Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 1

Trang 1

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 2

Trang 2

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 3

Trang 3

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 4

Trang 4

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 5

Trang 5

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 6

Trang 6

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 7

Trang 7

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 8

Trang 8

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 9

Trang 9

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 135 trang nguyenduy 27/04/2025 1120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau

Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau
 một phần: nguồn nước cho canh tác (mặn-ngọt) không đủ cho 
suốt cả vụ (tôm hoặc lúa), gặp khó khăn về nguồn nước tùy theo thời điểm. 
Không tận dụng: luôn gặp khó khăn về nguồn nước trong quá trình canh 
tác (canh tác lúa trong điều kiện nồng độ mặn cao, canh tác tôm trong điều kiện 
không đủ nồng độ mặn). 
4.1.6.4 Nhận định chung của người dân về kinh tế xã hội của địa 
phương so với thời điểm trước khi chuyển đổi hệ thống 
Kết quả nghiên cứu tại huyện Cái Nước cho thấy, sau thời gian chuyển 
đổi hệ thống canh tác từ chuyên lúa sang lúa-tôm thì có 60% số hộ cho rằng 
cuộc sống của họ tốt hơn, các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nhu 
cầu cuộc sống đầy đủ hơn, thuận tiện hơn so với thời điểm trước khi chuyển đổi. 
Bên cạnh đó, có tới 20% số hộ cho rằng cuộc sống của họ không thay đổi. Đặc 
biệt có tới 20% số hộ cho rằng cuộc sống của họ kém hơn so với trước khi 
chuyển đổi. Lý giải cho những trường hợp này một số hộ cho rằng mặc dù cơ 
sở vật chất có phần tốt hơn nhưng vì quá trình chuyển đổi họ phải đầu tư vốn 
vào hệ thống và hiện tại vẫn còn thiếu nợ ngân hàng hoặc một số cá nhân khác 
nên họ cảm thấy lo lắng dẫn đến tình trạng trên. 
Tại huyện Thới Bình, sau thời gian chuyển đổi hệ thống từ chuyên lúa 
sang lúa-tôm thì có 98% số hộ cho rằng cuộc sống của họ tốt hơn, các điều kiện 
cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nhu cầu cuộc sống đầy đủ hơn, thuận tiện hơn 
so với thời điểm trước khi chuyển đổi. Chỉ có một số rất ít (2% số hộ) cho rằng 
cuộc sống của họ không thay đổi. 
Tóm lại, kết quả nghiên cứu này cho thấy hệ thống canh tác lúa-tôm phụ 
thuộc vào điều kiện tự nhiên rất lớn. Tại huyện Thới Bình do điều kiện tự nhiên 
phù hợp, người dân tận dụng được điều kiện tự nhiên tốt, chủ động quản lý được 
nguồn nước phục vụ cho hệ thống nên hiệu quả kinh tế từ hệ thống canh tác lúa-
tôm mang lại cao hơn so với Cái Nước. 
62 
4.2 Đặc tính hóa học các nhóm mẫu đất tại các vị trí khác nhau trong 
hệ thống lúa-tôm 
4.2.1 Tại vùng nghiên cứu huyện Cái Nước 
Kết quả khảo sát đặc tính hóa học các nhóm mẫu đất trong hệ thống lúa-
tôm tại huyện Cái Nước cho thấy những đặc tính hóa học này có sự khác biệt 
rất rõ giữa các nhóm mẫu đất chính có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng môi 
trường đất, nước cho cả cây lúa và con tôm trong hệ thống canh tác lúa-tôm. Cụ 
thể như sau: 
Chỉ số pH (nước) cao nhất là ở nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) với giá 
trị trung bình là 5,8; tiếp theo là nhóm bùn đáy có giá trị trung bình là 5,1; nhóm 
đất tầng canh tác (0-3 cm) có giá trị trung bình là 4,9 (Bảng 4.4). Theo thang 
đánh giá độ chua hiện tại cho đất trồng màu của Washington University-tree 
Fruit research & Extention center (2001) thì độ chua hiện tại của 3 nhóm mẫu ở 
mức thấp do đó cần phải có sự quan tâm cải tạo độ chua trong quá trình canh 
tác hệ thống để đạt hiệu quả. Theo H.Eswaran (1985), pH dao động trong 
khoảng 6,16 là tốt nhất cho cây lúa phát triển và các chất dinh dưỡng có độ hữu 
dụng tối đa. Như vậy trong 3 nhóm mẫu thì nhóm mẫu đất tầng canh tác (3-10 
cm) thuận lợi nhất cho cây lúa. Tuy nhiên do thời gian lấy mẫu đất vào thời 
điểm cuối mùa khô, chưa vào thời gian rửa mặn để phục vụ cho vụ lúa do đó 
cần có đủ thời gian và nguồn nước ngọt rửa khi tận dụng bùn đáy và đất mặt 
ruộng để canh tác tốt vụ lúa. 
Độ dẫn điện bão hòa (ECe, mS/cm) của 2 nhóm đất tại các vị trí khác 
nhau phân bố trong hệ thống canh tác gồm: mẫu đất tầng canh tác (0-3 cm) và 
đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị ECe tương đương nhau, lần lượt là 20,2 
và 24,9 (mS/cm). Nhóm bùn đáy có giá trị ECe cao nhất, đạt 56,5 (mS/cm) 
(Bảng 4.4), do đó trong canh tác hệ thống lúa-tôm cần phải quan tâm việc rửa 
mặn khi tận dụng bùn đáy bón cho vụ lúa. Tuy nhiên do thu mẫu vào thời điểm 
cuối mùa khô nên độ mặn diện đang là thời điểm cao nhất trong năm, độ mặn 
này sẽ giảm liên tục khi mùa mưa đến và sẽ giảm nhiều nếu như có việc rửa 
mặn tốt. 
63 
Bảng 4.2 Phân loại đất mặn dựa vào sinh trưởng và phát triển của cây trồng 
(Abrol và ctv., 1988) 
Phân loại 
đất mặn 
ECe 
(mS/cm) 
Ảnh hưởng đến sinh trưởng cây trồng 
Không mặn 0 – 2 
Ảnh hưởng không đáng kể đến sự sinh trưởng và 
phát triển của cây. 
Mặn nhẹ 2 – 4 
Chỉ một vài loại cây trồng nhạy cảm mới bị ảnh 
hưởng đến năng suất. 
Mặn trung bình 4 – 8 Năng suất của nhiều loại cây trồng bị giới hạn. 
Mặn nhiều 8 – 16 Chỉ có vài loại cây trồng mới cho được năng suất. 
Rất mặn >16 
Chỉ có một ít loại cây trồng kháng mặn mới cho 
được năng suất. 
Theo phân loại đất mặn của Abrol và ctv., 1988 dựa vào sự sinh trưởng 
và phát triển của cây trồng (Bảng 4.2), thì các nhóm mẫu khảo sát vào thời điểm 
cuối mùa khô thuộc nhóm rất mặn, ở nhóm đất này chỉ có một ít loại cây trồng 
kháng mặn mới cho năng suất. Do đó, để canh tác lúa đạt hiệu quả trong hệ 
thống lúa-tôm thì cần phải quan tâm thực hiện 2 vấn đề cần thiết: (1) chọn giống 
lúa kháng mặn; (2) việc rửa mặn phải thực hiện nghiêm túc với thời gian rửa 
mặn kéo dài tối đa, ít nhất là 2 tháng tính từ thời điểm bắt đầu mùa mưa. Điều 
này cũng đồng nghĩa với việc ở một vài địa phương hoàn toàn không chủ động 
nguồn nước ngọt mà chủ yếu dựa vào nước trời thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến 
hiệu quả của quá trình rửa mặn, từ đó có thể dẫn đến thất bại trong canh tác hệ 
thống canh tác này. 
Chỉ số phần trăm Na trao đổi (ESP, %) của các nhóm mẫu đất đều rất 
cao, chiếm trên 38%, với chỉ số ESP này cùng với chỉ số ECe hiện diện ở các 
nhóm đất, theo Abrol và ctv., (1988); Ayers (1985) về phân loại đất mặn (Bảng 
4.3) thì các nhóm đất trong hệ thống canh tác lúa-tôm thuộc loại đất mặn-sodic. 
Theo Võ Thị Gương và Tất Anh Thư (2010), đất mặn-sodic là đất có hàm lượng 
muối natri cao (chủ yếu Na2CO3) trên phức hệ hấp thu của đất, gây trở ngại cho 
sinh trưởng và phát triển của cây trồng, gây xáo trộn và mất cân đối về sự hấp 
thu nước và dưỡng chất và cả tính chất bất lợi về vật lý đất. Do đó đối với việc 
canh tác lúa trong hệ thống canh tác lúa-tôm ngoài việc phải làm giảm độ mặn 
64 
trong đất còn phải quan tâm cung cấp dưỡng chất trong suốt quá trình sinh 
trưởng cây lúa, như thế mới có thể đạt hiệu quả cao trong vụ lúa. 
Bảng 4.3 Phân loại đất mặn theo Abrol và ctv., (1988); Ayers (1985) 
Loại đất ECe (mS/cm) ESP (%) 
Đất không mặn <4 <15 
Đất mặn >4 <15 
Mặn-sodic >4 >15 
Sodic 15 
Hàm lượng K trao đổi (K+, cmol/kg) của các nhóm mẫu đất được ghi 
nhận cũng có sự khác biệt, cao nhất là nhóm bùn đáy, tầng canh tác (0-3 cm) và 
đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị trung bình lần lượt là 2,5; 2,2 và 2,1 
(cmol/kg) (Bảng 4.4). K trao đổi là nguồn cung cấp K chính cho cây trồng, theo 
thang đánh giá làm lượng K trao đổi của Kyuma (1976), hàm lượng K trao đổi 
của các thuộc nhóm giàu. Điều này cho thấy khi canh tác vụ lúa trong hệ 
thống lúa-tôm thì các nhóm đất này sẽ cung cấp đủ hàm lượng K cho cây 
lúa. Bên cạnh đó, nếu tận dụng được bùn đáy vào canh tác thì hàm lượng 
K trong bùn đáy có thể thay thế một tỷ lệ nhất định lượng K cung cấp từ 
phân vô cơ trong quá trình canh tác. 
Hàm lượng Ca trao đổi (Ca2+, cmol/kg) cũng được ghi nhận ở nhóm đất 
tầng canh tác (0-3 cm) cao nhất đạt trung bình là 9,1 cmol/kg; kế tiếp là nhóm 
bùn đáy và đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị trung bình lần lượt là 6,2 và 
6,5 (meq/100g) (Bảng 4.4). Theo thang đánh giá Ca trao đổi của E.S. Marx.J. 
Hart và R.G Steven (1999), thì hàm lượng Ca trao đổi của các nhóm đất này 
thuộc nhóm khá. 
Hàm lượng Mg trao đổi (Mg2+, cmol/kg) ở nhóm bùn đáy và đất tầng 
canh tác (0-3 cm) tương đương nhau ở mức cao, có giá trị trung bình lần lượt 
19,5 và 22,0 (cmol/kg); tiếp theo là nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) giá trị 
14,9 (cmol/kg ) (Bảng 4.4). Theo thang đánh giá Mg trao đổi của E.S. Marx.J. 
Hart và R.G Steven (1999), hàm lượng Mg trao đổi của 3 nhóm đất đều thuộc 
nhóm cao. 
Chỉ số CEC (cmol/kg) của 3 nhóm mẫu đất có giá trị trung bình tương 
đương nhau, theo thứ tự là nhóm bùn đáy, nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) và 
nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) lần lượt là 58,8; 54,1; 51,7 (cmol/kg) (Bảng 
65 
4.4). Chỉ số CEC cả 3 nhóm đất trên thuộc nhóm đất có dung tích hấp phụ cao, 
chứng tỏ các nhóm đất này có khả năng giữ và trao đổi tốt các dưỡng chất thiết 
yếu cho cây trồng. Điều này càng khẳng định các nhóm đất chính quyết định 
cho hệ thống canh tác lúa-tôm có chứa nhiều chất hữu cơ và khoáng sét. Tuy 
nhiên cũng chính vì yếu tố này mà việc rửa mặn cho đất để phục vụ cho vụ lúa 
trong hệ thống càng gặp nhiều khó khăn bởi các nguyên tố Na+ đã bị hấp phụ 
chặt trên các phiến sét của đất do đó cần phải quan tâm đến thời gian và kỹ thuật 
rửa mặn đối với các nhóm đất này để đạt hiệu quả cao trong canh tác. 
 Hàm lượng CHC (%) của nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm), nhóm bùn 
đáy và nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) được ghi nhận tương ứng là 12,6; 9,4 
và 7 (%) (Bảng 4.4). Nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) và bùn đáy có hàm lượng 
CHC cao là do trong quá trình canh tác dư thừa thực vật của vụ lúa còn lại kết 
hợp với dư thừa hữu cơ từ vụ tôm tích tụ trên bề mặt. Dư thừa hữu cơ có thể là 
nguồn cung cấp dưỡng chất cho vụ lúa nếu có thể tận dụng một cách hợp lý cho 
vụ lúa trong hệ thống. Theo thang đánh giá hàm lượng CHC trong đất của 
I.V.Chiurin (1951, 1972), nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) và nhóm bùn đáy 
được xếp vào nhóm đất có hàm lượng CHC giàu; nhóm đất tầng canh tác (3-10 
cm) thuộc nhóm khá. Điều này rất hữu ích cho hệ thống canh tác hiện tại bởi vì 
CHC có vai trò quan trọng đối với câu trúc và độ phì nhiêu của đất và cũng là 
nguồn cung cấp dưỡng chất cho cây trồng. 
 Hàm lượng N tổng số (%N) của các nhóm đất chia thành 2 nhóm, nhóm 
giàu bao gồm: bùn đáy và đất tầng canh tác (0-3 cm) với các hàm lượng N tổng 
số trung bình tương ứng là 0,27 và 0,27; đất tầng canh tác (3-10 cm) có hàm 
lượng trung bình là 0,18% (Bảng 4.4) thuộc nhóm khá (theo thang đánh giá hàm 
lượng N tổng số của Kyuma, 1976). Hàm lượng N tổng số của nhóm đất tầng 
canh tác (3-10 cm) thuộc nhóm khá, thấp hơn 2 nhóm đất còn lại điều này cho 
thấy rằng trong quá trình canh tác vụ lúa, hàm lượng N tổng số đã chuyển hóa 
thành các dạng hữu dụng cung cấp cho vụ lúa. Hàm lượng N tổng số này sẽ 
giảm dần theo thời gian nếu không có sự cung cấp bồi hoàn trả lại cho đất. Điều 
này một lần nữa càng khẳng định việc cung cấp bùn đáy tại chỗ lên bề mặt ruộng 
để tận dụng hàm lượng N có trong bùn đáy bổ sung cho vụ lúa là cần thiết, làm 
giảm một phần chi phí phân bón và góp phần cải thiện hiệu quả về kinh tế cho 
hệ thống lúa-tôm. 
 Hàm lượng P tổng số (%P2O5) ghi nhận của nhóm đất tầng canh tác (0-3 
cm) đạt mức 0,06%; nhóm bùn đáy và nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) cùng 
66 
đạt 0,05% (Bảng 4.4). Theo thang đánh giá hàm lượng P tổng số trong đất của 
Lê Văn Căn (1978), hàm lượng P tổng số của các nhóm đất này thuộc nhóm 
nghèo do đó trong quá trình canh tác hệ thống lúa-tôm với điều kiện hiện tại của 
vùng nghiên cứu cần phải quan tâm bổ sung lượng P cần thiết để đáp ứng nhu 
cầu về dưỡng chất thiết yếu cho vụ lúa. 
67 
Bảng 4.4 Các chỉ tiêu hóa học các nhóm mẫu đất ở các vị trí khác nhau trong hệ thống lúa-tôm tại Cái Nước 
Mẫu Giá trị 
pH 
(nước) 
EC 
(1:2,5); 
(mS/cm) 
ECe 
(mS/cm) 
Na+ K+ Ca2+ Mg2+ CEC ESP CHC N tổng số P tổng số 
(cmol/kg) (%) (%) (%N) (%P2O5) 
Bùn 
đáy 
Cao nhất 5,6 25,8 62,0 41,1 3,1 8,2 25,6 73,0 58,8 12,5 0,31 0,08 
Thấp nhất 4,5 19,2 46,1 22,4 1,4 4,7 15,0 46,7 42,0 5,5 0,2 0,04 
Trung bình 5,1±0,4 23,5±2,2 56,5±5,3 30,6±5,6 2,5±0,5 6,2±1,1 19,5±3,4 58,8±7,2 51,8±4,7 9,4±2,2 0,27±0,04 0,05±0,01 
Tầng 
canh 
tác 
(0-3 
cm) 
Cao nhất 5,3 10,3 24,7 27,3 2,9 12,0 24,3 65,1 43,3 15 0,3 0,07 
Thấp nhất 4,3 7,1 17,0 11,7 1,2 6,9 19,3 40,8 28,7 9,5 0,18 0,04 
Trung bình 4,9±0,3 8,4±1,2 20,2±2,9 20,8±5,0 2,2±0,5 9,1±1,5 22,0±1,6 54,1±6,9 38,0±5,1 12,6±1,8 0,27±0,03 0,06±0,01 
Tầng 
canh 
tác 
(3-10 
cm) 
Cao nhất 7,5 11,5 27,6 34,7 2,6 9,3 18,5 61,1 60,0 12,3 0,36 0,06 
Thấp nhất 3,5 9,1 21,8 17,4 0,9 4,9 11,8 42,3 41,1 4 0,09 0,04 
Trung bình 5,8±1,5 10,4±0,7 24,9±1,7 28,2±4,3 2,1±0,6 6,5±1,4 14,9±2,2 51,7±4,5 54,3±4,9 7±3,2 0,18±0,08 0,05±0,01 
Các chỉ số theo sau (±) biểu thị độ lệch chuẩn của các giá trị trung bình 
68 
4.2.2 Tại vùng nghiên cứu huyện Thới Bình 
Kết quả khảo sát đặt tính hóa học đất đất ở các vị trí khác nhau trong hệ 
thống canh tác lúa-tôm tại điểm nghiên cứu Thới Bình, ghi nhận sự khác nhau 
giữa các vị trí nhưng nhìn chung các đặc tính thể hiện độ mặn ít hơn so với điểm 
nghiên cứu Cái Nước, cụ thể như sau: 
Chỉ số pH (nước) dao động từ 4,2 đến 5,6, cao nhất ở nhóm mẫu bùn 
đáy và đất tầng canh tác (3-10 cm) (Bảng 4.5). Theo thang đánh giá độ chua 
hiện tại cho đất trồng màu của Washington University-tree Fruit research & 
Extention center (2001) thì độ chua hiện tại của 3 nhóm mẫu ở mức thấp do đó 
cần phải có sự quan tâm cải tạo độ chua trong quá trình canh tác hệ thống để đạt 
hiệu quả. Theo H.Eswaran (1985), pH dao động trong khoảng 6,16 là tốt nhất 
cho cây lúa phát triển và các chất dinh dưỡng có độ hữu dụng tối đa. Như vậy 
trong 3 nhóm mẫu thì nhóm mẫu bùn đáy và tầng canh tác (3-10 cm) thuận lợi 
nhất cho cây lúa. Tuy nhiên do thời gian lấy mẫu đất vào thời điểm cuối mùa 
khô, chưa vào thời gian rửa mặn để phục vụ cho vụ lúa do đó cần có đủ thời 
gian và nguồn nước ngọt rửa khi tận dụng bùn đáy và đất tầng canh tác (0-3 
cm) để canh tác tốt vụ lúa. 
Độ dẫn điện bão hòa (ECe, mS/cm) của nhóm đất bùn đáy cao nhất đạt 
28,0 (cmol/kg), kế tiếp là đất tầng canh tác (0-3 cm) và thấp nhất đất tầng 
canh tác (3-10 cm) (Bảng 4.5). Theo phân loại đất mặn của Abrol và ctv., 1988 
dựa vào sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng (Bảng 4.2), thì các nhóm mẫu 
khảo sát vào thời điểm cuối mùa khô thuộc nhóm rất mặn, ở nhóm đất này chỉ 
có một ít loại cây trồng kháng mặn mới cho năng suất. Tuy nhiên chỉ số ECe ở 
điểm nghiên cứu này thấp hơn rất nhiều so với chỉ số ECe ở điểm nghiên cứu 
Cái Nước, như vậy nếu rửa mặn phù hợp thì việc canh tác vụ lúa trong hệ thống 
canh tác lúa-tôm tại điểm nghiên cứu Thới Bình sẽ thuận lợi hơn nhiều so với 
Cái Nước. Bên cạnh đó, tại Thới Bình việc rửa mặn không phụ thuộc hoàn toàn 
vào nước mưa, lượng nước ngọt còn được cung cấp bởi nước sông. Do đó, người 
dân chủ động được nguồn nước ngọt trong quá trình rửa mặn, đây là yếu tố quan 
trọng tại những vùng rửa mặn phục vụ cho vụ lúa, bởi vì việc rửa mặn đạt hiệu 
quả cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng chủ động nguồn nước ngọt. 
Chỉ số phần trăm Na trao đổi (ESP, %) của các nhóm mẫu ở các vị trí 
khác nhau dao động từ 24 đến 30 (%) (Bảng 4.5) với chỉ số ESP này cùng với 
chỉ số ECe hiện diện ở các nhóm đất, theo Abrol và ctv., (1988); Ayers (1985) 
về phân loại đất mặn (Bảng 4.3) thì các nhóm đất trong hệ thống canh tác lúa-
69 
tôm thuộc loại đất mặn-sodic. Tuy nhiên mức độ mặn-sodic ở điểm nghiên cứu 
này thấp hơn nhiều so với điểm Cái Nước, do đó về mặt điều kiện tự nhiên có 
thể nói việc thực hiện hệ thống canh tác lúa-tôm tại Thới Bình thuận lợi hơn 
nhiều so với điểm Cái nước. Điều này được thể hiện ở 2 khía cạnh: (1) Đặc tính 
hóa học về độ mặn ở Thới Bình thấp hơn sơ với Cái Nước; (2) Điểm nghiên cứu 
Thới Bình chủ động được nguồn nước ngọt phục vụ cho rửa mặn và cho cả vụ 
lúa (nước ngọt từ sông và nước mưa). 
Hàm lượng K trao đổi (K+, cmol/kg) dao động từ 0,7 đến 1,4 (cmol/kg) 
(Bảng 4.5), cao nhất ở mẫu đất tầng canh tác (0-3 cm). Theo thang đánh giá hàm 
lượng K trao đổi trong đất của Kyuma (1976), hàm lượng K trao đổi của các 
nhóm mẫu đất đều thuộc nhóm có hàm lượng K trao đổi giàu. 
Hàm lượng Ca trao đổi (Ca2+, cmol/kg) cũng được ghi nhận ở nhóm bùn 
đáy cao nhất đạt trung bình là 6,0 cmol/kg; kế tiếp là nhóm đất tầng canh tác 
(3-10 cm) có giá trị trung bình là 5,1 (meq/100g) (Bảng 4.5). Theo thang đánh 
giá Ca trao đổi của E.S. Marx.J. Hart & R.G Steven (1999), thì hàm lượng Ca 
trao đổi của nhóm bùn đáy và đất tầng canh tác (3-10 cm) thuộc nhóm khá; 
nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) thuộc nhóm thấp. 
Hàm lượng Mg trao đổi (Mg2+, cmol/kg) ở các nhóm tương đương nhau 
dao động từ 8 đến 11,3 (cmol/kg); (Bảng 4.5). Theo thang đánh giá Mg trao đổi 
của E.S. Marx.J. Hart & R.G Steven (1999), hàm lượng Mg trao đổi của 3 nhóm 
đất đều thuộc nhóm cao. 
Chỉ số CEC (cmol/kg) của mẫu bùn đáy cao nhất đạt 27,0 (cmol/kg), các 
nhóm đất còn lại dao động từ 17 đến 21 (cmol/kg) (Bảng 4.5). Chỉ số CEC cả 3 
nhóm đất trên thuộc nhóm cao, chứng tỏ các nhóm đất này có khả năng giữ và 
trao đổi tốt các dưỡng chất thiết yếu cho cây trồng. 
Hàm lượng CHC (%) ở các vị trí khác nhau dao động từ 6,2 đến 10,4 
(%). Trong đó hàm lượng CHC bùn đáy đạt giá trị cao nhất (10,4%). Theo thang 
đánh giá hàm lượng CHC trong đất của I.V.Chiurin (1951, 1972), hàm lượng 
CHC ở cả 3 vị trí trên đều thuộc nhóm giàu. Điều này chứng tỏ CHC trong hệ 
thống lúa-tôm được tích lũy một phần trên tầng canh tác (0-3 cm) và đa phần 
được tích lũy ở lớp bùn đáy. Do đó, nếu tận dụng bùn đáy bón cho vụ lúa thì 
hàm lượng CHC này giúp cho việc cải thiện đất canh tác cũng như năng suất 
lúa, góp phần làm cho hệ thống canh tác lúa-tôm ngày càng thêm ổn định, bền 
vững. 
70 
Hàm lượng N tổng số (%) trong hệ thống lúa-tôm tại huyện Thới Bình 
dao động từ 0,13 đến 0,19% (Bảng 4.5). Trong đó, bùn đáy đạt giá trị cao nhất 
(0,19%). Theo thang đánh giá hàm lượng N tổng số của Kyuma (1976), hàm 
lượng N tổng số của bùn đáy được đánh giá thuộc nhóm khá, các mẫu ở các vị 
trí còn lại được đánh giá có hàm lượng N tổng số thuộc nhóm trung bình. Như 
vậy nếu loại bỏ được bất lợi của mặn thì dinh dưỡng N từ bùn đáy trong hệ 
thống lúa-tôm có thể hữu dụng cho vụ lúa. 
Hàm lượng P tổng số (%) trong hệ thống lúa-tôm dao động từ 0,04 đến 
0,07%. Trong đó bùn đáy và đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị cao nhất. 
Theo thang đánh giá của Nguyễn Xuân Cự (2000), hàm lượng P tổng của bùn 
đáy, đất tầng canh tác (3-10 cm) thuộc nhóm trung bình, riêng đất tầng canh 
tác (3-10 cm) có hàm lượng P tổng thuộc nhóm nghèo. Như vậy hàm lượng P 
tổng trong bùn đáy cao hơn rất nhiều so với đất mặt ruộng nên nếu tận dụng 
được lượng dinh dưỡng P từ bùn đáy sẽ có lợi cho vụ lúa khi loại bỏ được mặn 
tích lũy trong bùn đáy. 
Tóm lại, qua kết quả khảo đặc tính hóa học các mẫu đất ở 3 vị trí khác 
nhau trong mô hình lúa-tôm tại điểm nghiên cứu Cái Nước và Thới Bình cho 
thấy: (1) Việc thực hiện hệ thống canh tác lúa-tôm tại Thới Bình thuận lợi hơn 
so với Cái Nước do đặc tính mặn ở Thới Bình thấp hơn; (2) Bùn đáy có chứa 
nhiều dưỡng chất hữu dụng cho cây trồng nên việc tận dụng bùn đáy bón cho 
vụ lúa là cần thiết sau khi đã loại bỏ yếu tố mặn thông qua việc rửa mặn. 
71 
Bảng 4.5 Các chỉ tiêu hóa học các nhóm mẫu đất ở các vị trí khác nhau trong hệ thống lúa-tôm tại Thới Bình 
Mẫu Giá trị 
pH 
(nước) 
EC 
(1:2,5); 
 (mS/cm) 
ECe 
(mS/cm) 
Na+ K+ Ca2+ Mg2+ CEC ESP CHC N tổng số P tổng số 
(cmol/kg) (%) (%) (%N) (%P2O5) 
Bùn 
đáy 
Cao nhất 6,5 17,2 41,9 8,4 2,4 6,6 14,6 30,1 31,9 13,2 0,24 0,09 
Thấp nhất 4,5 3,7 9,0 6,8 0,5 5,1 9,1 23,8 23,6 8,9 0,17 0,06 
Trung bình 
5,6±0,5 11,5±4,8 28,0±11,6 7,7±0,6 1,2±0,6 6,0±0,4 11,3±2,0 27,0±1,9 28,5±2,5 10,6±1,2 0,19±0,02 0,07±0,01 
Tầng 
canh 
tác 
(0-3 
cm) 
Cao nhất 5,4 12,4 30,3 6,4 1,9 2,8 11,5 20,9 34,0 8,9 0,19 0,06 
Thấp nhất 4,6 3,9 9,5 4,4 0,9 2,3 7,8 17,6 21,1 7,4 0,13 0,03 
Trung bình 
4,9±0,3 9,3±2,8 22,7±6,9 5,2±0,8 1,3±0,4 2,5±0,2 9,8±1,2 19,5±1,0 26,6±3,9 8,1±0,5 0,16±0,02 0,04±0,01 
Tầng 
canh 
tác 
(3-10 
cm) 
Cao nhất 5,9 15,4 37,6 5,8 1,9 5,5 10,4 23,6 29,6 9,5 0,17 0,08 
Thấp nhất 
5,4 2,5 6,0 2,74 1,02 4,68 8,9 18,9 14,3 7,6 0,13 0,05 
Trung bình 5,6±0,1 10,2±4,0 24,9±9,7 5,2±0,8 1,4±0,3 5,1±0,2 9,4±0,6 21,5±1,7 24,2±3,7 8,4±0,5 0,15±0,01 0,07±0,01 
Các chỉ số theo sau (±) biểu thị độ lệch chuẩn của các giá trị trung bình 
72 
4.3 Khối lượng bùn đáy

File đính kèm:

  • pdfluan_an_danh_gia_chat_luong_va_hieu_qua_cua_bun_day_tren_nan.pdf
  • pdfThong tin luan an- TViet_Huynh Van Quoc.pdf
  • pdfThong tin luan an-TAnh_Huynh Van Quoc.pdf
  • pdfTom tat tieng Anh_Huynh Van Quoc.pdf
  • pdfTom tat tieng Viet_Huynh Van Quoc.pdf