,80 1 Hồ chứa 1.190 211.811 148.907 41.059 199.348 8.500 2 Đập dâng 972 50.571 40.297 19.663 15.374 5.260 3 Trạm bơm 130 15.933 14.771 12.119 2.000 652 4 CT khác 62 10.169 10.670 10.305 293 73 II Theo từng tỉnh 1 Tỉnh Kon Tum 525 16.923 9.187 6.242 2.843 101 54,29 22.033 41,70 2 Tỉnh Gia Lai 337 68.347 45.614 26.723 16.229 2.662 66,74 130.187 35,04 3 Tỉnh Đăk Lăk 754 113.297 89.820 35.969 51.799 2.051 79,28 282.964 31,74 4 Tỉnh Đăk Nông 229 43.648 32.859 4.206 25.985 2.669 75,28 145.147 22,64 5 Tỉnh Lâm Đồng 509 46.269 37.166 10.005 20.158 7.003 80,33 191.858 19,37 Nguồn: [128] Ngoài việc cung cấp nước cho các nhu cầu dân sinh kinh tế, các hồ nước lớn còn điều tiết lưu lượng sông và ảnh hưởng mạnh mẽ đến chế độ nước mặt và nước ngầm của những khu vực lân cận. Ở một chừng mực nào đó nó có thể làm thay đổi một số đặc điểm của đất nằm phía thấp hơn theo chiều hướng bất lợi như làm cho đất bị glây, mực nước ngầm bị nâng lên ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển một số cây trồng, đặc biệt cây lâu năm. Ngược lại với hồ chứa, hoạt động khoan giếng sẽ làm cho mực nước ngầm bị hạ xuống thấp, đẩy nhanh quá trình laterite hóa trong đất. 77 3.2.1.5 Thảm thực vật Rừng tự nhiên là thảm phủ tốt và an toàn nhất đối với sự hình thành và biến đổi đất đai, sau đó là cây trồng lâu năm, các loại cỏ tự nhiên. Thảm phủ không những cung cấp hữu cơ cho đất mà còn hạn chế quá trình rửa trôi, xâm thực, trước sự tác động của mưa, dòng chảy bề mặt. Thảm phủ ngăn chặn quá trình nung nóng bề mặt đất dưới tác động của nắng, hạn chế tác động của gió và hạn chế quá trình bốc hơi xảy ra [89], [90]. Vì vậy, việc nghiên cứu thảm thực vật có vai trò quan trọng không kém so với các yếu tố tự nhiên khác có tác động đến quá trình phát sinh đất. Ở đề tài này đi nghiên cứu hệ sinh thái của rừng dầu - lớp thực phủ đặc thù mà các loại rừng khác không thể có được, nó ảnh hưởng “cực kỳ sâu sắc” đến quá trình phát sinh đất cũng như các đặc tính thổ nhưỡng của đất dưới nó, người ta thường ví chúng như một loại cây chỉ thị đất. Như đã đề cập ở phần Tổng quan, kiểu rừng dầu lá rộng rụng lá vào mùa khô (người dân địa phương thường gọi “rừng khộp”) là rừng nghèo kiệt rất đặc trưng với các cây thuộc họ dầu (Dipterocarpaceae) ưu thế. Rừng dầu phát triển trong một điều kiện đặc biệt: luôn có một mùa mưa úng nước và một mùa khô khắc nghiệt. Rừng dầu ở Tây Nguyên phân bố tập trung ở các huyện phía Tây của các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum và một ít ở Đắk Nông, trong đó nhiều nhất ở vùng bình nguyên Ea Súp (gồm Buôn Đôn, Ea Súp), Ea Hleo, Cư Mgar tỉnh Đắk Lắk; các xã Hình 3.10: Vùng tập trung của rừng khộp - Nguồn: [31] Vùng trọng điểm phân bố rừng khộp 78 Ya Lâu, Ya Mơ của huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai; huyện Ia Hdrai, Sa Thầy và Ngọc Hồi của tỉnh Kon Tum; một ít ở Cư Jút tỉnh Đắk Nông. Qua số liệu bảng 3.8 thấy rằng: nhiệt độ và độ ẩm không khí giữa các quần hợp thực vật có sự khác nhau trong một thời điểm, đặc biệt vào buổi trưa sự khác biệt này càng rõ rệt hơn. - Về thực vật tự nhiên: Đắk Lắk nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung vốn là vùng có diện tích và trữ lượng gỗ lớn nhất Việt Nam; có hệ thực vật rừng rất phong phú. Theo thống kê có khoảng 3.000 loài thực vật bậc cao có mao mạch, trong đó có trên 600 loài cây gỗ lớn có chiều cao từ 12 m trở lên. Hệ sinh thái rừng có nhiều loài gỗ quý như: cà te (Afzelia xylocarpa), cẩm lai (dalbergia Dongnaiens Pierr và Bariensis Pierr), giáng hương (Pterocarpus Pedalus Pierr), gụ mật (Sindora Cochinchinensis), cẩm liên (Shorca Siamnensis) và nhiều loài cây họ dầu (hình 3.11) có sinh khối lớn như dầu đồng (Diterrocapus Tubecellatus), dầu Trà beng (Dipterrocerpus Obtusiolius). Bảng 3.8: Quan hệ giữa quần hợp thực vật với các yếu tố nhiệt ẩm ở vùng rừng dầu Quần hợp thực vật Nhiệt độ không khí (oC) Độ ẩm không khí (%) 1h 7h 13h 19h 1h 7h 13h 19h Dầu rái, sang lẻ trên đất phù sa ven suối 18,6 17,6 27,6 22,8 89,5 87,5 53,0 81,0 Dầu trà beng trên đất xám cát kết, bột kết 17,5 15,6 37,1 22,1 81,0 92,0 39,0 76,7 Cỏ lông trên đất xám 16,6 15,6 37,9 24,7 90,0 88,3 35,6 89,0 Nguồn: [89] Ngoài ra còn có khoảng 300 - 400 loài cây thuốc quý hiếm đang được bảo tồn tại các khu rừng ở các huyện của tỉnh như: Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô - huyện Ea Kar với hàng ngàn héc ta rừng trạng thái nguyên sinh, có kết cấu nhiều tầng, có nhiều loại gỗ quý, nhiều loại dược liệu quý; Vườn quốc gia Chư Yang Sin - huyện Krông Bông, thuộc hệ sinh thái núi cao, rộng 58.947 ha, là vùng giàu tài nguyên thiên nhiên, tính đa dạng sinh học cao có đến 876 loài thực vật bậc cao có mao mạch; Vườn quốc gia Yôk Đôn có hệ sinh thái rừng khô hạn đặc trưng của Tây Nguyên đó là rừng dầu với những loài cây họ dầu và nhiều loại cây quý hiếm đã kể trên, cùng với những cánh rừng thường xanh, rừng bằng lăng ven suối, rừng tre nứa, rừng le và nhiều loại thảm phủ nằm bên dưới rất đa dạng. 79 3.2.1.6 Hoạt động của con người Hoạt động sản xuất của con người dù mới xảy ra trong thời gian không dài nhưng gây những biến đổi sâu sắc và nhanh chóng đến sự phân hóa và phát triển lớp phủ thổ nhưỡng [71]. Các hoạt động đó bao gồm: - Việc phá rừng làm nương rẫy và các nhu cầu về gỗ, chất đốt hoặc tập quán du canh du cư kéo dài của đại đa số đồng bào các dân tộc thiểu số đã làm thay đổi nghiêm trọng các đặc điểm nguyên thủy của lớp vỏ phong hóa. Bên cạnh đó, sự phá rừng cũng đã góp phần rất lớn trong việc đẩy nhanh sự xói mòn đất đồi núi làm thoái hóa đất (chua, nghèo chất dinh dưỡng, tăng lượng kết von, đá ong). Theo thống kê, tài nguyên rừng Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng bị suy giảm nghiêm trọng cả về diện tích và trữ lượng. Riêng tỉnh Đắk Lắk từ năm 1995 đến năm 2015 diện tích đất có rừng giảm từ 686.733 ha xuống còn 507.489 ha, trong 20 năm giảm 179.244 ha, trung bình mỗi năm giảm tới 8.962 ha. Bảng 3.9: Diễn biến đất có rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 1995 - 2015 Hạng mục 1995 2000 2005 2015 Diện tích Diện tích Diện tích Diện tích ha % ha % ha % ha % Tổng diện tích TN 1.308.474 100 1.308.474 100 1.308.474 100 1.308.474 100 Diện tích đất có rừng 686.733 52 607.263 46 600.245 45 507.489 38 - Rừng tự nhiên 676.827 600.735 576.897 470.376 - Rừng trồng 9.907 6.528 23.348 28.285 Nguồn: [24], [98] Hình 3.11: Rừng dầu được bảo tồn tại vườn Quốc gia Yok Đôn và rừng dầu tái sinh 80 - Việc xây dựng các hồ, đập chứa nước từ lớn đến nhỏ làm thay đổi một cách căn bản chế độ nước mặt, ảnh hưởng lâu dài đến chế độ nước ngầm, đến khí hậu. Trong vùng nghiên cứu, các hồ Ea Súp thượng, Ea Súp hạ, hồ Đắk Min có tổng dung tích lên đến 200 - 450 triệu m3 nước. Quá trình tích nước tại các hồ chứa có dung tích lớn như vậy đã làm phân hóa các đất nằm ở phần địa hình thấp hơn so với các hồ như đất xám đọng mùn, đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng hoặc đất xám glây. Mặt khác, ở một chừng mực nào đó các hồ chứa có tác động xấu đến đất đai, làm cho mực nước ngầm dâng cao, đất bị yếm khí ảnh hưởng xấu đến bộ rễ của cây trồng, nhất là những loại cây không chịu úng thủy. - Ngoài ra, việc xây dựng các công trình như đường sá, sân bay, kênh mương hoặc áp dụng những biện pháp kỹ thuật nông học tiến bộ hay lạc hậu đều tác động đến quá trình hình thành đất và độ phì của đất. 3.3.1.7 Đánh giá chung các yếu tố tác động đến quá trình phát sinh đất Những điều kiện tự nhiên và hoạt động của con người có liên quan đến quá trình phát sinh đất và các đặc tính của nó được đánh giá một cách khái quát như sau: - Về khí hậu: Vùng tập trung nghiên cứu mang đặc điểm chung của khí hậu vùng Tây Nguyên, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng bị chi phối bởi vị trí địa lý, độ cao; nền nhiệt cao đều quanh năm nhưng bị hạ thấp đáng kể so với các vùng cùng vĩ độ; lượng mưa và lượng bốc hơi phân hóa rất rõ theo mùa và theo vùng. Chế độ thời tiết có 2 mùa rõ rệt, biên độ nhiệt giữa mùa mưa và khô rất lớn, đặc biệt giữa ngày và đêm, đây cũng là yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành và biến đổi các đất rừng dầu; mùa khô thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt, mùa mưa lượng mưa lớn tập trung gây lũ lụt một số vùng thấp và gây xói mòn và rửa trôi ở vùng có độ dốc lớn, kéo theo nhiều vật liệu từ nơi cao xuống nơi thấp, đây chính là gốc tích của quá trình phát sinh đất có nguồn gốc thủy nguyên – Hydrogenic. Đặc biệt khí hậu ở phía Tây bắc của tỉnh Đắk Lắk (vùng bình nguyên Ea Súp) có phần khắc nghiệt hơn các vùng khác khi mùa khô nhiệt độ quá cao, lượng bốc hơi rất lớn làm cho nguồn nước bị khô kiệt, trong khi đó mùa mưa lại quá tập trung gây ra ngập úng, lũ lụt hoặc xói mòn, rữa trôi làm ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành và phát triển các đặc tính đất đai tại nơi đây. - Về địa hình: Đa phần thuộc vùng địa hình bán bình nguyên tương đối bằng phẳng xen kẻ các đồi bằng thoải - núi thấp, có cao trình < 300m (tập trung rừng dầu 81 nhiều nhất, đặc biệt là vùng Ea Súp), một phần nhỏ có có độ cao từ 300 – 600m được bao bọc xung quanh bởi các dãy núi cao (dãy Trường Sơn). Đây là dạng địa hình đặc thù của quần hợp cây họ dầu tập trung và là yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát sinh đất sau yếu tố khí hậu và thảm thực vật là rừng dầu. - Về mặt tổng quát, thành tạo trầm tích Jura và xâm nhập magma acid (Granitoid) thuộc các hệ tầng Tu Mơ Rông (PR1 tmr) và phức hệ Vân Canh ( - T2 vc) gặp phổ biến ở rừng dầu Tây Nguyên nói chung và vùng tập trung nghiên cứu nói riêng. Đây là thành tạo chính của các hệ tầng Đắk Bùng (J1 đb), Đray Linh (J1 đl) và hệ tầng Ea Súp (J2 es). Một phần diện tích bị phủ trùm bởi phun trào bazan, phần khác lộ ra tạo thành diện tích rộng lớn ở phía Tây Bắc, trung tâm thuộc bình nguyên Ea Súp. - Phân bố đá mẹ và mẫu chất tạo đất trong khu vực nghiên cứu rất phức tạp; hiện tượng chồng lấn, xen kẽ giữa mẫu chất và đá mẹ là khá phổ biến. Qua khảo sát cho thấy vùng nghiên cứu có 05 nhóm đá mẹ mẫu chất sau: 1) Các đá granitoid; 2) Các đá phiến sét và phiến sa; 3) Đá bazan; 4) Mẫu chất phù sa cổ và 5) Mẫu chất phù sa mới. Đá mẹ chiếm ưu thế của khu vực điều tra là các đá granitoid và trầm tích cổ (đá phiến sét và phiến sa - cát kết, bột kết) xen kẽ nhau. Đây là đặc trưng phổ biến của đất dưới rừng dầu Tây Nguyên, đất được hình thành trên các trầm tích cổ và đá magma axít tạo ra các đất có chất lượng không cao, thảm thực vật chủ yếu là cây họ dầu, hình thành nên hệ sinh thái ít đa dạng nhưng rất đặc biệt mà hiếm nơi nào có được. - Về thảm thực vật: Qua điều tra, khảo sát cho thấy vùng tập trung nghiên cứu đa phần là rừng dầu, có thể xem như là một loại cây chỉ thị cho đặc trưng vùng đất mà nó ngự trị trên đó. Loại rừng này tuy ít về số lượng loài nhưng tỉ lệ cây gỗ có giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với rừng thường xanh; có nhiều loài động vật quí hiếm ở Đông Dương. Rừng dầu lại có những đặc thù riêng mà ít có kiểu rừng nào giống được. Với đặc điểm rụng lá vào mùa khô, thêm vào đó là lửa rừng thường xuyên, nên các lớp thực bì dưới tán rừng kể cả các quần thể cây con bị cháy rụi để trơ ra mặt đất, làm cho mặt đất bị nung nóng dẫn đến quá trình bốc hơi diễn ra mãnh liệt hơn, đất nhanh kiệt nước và khô hạn trầm trọng. Vào mùa mưa, lũ thượng nguồn đổ về, do lớp thực bì chưa kịp tái sinh nên đất bị bào mòn và rửa trôi mạnh; ngập úng cũng thường xuyên xảy ra. Hiện tượng này cứ tái diễn hàng năm làm cho các khoáng sét trong đất bị phong hóa triệt để, phần khác bị rửa trôi đi hết chỉ còn lại hạt cát; sự thay 82 đổi mực nước ngầm cũng là điều kiện thuận lợi làm cho đất bị kết von và hóa đá ong, đặc biệt hiện tượng lôi kéo vật liệu từ nơi có địa hình cao xuống nơi có địa hình thấp và lắng đọng ở đó do dòng nước lũ mang đi (Deluvi/diluvi/proluvi) cũng xảy ra khá phổ biến ở vùng này, nhất là vùng bình nguyên Ea súp. - Về chế độ thủy văn: Các sông nhánh của hai hệ thống chính SrêPốk và sông Ba đã mang một lượng nước rất lớn đổ về vào mùa mưa làm ngập nước cục bộ và xuất hiện tầng nước ngầm treo trong đất rừng dầu cho nên tầng đất phát triển rất đa dạng về mặt hình thái, đồng thời cũng là một trở ngại lớn cho việc trồng cây cao su trong khu vực này. Ngoài ra, hiện tượng ngập úng cục bộ xảy ra phổ biến do mưa quá tập trung, mùa khô lại kiệt nước sớm do nền nhiệt quá cao, cộng thêm lửa rừng thường xuyên nên mặt đất bị nung nóng, quá trình bốc hơi cũng xảy ra mãnh liệt làm cho quá trình xói mòn, rửa trôi và phá hủy khoáng sét xảy ra mạnh mẽ. Hiện tượng này cứ lặp lại hàng năm đã làm ảnh hưởng sâu sắc đến các quá trình hình thành đất. Tóm lại, những điều kiện tự nhiên đặc thù đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến quá trình phát sinh đất và tạo nên những đặc tính riêng biệt của các loại đất chính của vùng nghiên cứu, trong đó phải kể đến các yếu tố như khí hậu, địa hình, địa chất và thảm thực vật là những yếu tố quan trọng nhất. 3.2.2. Phân loại đất dưới rừng dầu Tây Nguyên 3.2.2.1 Kết quả phân loại Trên cơ sở bản đồ hiện trạng phân bố rừng dầu vùng Tây Nguyên năm 2015, tỷ lệ 1/250.000 (bản đồ kết quả nghiên cứu) và bản đồ gốc đất vùng Tây Nguyên (kết quả chồng xếp lớp thông tin hiện trạng rừng dầu Tây Nguyên năm 2015 với bản đồ đất Tây Nguyên kế thừa từ Chương trình Tây Nguyên 3 nhờ các phần mềm GIS chuyên dùng), tiến hành điều tra, khảo sát để khoanh vẽ bổ sung. Trên bản đồ khoanh vẽ ngoài thực địa, cộng với ghi chép bản tả hình thái phẫu diện và kết quả phân tích các chỉ tiêu lý, hóa học (số lượng phẫu diện được đào và số lượng mẫu gửi phân tích chi tiết tại các bảng PL của phụ lục 2.1),cùng với các tài liệu trước đó tiến hành khoanh vẽ bản đồ gốc đất chính thức, phân loại, đặt tên và sử dụng các phần mềm Mapinfo, Microstation, ArcGIS, hỗ trợ để xây dựng cơ sở dữ liệu bản đồ đất dưới rừng dầu Tây Nguyên. Kết quả phân loại đất như sau: 83 Bảng 3.10: Bảng phân loại đất dưới rừng dầu Tây Nguyên Stt Tên đất Ký hiệu Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Trong đó: Đắk Nông Đắk Lắk Gia Lai Kon Tum I Nhóm đất xám và vàng đỏ trên granite, đất trơ sỏi đá 287.870 50,95 18.972 96.645 74.525 97.729 1 Đất xám trên mác ma axít Xa 133.258 23,59 15.555 62.272 55.143 288 2 Đất vàng đỏ trên mác ma axít Fa 127.190 22,51 3.416 12.471 14.863 96.440 3 Đất sói mòn trơ sỏi đá E 27.422 4,85 21.902 4.519 1.001 II Nhóm đất đỏ vàng trên phiến sét và đá cát 254.296 45,01 7.509 199.958 9.908 36.921 4 Đất đỏ vàng trên đá sét và biết chất Fs 102.172 18,08 5.064 50.658 9.897 36.552 5 Đất vàng nhạt trên đá cát Fq 152.124 26,92 2.445 149.299 11 369 III Nhóm đất xám và nâu vàng trên PSC 2.194 0,39 581 753 213 647 6 Đất xám trên phù xa cổ X 1.057 0,19 457 103 197 300 7 Đất nâu vàng trên phù xa cổ Fp 1.137 0,20 124 650 16 347 IV Đất nâu thẫm trên đá bọt và đá bazan, đất nâu vàng trên bazan 20.640 3,65 11.316 5.324 4.000 8 Đất nâu thẫm trên đá bọt và đá bazan, đất nâu vàng trên bazan Ru 15.284 2,71 11.316 3.968 9 Đất nâu vàng trên đá bazan Fu 5.357 0,95 1.356 4.000 Tổng Cộng 565.000 100,00 38.378 302.680 88.646 135.296 Qua bảng 3.10 nhận thấy: 1/ Đất dưới rừng dầu Tây Nguyên có tổng diện tích là 565.000 ha, được phân bố ở các tỉnh như sau: Diện tích đất dưới rừng dầu phân bố nhiều nhất ở Đắk Lắk với 302.680 ha, kế đến là Kon Tum 135.296 ha, đứng thứ ba là Gia Lai với 88.646 ha và ít nhất là ở Đắk Nông chỉ có 38.378 ha. 2/ Các đất dưới rừng dầu thuộc 4 nhóm (gộp thành nhóm theo đá mẹ/mẫu chất) với tỷ lệ phân bố địa lý khác nhau, trong đó: Đất xám và đất vàng đỏ trên granite chiếm gần 51% (Đất xám trên mác ma axít và đá cát 23,55%; đất vàng đỏ mác ma axít 22,51%; đất xói mòn trơ xỏi đá 4,89%), phân bố nhiều nhất ở Kon Tum và Đắk Lắk; đất đỏ vàng trên đá phiến sét và đất vàng trên đá cát chiếm 45% (Đất đỏ vàng trên đá sét và biết chất 18,08%; đất vàng nhạt trên đá cát 26,92%), phân bố nhiều nhất ở Đắk Lắk và Kon Tum; còn lại 2 nhóm chiếm diện tích rất ít đó là đất xám trên phù sa cổ và đất nâu vàng trên phù sa cổ chiếm 0,39% (Đất xám trên phù xa cổ 0,33%; đất nâu vàng trên phù xa cổ 0,06%), phân bố rãi rác ở tỉnh; đất trên bazan các loại chiếm 3,65% (Đất nâu th
File đính kèm:
luan_an_dac_diem_dat_duoi_rung_dau_nhiet_doi_dipterocarpacea.pdf
2. Tom tat LA-Tra Ngoc Phong-English.pdf
2. Tom tat LA-Tra Ngoc Phong-Vietnamese.pdf
3.Thong tin va ket luan moi - Tra Ngoc Phong -Vietnamese-English.pdf
3.Thong tin va ket luan moi cua luan an Tra Ngoc Phong (English).docx
3.Thong tin va ket luan moi cua luan an Tra Ngọc Phong (Vietnamese).docx