Luận án Đặc điểm sinh học và kỹ thuật sản xuất giống cá chành dục Channa gachua (Hamilton, 1822)

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đặc điểm sinh học và kỹ thuật sản xuất giống cá chành dục Channa gachua (Hamilton, 1822)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đặc điểm sinh học và kỹ thuật sản xuất giống cá chành dục Channa gachua (Hamilton, 1822)

nghiên cứu ghi nhận khá tương đồng với các công bố của các tác giả Brewer et al. (2008), Mchlisin Musri Musman and Siti Azizah (2010) và Ghanbahadur et al. (2013). Các nghiên cứu đều ghi nhận sự tương quan tỷ lệ thuận khá cao (R2=0,7-0,93) của sức sinh sản tuyệt đối với chiều dài và khối lượng thân cá. Tuy nhiên, có thể là do sự khác nhau về môi trường sinh sống nên các mẫu cá chành dục trong các nghiên cứu của các tác giả trên có sức sinh sản rất cao, dao động từ 50.000-200.000 trứng/cá thể, khối lượng và chiều dài cơ thể cá lớn hơn (55g và 20 cm). Trong khi đó Bhuiyan and Rahman (1983) lại ghi nhận sức sinh sản tuyệt đối của cá thấp, tương tự như ghi nhận của đề tài, theo đó, các mẫu cá chành dục C.gachua thu ở Bangladesh có sức sinh sản tuyệt đối từ 1.300-3.250 trứng/cá thể. Cũng trên đối tượng C. gachua, nhưng Gaikwad et al. (2009) lại ghi nhận sức sinh sản tuyệt đối rất cao đối với các mẫu cá thu ở Ấn Độ. Theo đó, đối với các mẫu cá lớn (chiều dài trung bình là 17 cm, khối lượng 51 g), có sức sinh sản tuyệt đối khoảng 420.000 trứng/cá thể. Đối với các mẫu cá nhỏ hơn (chiều dài khoảng 12,5 cm và khối lượng 23 g) thì sức sinh sản tuyệt đối thấp hơn, dao động khoảng 199.980 trứng/cá thể. Nghiên cứu này cũng cho thấy, sự tương quan tỷ lệ thuận khá chặt chẽ của chiều dài, khối lượng thân cá với sức sinh sản tuyệt đối. Mối tương quan thuận này được thể hiện bằng phương trình y = 3,42 + 14,08x với R=0,87. Ngoài ra, sự tương quan chặt chẽ giữa sức sinh sản tuyệt đối với khối lượng và chiều dài cơ thể của các mẫu cá chành dục trong nghiên cứu này cũng tương đồng với các nghiên cứu trước trên cá lóc C. punctatus. Nghiên cứu của Marimuthu and Haniffa (2006) ghi nhận sức sinh sản tuyệt đối của cá lóc C. punctatus ở Ấn Độ có mối tương quan chặt chẽ với chiều dài và khối lượng cá. Các mẫu cá chiều dài từ 111-181 mm và khối lượng từ 14,4-70,5 g có sức sinh sản tuyệt đối từ 2.116-11.332 trứng/cá thể. Mối tương quan tỷ lệ thuận giữa chiều dài, khối lượng và sức sinh sản tuyệt đối được biểu diễn bằng phương trình đường thẳng, với giá trị R=0,45. Tương tự, Saikia et al. (2013) ghi nhận sức sinh sản tuyệt đối của cá lóc C. punctatus cũng có mối tương quan chặt chẽ với chiều dài và khối lượng cá. Các mẫu cá chiều dài từ 8,5-16,7 cm và khối lượng từ 11,3-61,7 g có sức sinh sản tuyệt đối từ 2.423-6.466 trứng/cá thể. Mối tương quan tỷ lệ thuận giữa chiều dài, khối lượng và sức sinh sản tuyệt đối được biểu diễn bằng phương trình đường thẳng, với giá trị R=0,73-0,98. Tương tự, Prasad et al., (2011) ghi nhận sức sinh sản của cá lóc C. puctatus ở Ấn Độ dao động trong khoảng 3.678-27.853 trứng/cá thể, trung bình 12.546 trứng/cá thể với chiều dài (116-231 mm) và khối lượng cơ thể cá 82 (18-139,8 g). Kích thước buồng trứng dao động trong khoảng 22-68 mm chiều dài và cân nặng 0,49-4,8 g. Sức sinh sản tương đối của buồng trứng là 2.729 trứng/mm và 5.449 trứng/mg. Trong khi đó, theo Amzad et al., (2015) nghiên cứu sinh học buồng trứng của cá lóc C. punctatus ở Bangladesh cho thấy sức sinh sản cao nhất tuyệt đối (26294±416,74) được ghi nhận vào tháng 7, sức sinh sản tuyệt đối trung bình trong năm (10353,7±797,62). Kết quả về sức sinh sản tuyệt đối của cá chành dục 1.872-3.125 trứng/cá thể với chiều dài cơ thể cá (11,9-16,8 cm) và khối lượng cơ thể cá (19,78- 34,58 g), trung bình 1.709 trứng/cá thể, đạt thấp hơn so với cá chành dục ở Ấn Độ và Bangladesh. Theo Doha and Hye (1970) thì những thay đổi về sức sinh sản của 2 quần thể khác nhau là rất phổ biến, số lượng trứng sản xuất ra trên cá thể cái phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích thước, tuổi, không gian sống, sự sẵn có của thức ăn, chế độ dinh dưỡng, mùa vụ, điều kiện khí hậu, môi trường nơi sinh sống và yếu tố di truyền (Mookerjee and Mazumder, 1946; Bagenal, 1957; Bromage et al., 1992). 4.5 Nuôi vỗ thành thục cá chành dục 4.5.1 Các yếu tố môi trường trong quá trình nuôi vỗ thành thục Nhiệt độ ảnh hưởng tới nhiều khía cạnh sức khỏe của cá nuôi như: hô hấp, sức đề kháng, tăng trưởng, tiêu hóa, hiệu quả sử dụng, thời gian thành thục của cá cũng tăng lên một cách tương ứng. Nhiệt độ là đặc trưng biến đổi theo quy luật theo ngày đêm và theo mùa. Sự thay đổi nhiệt độ là nguyên nhân chính làm thay đổi tốc độ trao đổi chất, hô hấp và làm thay đổi chức năng điều hòa áp suất thẩm thấu. Nhiệt độ nước trong thời gian nuôi vỗ thành thục cá chành dục trong bể là 27,5oC±0,7oC vào buổi sáng và 30,5oC±0,9oC vào buổi chiều. Kết quả cho thấy sự chênh lệch nhiệt độ khá thấp trong điều kiện bể nuôi vỗ. Theo Boyd (1990), nhiệt độ nước phù hợp cho sự phát triển của cá nuôi là 25-32oC. pH của nước trong ao nuôi là một chỉ số rất quan trọng, ảnh hưởng đến cá nuôi trong việc duy trì cân bằng pH máu của cơ thể. pH trong ao dao động theo chu kỳ và thường thấp vào buổi sáng và cao vào buổi chiều (Boyd, 1990). Trong thời gian nuôi vỗ thành thục cá chành dục, giá trị pH trung bình trong các bể nuôi vào buổi sáng và buổi chiều là 7,6±0,2, do nguồn nước nuôi vỗ lấy từ nước máy và lượng mùn bã hữu cơ được kiểm soát kỹ nên khoảng giá trị pH thu được ít biến động và phù hợp cho sự phát triển của cá chành dục (Boyd, 1990; Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). 83 Nhìn chung, từ các kết quả ghi nhận dược cho thấy, các yếu tố môi trường như nhiệt độ và pH trong bể nuôi vỗ ít biến động và nằm trong khoảng giới hạn thích hợp cho sự phát triển của cá chành dục. 4.5.2 Nuôi vỗ thành thục cá bằng các loại thức ăn khác nhau Cá chành dục trưởng thành (chiều dài khoảng 98-122 mm, khối lượng 10,2-14,44g) thu từ tự nhiên được bố trí nuôi vỗ bằng các loại thức ăn khác nhau để khảo sát loại thức ăn phù hợp nhất cho quá trình thành thục sinh dục của cá bố mẹ. Các loại thức ăn gồm: 100 % cá tạp tươi, 100 % tép sông, 50 % thức ăn viên (40% đạm)+ 50% cá tạp tươi và 50 % thức ăn viên (40% đạm) + 50 % tép sông. Các loại thức ăn được bố trí theo thứ tự lần lượt vào các nghiệm thức 1, 2, 3, 4. Sau 4 tháng nuôi vỗ trong môi trường bể nhựa (từ tháng 3-7 năm 2013), quá trình thành thục của cá bố mẹ được tổng hợp trong Bảng 4.5 và 4.6. Bảng 4.5: Tỷ lệ (%) cá chành dục cái có buồng trứng ở các giai đoạn với các nghiệm thức thức ăn Nghiệm thức Giai đoạn buồng trứng Thứ tự tháng nuôi vỗ Mới thả 1 2 3 4 1 1 100 55,6±19,3 44,4±38,5 2 44,4±19,3 55,6±38,5 100 100 2 1 100 2 100 100 100 3 33,3 4 66,6 3 1 100 100 2 100 100 100 4 1 100 2 100 100 100 3 100 Ở điều kiện nuôi vỗ trong bể nhựa, mực nước 0,5m và mật độ 50 con/m2, sau 2 tháng nuôi vỗ, cá cái ở bốn nghiệm thức chưa có sự khác nhau rõ ràng về tỉ lệ các giai đoạn tuyến sinh dục, riêng nghiệm thức cho ăn cá tạp, tuyến sinh dục cá cá cái phát triển chậm, với 55,6% cá cái buồng trứng ở giai đoạn II, trong khi đó, các nghiệm thức khác, tỷ lệ tuyến sinh dục ở giai đoạn II đã đạt tối đa (100%). Đến tháng nuôi thứ 3, cá chành dục ở tất cả các nghiệm thức vẫn còn ở giai đoạn II và đạt tỷ lệ 100% tổng số cá. 84 Đến tháng nuôi thứ 4, sự thành thục sinh dục của cá chành dục cái ở các nghiệm thức bắt đầu có sự khác biệt rõ rệt. Nghiệm thức nuôi vỗ bằng cá tạp và thức ăn viên + cá tạp, cho thấy không phù hợp với quá trình nuôi vỗ cá chành dục, theo đó, 100% số cá vẫn còn ở giai đoạn II. Trong khi đó, cá chành dục ở nghiệm thức cho ăn bằng 100% tép sông và 50% thức ăn viên + 50% tép sông, 100% cá thể đã chuyển sang cuối giai đoạn 3. Riêng nghiệm thức cho ăn 100% tép sông, tuyến sinh dục cá chành dục cái đã thành thục đến cuối giai đoạn 3 (33,3%) và giai đoạn 4 (66,6%), sẵn sàng cho quá trình sinh sản. Trong quá trình nuôi vỗ, nghiệm thức thức ăn 100% tép, 50 % tép sông và 50 % thức ăn viên cá bắt mồi tốt (cá bắt mồi nhanh), lượng thức ăn thừa ít (chỉ có nghiệm thức cho ăn kết hợp) nên cá phát triển tốt, ít hao hụt. Tỷ lệ sống của cá sau 4 tháng nuôi vỗ ở nghiệm thức cho ăn 100% tép sông đạt cao nhất (88,8%) có nghĩa thống kê (p<0,05); kế đến là nghiệm thức 50% tép sông + 50% thức ăn viên (74,4%). Khi cho cá ăn 100% cá tạp và 50% cá tạp + 50% thức ăn viên, ban đầu cá bắt mồi kém, nước nuôi rất nhanh bẩn, dẫn đến cá nuôi bị bệnh và chết nhiều. Vì vậy, tỷ lệ sống của cả hai nghiệm thức này thấp (25,5% và 35,5%). Bảng 4.6: Biến động hệ số thành thục (cá cái) và tỷ lệ sống của cá qua các tháng nuôi vỗ Nghiệm thức GSI qua các tháng nuôi vỗ Tỷ lệ sống (%) 1 2 3 4 1 0,90±0,10b 1,16±0,14b 1,11±0,03a 2,3±0,48bc 25,5±8,38a 2 1,60±0,35c 1,61±0,3c 2,14±0,01c 2,88±0,29c 88,8±5,09c 3 0,42±0,05a 0,79±0,2a 1,09±0,05a 1,44±0,13a 35,5±7,70a 4 1,42±0,49c 1,53±0,02c 1,90±0,06b 1,95±0,10ab 74,4±8,39b Các số liệu trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thể hiện sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Hệ số thành thục của cá ở tất cả các nghiệm thức thức ăn đều tăng qua các tháng nuôi. Điều này cho thấy, mỗi loại thức ăn khác nhau cũng cho hiệu quả khác nhau trong suốt quá trình nuôi vỗ. Từ tháng nuôi thứ 3, hệ số thành thục của cá tăng lên rõ rệt ở các nghiệm thức. Đến tháng nuôi vỗ thứ 4, hệ số thành thục của cá đạt cao nhất ở nghiệm thức nuôi bằng tép sông (2,88) và thấp nhất là nghiệm thức nuôi bằng thức ăn viên+cá tạp (1,44). Hệ số thành thục của các nghiệm thức nuôi vỗ khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tóm lại, từ các kết quả khảo sát qua các thí nghiệm cho thấy, nuôi vỗ cá chành dục bằng nguồn thức ăn là tép sông cho hiệu quả thành thục tốt nhất. 85 Hơn nữa, kết quả phân tích phổ dinh dưỡng của cá chành dục ngoài tự nhiên bao gồm: tép nhỏ, cá con, động vật thân mềm và giun nhiều tơ. Các thông tin tổng hợp của Walter và James (2004) cũng cho rằng, cá chành dục trong các thủy vực tự nhiên trên thế giới có tập tính ăn động vật nhỏ như: nòng nọc, cá nhỏ, côn trùng, ấu trùng muỗi, tép nhỏ, cua nhỏ và động vật giáp xác khác. Hầu hết, thức ăn trên có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Trong đó, tép là thức ăn có tần số xuất hiện cao trong ống tiêu hóa của chành dục và phù hợp với tập tính bắt mồi của cá. Vì vậy, cá tiêu hóa tốt hơn và gia tăng sự tích lũy dinh dưỡng trong cơ thể phục vụ cho sự phát triển, tạo sản phẩm sinh dục, dẫn đến thành thục sinh dục tốt hơn. Nuôi vỗ thành thục là khâu rất quan trọng trong quy trình sinh sản nhân tạo cá. Nuôi vỗ thành thục tốt sẽ giúp gia tăng hiệu quả sinh sản của cá bố mẹ. Kết quả ghi nhận trong nuôi vỗ thành thục chành dục của đề tài tương đồng với các nghiên cứu trước trên cùng loài C. gachua và một số loài cá thuộc họ cá lóc. Nghiên cứu của Sukhbeer (2014), nuôi vỗ thành thục cá C. gachua (bố mẹ có khối lượng từ 35-65g) bằng nòng nọc sống trong các bể nhựa. Sau 4 tháng nuôi, cá bố mẹ thành thục tốt, cá cái đều thành thục đến giai đoạn IV và bắt đầu được bố trí cho sinh sản nhân tạo. Nghiên cứu cũng cho rằng, việc sử dụng thức ăn tươi sống sẽ giúp quá trình nuôi vỗ cá chành dục đạt hiệu quả hơn, vì thức ăn tươi sống không làm bẩn nước và cá phát triển tốt hơn. Tương tự nghiên cứu của Pati et al. (2004), khi vỗ thành thục cá lóc đen C. striatus trong ao đất bằng cá tạp với khẩu phần 2-3% khối lượng cơ thể. Sau khoảng thời gian 4 tháng nuôi, chỉ số GSI của cá lóc đen gia tăng qua các tháng nuôi vỗ và đạt cao nhất là 9,34. Lúc này buồng trứng của cá cái đều đạt giai đoạn IV và sẵn sàng cho kích thích sinh sản nhân tạo bằng kích thích tố. Tiếp theo, Nguyễn Huấn và Dương Nhựt Long (2008) nghiên cứu nuôi vỗ cá lóc bông C. micropeltes thành công bằng thức ăn tươi sống. Thí nghiệm nuôi vỗ cá lóc bông bố mẹ trong các lồng tre với mật độ 20 con/m3. Lồng tre được đặt trong ao đất có diện tích 500 m2/ao. Thức ăn chủ yếu là cá biển hay cá tạp nước ngọt, khẩu phần từ 3-5 %/khối lượng/ngày ở 3 tháng đầu, sau đó giảm 1,5-2 % ở các tháng còn lại. Cho cá ăn 1 lần/ngày. Kết quả, sau 3-4 tháng nuôi cá có khả năng thành thục sinh dục và tham gia sinh sản. Ngoài ra, Paray et al. (2014) nghiên cứu nuôi vỗ thành công loài cá lóc đen C. striata bằng thức ăn hỗn hợp. Cá bố mẹ được nuôi vỗ trong các ao đất có bố trí thực vật thủy sinh. Thành phần thức ăn hỗn hợp gồm: cá tạp (35%), jawla (25%), bột sắn (10%), bột mỳ (14%) và cám gạo (14%), vitamin và 86 khoáng chất (2%). Cá bố mẹ có chiều dài 27-36 cm và khối lượng 680-790 g, sau 2 tháng nuôi vỗ bằng hỗn hợp các loại thức ăn trên cá thành thục và có thể cho sinh sản nhân tạo. 4.6 Kích thích cá chành dục sinh sản bằng HCG, não thùy và LHRHa+DOM 4.6.1 Kích thích cá chành dục sinh sản bằng HCG Kết quả kích thích sinh sản cá chành dục bằng kích thích tố HCG ở các liều tiêm khác nhau cho thấy, ở điều kiện nhiệt độ nước từ 26,5-28,7oC và pH khoảng 7,5 - 8,2, các nghiệm thức thử nghiệm kích thích tố HCG ở các liều tiêm khác nhau đều gây chín và rụng trứng ở tất cả các liều lượng. Hiệu quả kích thích sinh sản cá chành dục bằng HCG được tổng hợp qua bảng sau: Bảng 4.7: Hiệu quả kích thích sinh sản cá chành dục bằng HCG (n=36 cặp) Chỉ tiêu Liều lượng tiêm HCG (IU) cá đực-cá cái Đối chứng 1000-1000 1500-1500 Thời gian hiệu ứng (giờ) 39,1±0,76 a 37,6±1,15 a Tỷ lệ cá đẻ (%) 33,3±14,4 a 33,3±14,4 a 100,0±0,0 b SSS thực tế (trứng/cá thể) 417±5,2 a 419,3±1,15 a 446,4±27,0 b Tỷ lệ thụ tinh (%) 95,3±1,44 a 83,0±17,0 a 96,2±2,4 a Tỷ lệ trứng nở (%) 36,1±0,16 a 34,8±1,22 a 58,7±7,6 b Tỷ lệ cá dị hình (%) 3,6±2,32 a 3,8±0,24 a 0,6±0,4 b Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái giống nhau thể hiện sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Từ kết quả tổng hợp cho thấy, thời gian hiệu ứng thay đổi theo liều lượng kích thích tố và khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05). Thời gian hiệu ứng của các nghiệm thức liều tiêm HCG cho cá đực và cái, dao động từ 37,6-39,1 giờ. Kết quả ghi nhận cho thấy các nghiệm thức thử nghiệm các liều kích thích tố khác nhau đều gây chín và rụng trứng, tuy nhiên tỷ lệ cá tham gia sinh sản thấp (33,3%) và tương đồng nhau ở cả hai nghiệm thức liều tiêm khi tiêm đơn HCG và cùng liều cho cả cá đực và cá cái. Giá trị này thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức không tiêm kích thích tố (100%). Sức sinh sản thực tế của cá chành dục không khác nhau có ý nghĩa (p>0,05) ở các nghiệm thức. Theo đó, sức sinh sản thực tế của cá đạt cao nhất 87 (419 trứng/cá thể) ở nghiệm thức tiêm HCG liều 1.500 IU, nhưng giá trị này thấp hơn có ý nghĩa so với nghiệm thức đối chứng không tiêm kích thích tố. Quá trình thụ tinh ngoài của cá đực diễn ra nhanh chóng sau khi cá cái đẻ, tỷ lệ trứng thụ tinh phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng thành thục của cá đực. Tỷ lệ trứng thụ tinh ở các nghiệm thức rất khác nhau. Tỷ lệ trứng thụ tinh ở nghiệm thức tiêm HCG liều 1.000 IU là cao nhất (trên 95%) nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức liều tiêm khác và nghiệm thức không tiêm khích thích tố (p>0,05). Tỷ lệ trứng nở ở các nghiệm thức thí nghiệm có sự khác nhau rõ rệt. Nghiệm thức tiêm HCG liều 1.000 IU có tỷ lệ trứng nở cao nhất 36,5%, tuy nhiên giá trị này khác biệt không có ý nghĩa so với nghiệm thức thí nghiệm còn lại (p>0,05). Ngoài ra, các nghiệm thức tiêm HCG cũng cho tỷ lệ trứng nở thấp hơn có ý nghĩa so với nghiệm thức không tiêm kích thích tố, với tỷ lệ nở đạt 58,7% (p<0,05). Tỷ lệ dị hình của cá con thấp, thấp nhất ở nghiệm thức tiêm HCG 1.000 IU (3,6%), tỷ lệ này cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức sinh sản tự nhiên, tỷ lệ cá con dị hình là thấp nhất (0,6%). Như vậy, từ kết quả các chỉ tiêu sinh sản cho thấy, kích thích tố HCG có tác động đến sự sinh sản của cá chành dục trong điều kiện nuôi nhốt, tuy nhiên kết quả các chỉ tiêu sinh sản đạt được đều thấp hơn nghiệm thức không tiêm kích thích tố. Để chủ động trong việc cung cấp con giống khi mà điều kiện sinh sản tự nhiên không đáp ứng thì có thể sử dụng HCG với liều 1.000 IU/kg khối lượng cho cả cá đực và cá cái. 4.6.2 Kích thích sinh sản cá chành dục bằng HCG kết hợp não thùy Kết quả kích thích sinh sản cá chành dục bằng kích thích tố HCG kết hợp não thùy ở các liều tiêm khác nhau cho thấy, ở điều kiện nhiệt độ nước từ 26,5-26,8oC và pH khoảng 7,5-8,2, các nghiệm thức ở các liều tiêm khác nhau đều gây chín và rụng trứng. Hiệu quả kích thích sinh sản cá chành dục bằng HCG kết hợp não thùy được tổng hợp qua (Bảng 4.8). Từ kết quả tổng hợp Bảng 4.8 cho thấy, thời gian hiệu ứng của các nghiệm thức liều tiêm HCG + não thùy cho cá đực dao động từ 41,3 – 44,3 giờ và khác biệt không ý nghĩa (p<0,5). Kết quả ghi nhận cho thấy các nghiệm thức thử nghiệm các liều HCG khác nhau đều gây chín và rụng trứng ở tất cả các liều lượng. Theo đó, tỷ lệ cá đẻ dao động khác nhau ở từng nghiệm thức. Nghiệm thức tiêm HCG liều 2.000 IU cho cá đực có tỷ lệ cá đẻ cao nhất (66,7%). Giá trị này cao hơn có ý nghĩa so với nghiệm thức tiêm HCG liều 88 500 IU và 1.000 IU cho cá đực. Tuy nhiên giá trị này vẫn thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức không tiêm kích thích tố (91,7%) (p<0,05). Bảng 4.8: Hiệu quả kích thích sinh sản cá bằng HCG kết hợp não thùy (n=60 cặp) Chỉ tiêu Liều lượng tiêm HCG (IU)+5 mg não thùy cá đực-cá cái Đối chứng 500-500 1000-500 1500-500 2000-500 Thời gian hiệu ứng (giờ) 43,6±2,9 a 42,6±2,5 a 41,3±1,6 a 44,3±2,7 a Tỷ lệ cá đẻ (%) 41,7±14,4 a 41,7±14,4 a 50,0±0,0 ab 66,7±14,4 b 91,7±14,4 c SSS thực tế (trứng/cá thể) 448,8±8,4 a 455,8±1,9 a 462,5±6,9 a 502,7±16,0 b 472,7±86,8 a Tỷ lệ thụ tinh (%) 94,7±1,7 b 96,9±1,7 b 97,5±0,5 b 97,8±1,3 b 90,2±4,9 a Tỷ lệ nở (%) 35,4±1,3 a 39,6±1,9 a 38,6±2,0 a 52,2±7,4 b 61,6±13,5 b Tỷ lệ cá dị hình (%) 2,9±0,3 c 3,0±0,5 c 2,5±0,4 c 1,7±0,2 b 0,6±0,2 a Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái giống nhau thể hiện sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Sức sinh sản thực tế của cá chành dục khác nhau ở các nghiệm thức, dao động trong khoảng 448-502 trứng/cá thể. Theo đó, sức sinh sản thực tế đạt cao nhất ở nghiệm thức liều HCG 2.000 IU cho cá đực (502 trứng/cá thể) và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại (p<0,05). Tương tự các thí nghiệm sử dụng kích thích tố khác, quá trình thụ tinh ngoài của cá đực cũng diễn ra nhanh chóng sau khi cá cái đẻ, tỷ lệ trứng thụ tinh phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng thành thục của cá đực. Tỷ lệ trứng thụ tinh ở các nghiệm thức khác nhau thì khác nhau. Tỷ lệ trứng thụ tinh ở nghiệm thức tiêm HCG liều 2.000 IU cho cá đực là cao nhất (97,8%) nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức liều tiêm khác và cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức không tiêm khích thích tố (p<0,05). Tỷ lệ trứng nở ở các nghiệm thức thí nghiệm có sự khác nhau rõ rệt, dao động trong khoảng 35,4-52,2%. Trong đó, nghiệm thức tiêm HCG liều 2.000 IU cho cá đực có tỷ lệ trứng nở cao nhất (52,2%) và giá trị này khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức thí nghiệm còn lại (p<0,05). Tuy nhiên, các nghiệm thức tiêm HCG kết hợp não thùy cho tỷ lệ trứng nở thấp hơn có ý nghĩa so với nghiệm thức sinh sản tự nhiên, với tỷ lệ nở đạt 61,6% (p<0,05). Trong thí nghiệm này, tỷ lệ cá dị hình của cá con cũng thấp, thấp nhất ở 89 nghiệm thức liều HCG 2.000 IU cho cá đực (1,7%) và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức liều tiêm còn lại, nhưng tỷ lệ này lại cao hơn có ý nghĩa so với nghiệm thức sinh sản tự nhiên, tỷ lệ cá con dị hình là thấp nhất (0,6%) (p<0,05). So sánh với các công trình nghiên cứu trước trong việc sử dụng HCG kích thích các loài cá họ Channidae sinh sản đều có những kết quả khác nhau trên các đối tượng khác nhau. Nghiên cứu của Haniffa et al. (2000) sử dụng HCG kích thích cá lóc C.striatus ở Ấn Độ sinh sản trên bể nhựa. Cá bố mẹ có khối lượng (520-690 g đối với cá cái và 620-750 g đối với cá đực) được tiêm 3 mức liều HCG 3.000 IU, 4.000 IU và 5.000 IU/kg khối lượng cơ thể cho cả cá
File đính kèm:
luan_an_dac_diem_sinh_hoc_va_ky_thuat_san_xuat_giong_ca_chan.pdf
Thongtinluanan-en.docx
Thongtinluanan-vi.docx
Tomtatluanan-en.pdf
Tomtatluanan-vi.pdf