Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá chất lượng và hiệu quả của bùn đáy trên năng suất lúa trong hệ thống canh tác lúa - Tôm tại tỉnh Cà Mau

một phần: nguồn nước cho canh tác (mặn-ngọt) không đủ cho suốt cả vụ (tôm hoặc lúa), gặp khó khăn về nguồn nước tùy theo thời điểm. Không tận dụng: luôn gặp khó khăn về nguồn nước trong quá trình canh tác (canh tác lúa trong điều kiện nồng độ mặn cao, canh tác tôm trong điều kiện không đủ nồng độ mặn). 4.1.6.4 Nhận định chung của người dân về kinh tế xã hội của địa phương so với thời điểm trước khi chuyển đổi hệ thống Kết quả nghiên cứu tại huyện Cái Nước cho thấy, sau thời gian chuyển đổi hệ thống canh tác từ chuyên lúa sang lúa-tôm thì có 60% số hộ cho rằng cuộc sống của họ tốt hơn, các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nhu cầu cuộc sống đầy đủ hơn, thuận tiện hơn so với thời điểm trước khi chuyển đổi. Bên cạnh đó, có tới 20% số hộ cho rằng cuộc sống của họ không thay đổi. Đặc biệt có tới 20% số hộ cho rằng cuộc sống của họ kém hơn so với trước khi chuyển đổi. Lý giải cho những trường hợp này một số hộ cho rằng mặc dù cơ sở vật chất có phần tốt hơn nhưng vì quá trình chuyển đổi họ phải đầu tư vốn vào hệ thống và hiện tại vẫn còn thiếu nợ ngân hàng hoặc một số cá nhân khác nên họ cảm thấy lo lắng dẫn đến tình trạng trên. Tại huyện Thới Bình, sau thời gian chuyển đổi hệ thống từ chuyên lúa sang lúa-tôm thì có 98% số hộ cho rằng cuộc sống của họ tốt hơn, các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nhu cầu cuộc sống đầy đủ hơn, thuận tiện hơn so với thời điểm trước khi chuyển đổi. Chỉ có một số rất ít (2% số hộ) cho rằng cuộc sống của họ không thay đổi. Tóm lại, kết quả nghiên cứu này cho thấy hệ thống canh tác lúa-tôm phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên rất lớn. Tại huyện Thới Bình do điều kiện tự nhiên phù hợp, người dân tận dụng được điều kiện tự nhiên tốt, chủ động quản lý được nguồn nước phục vụ cho hệ thống nên hiệu quả kinh tế từ hệ thống canh tác lúa- tôm mang lại cao hơn so với Cái Nước. 62 4.2 Đặc tính hóa học các nhóm mẫu đất tại các vị trí khác nhau trong hệ thống lúa-tôm 4.2.1 Tại vùng nghiên cứu huyện Cái Nước Kết quả khảo sát đặc tính hóa học các nhóm mẫu đất trong hệ thống lúa- tôm tại huyện Cái Nước cho thấy những đặc tính hóa học này có sự khác biệt rất rõ giữa các nhóm mẫu đất chính có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng môi trường đất, nước cho cả cây lúa và con tôm trong hệ thống canh tác lúa-tôm. Cụ thể như sau: Chỉ số pH (nước) cao nhất là ở nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) với giá trị trung bình là 5,8; tiếp theo là nhóm bùn đáy có giá trị trung bình là 5,1; nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) có giá trị trung bình là 4,9 (Bảng 4.4). Theo thang đánh giá độ chua hiện tại cho đất trồng màu của Washington University-tree Fruit research & Extention center (2001) thì độ chua hiện tại của 3 nhóm mẫu ở mức thấp do đó cần phải có sự quan tâm cải tạo độ chua trong quá trình canh tác hệ thống để đạt hiệu quả. Theo H.Eswaran (1985), pH dao động trong khoảng 6,16 là tốt nhất cho cây lúa phát triển và các chất dinh dưỡng có độ hữu dụng tối đa. Như vậy trong 3 nhóm mẫu thì nhóm mẫu đất tầng canh tác (3-10 cm) thuận lợi nhất cho cây lúa. Tuy nhiên do thời gian lấy mẫu đất vào thời điểm cuối mùa khô, chưa vào thời gian rửa mặn để phục vụ cho vụ lúa do đó cần có đủ thời gian và nguồn nước ngọt rửa khi tận dụng bùn đáy và đất mặt ruộng để canh tác tốt vụ lúa. Độ dẫn điện bão hòa (ECe, mS/cm) của 2 nhóm đất tại các vị trí khác nhau phân bố trong hệ thống canh tác gồm: mẫu đất tầng canh tác (0-3 cm) và đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị ECe tương đương nhau, lần lượt là 20,2 và 24,9 (mS/cm). Nhóm bùn đáy có giá trị ECe cao nhất, đạt 56,5 (mS/cm) (Bảng 4.4), do đó trong canh tác hệ thống lúa-tôm cần phải quan tâm việc rửa mặn khi tận dụng bùn đáy bón cho vụ lúa. Tuy nhiên do thu mẫu vào thời điểm cuối mùa khô nên độ mặn diện đang là thời điểm cao nhất trong năm, độ mặn này sẽ giảm liên tục khi mùa mưa đến và sẽ giảm nhiều nếu như có việc rửa mặn tốt. 63 Bảng 4.2 Phân loại đất mặn dựa vào sinh trưởng và phát triển của cây trồng (Abrol và ctv., 1988) Phân loại đất mặn ECe (mS/cm) Ảnh hưởng đến sinh trưởng cây trồng Không mặn 0 – 2 Ảnh hưởng không đáng kể đến sự sinh trưởng và phát triển của cây. Mặn nhẹ 2 – 4 Chỉ một vài loại cây trồng nhạy cảm mới bị ảnh hưởng đến năng suất. Mặn trung bình 4 – 8 Năng suất của nhiều loại cây trồng bị giới hạn. Mặn nhiều 8 – 16 Chỉ có vài loại cây trồng mới cho được năng suất. Rất mặn >16 Chỉ có một ít loại cây trồng kháng mặn mới cho được năng suất. Theo phân loại đất mặn của Abrol và ctv., 1988 dựa vào sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng (Bảng 4.2), thì các nhóm mẫu khảo sát vào thời điểm cuối mùa khô thuộc nhóm rất mặn, ở nhóm đất này chỉ có một ít loại cây trồng kháng mặn mới cho năng suất. Do đó, để canh tác lúa đạt hiệu quả trong hệ thống lúa-tôm thì cần phải quan tâm thực hiện 2 vấn đề cần thiết: (1) chọn giống lúa kháng mặn; (2) việc rửa mặn phải thực hiện nghiêm túc với thời gian rửa mặn kéo dài tối đa, ít nhất là 2 tháng tính từ thời điểm bắt đầu mùa mưa. Điều này cũng đồng nghĩa với việc ở một vài địa phương hoàn toàn không chủ động nguồn nước ngọt mà chủ yếu dựa vào nước trời thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của quá trình rửa mặn, từ đó có thể dẫn đến thất bại trong canh tác hệ thống canh tác này. Chỉ số phần trăm Na trao đổi (ESP, %) của các nhóm mẫu đất đều rất cao, chiếm trên 38%, với chỉ số ESP này cùng với chỉ số ECe hiện diện ở các nhóm đất, theo Abrol và ctv., (1988); Ayers (1985) về phân loại đất mặn (Bảng 4.3) thì các nhóm đất trong hệ thống canh tác lúa-tôm thuộc loại đất mặn-sodic. Theo Võ Thị Gương và Tất Anh Thư (2010), đất mặn-sodic là đất có hàm lượng muối natri cao (chủ yếu Na2CO3) trên phức hệ hấp thu của đất, gây trở ngại cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, gây xáo trộn và mất cân đối về sự hấp thu nước và dưỡng chất và cả tính chất bất lợi về vật lý đất. Do đó đối với việc canh tác lúa trong hệ thống canh tác lúa-tôm ngoài việc phải làm giảm độ mặn 64 trong đất còn phải quan tâm cung cấp dưỡng chất trong suốt quá trình sinh trưởng cây lúa, như thế mới có thể đạt hiệu quả cao trong vụ lúa. Bảng 4.3 Phân loại đất mặn theo Abrol và ctv., (1988); Ayers (1985) Loại đất ECe (mS/cm) ESP (%) Đất không mặn <4 <15 Đất mặn >4 <15 Mặn-sodic >4 >15 Sodic 15 Hàm lượng K trao đổi (K+, cmol/kg) của các nhóm mẫu đất được ghi nhận cũng có sự khác biệt, cao nhất là nhóm bùn đáy, tầng canh tác (0-3 cm) và đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị trung bình lần lượt là 2,5; 2,2 và 2,1 (cmol/kg) (Bảng 4.4). K trao đổi là nguồn cung cấp K chính cho cây trồng, theo thang đánh giá làm lượng K trao đổi của Kyuma (1976), hàm lượng K trao đổi của các thuộc nhóm giàu. Điều này cho thấy khi canh tác vụ lúa trong hệ thống lúa-tôm thì các nhóm đất này sẽ cung cấp đủ hàm lượng K cho cây lúa. Bên cạnh đó, nếu tận dụng được bùn đáy vào canh tác thì hàm lượng K trong bùn đáy có thể thay thế một tỷ lệ nhất định lượng K cung cấp từ phân vô cơ trong quá trình canh tác. Hàm lượng Ca trao đổi (Ca2+, cmol/kg) cũng được ghi nhận ở nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) cao nhất đạt trung bình là 9,1 cmol/kg; kế tiếp là nhóm bùn đáy và đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị trung bình lần lượt là 6,2 và 6,5 (meq/100g) (Bảng 4.4). Theo thang đánh giá Ca trao đổi của E.S. Marx.J. Hart và R.G Steven (1999), thì hàm lượng Ca trao đổi của các nhóm đất này thuộc nhóm khá. Hàm lượng Mg trao đổi (Mg2+, cmol/kg) ở nhóm bùn đáy và đất tầng canh tác (0-3 cm) tương đương nhau ở mức cao, có giá trị trung bình lần lượt 19,5 và 22,0 (cmol/kg); tiếp theo là nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) giá trị 14,9 (cmol/kg ) (Bảng 4.4). Theo thang đánh giá Mg trao đổi của E.S. Marx.J. Hart và R.G Steven (1999), hàm lượng Mg trao đổi của 3 nhóm đất đều thuộc nhóm cao. Chỉ số CEC (cmol/kg) của 3 nhóm mẫu đất có giá trị trung bình tương đương nhau, theo thứ tự là nhóm bùn đáy, nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) và nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) lần lượt là 58,8; 54,1; 51,7 (cmol/kg) (Bảng 65 4.4). Chỉ số CEC cả 3 nhóm đất trên thuộc nhóm đất có dung tích hấp phụ cao, chứng tỏ các nhóm đất này có khả năng giữ và trao đổi tốt các dưỡng chất thiết yếu cho cây trồng. Điều này càng khẳng định các nhóm đất chính quyết định cho hệ thống canh tác lúa-tôm có chứa nhiều chất hữu cơ và khoáng sét. Tuy nhiên cũng chính vì yếu tố này mà việc rửa mặn cho đất để phục vụ cho vụ lúa trong hệ thống càng gặp nhiều khó khăn bởi các nguyên tố Na+ đã bị hấp phụ chặt trên các phiến sét của đất do đó cần phải quan tâm đến thời gian và kỹ thuật rửa mặn đối với các nhóm đất này để đạt hiệu quả cao trong canh tác. Hàm lượng CHC (%) của nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm), nhóm bùn đáy và nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) được ghi nhận tương ứng là 12,6; 9,4 và 7 (%) (Bảng 4.4). Nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) và bùn đáy có hàm lượng CHC cao là do trong quá trình canh tác dư thừa thực vật của vụ lúa còn lại kết hợp với dư thừa hữu cơ từ vụ tôm tích tụ trên bề mặt. Dư thừa hữu cơ có thể là nguồn cung cấp dưỡng chất cho vụ lúa nếu có thể tận dụng một cách hợp lý cho vụ lúa trong hệ thống. Theo thang đánh giá hàm lượng CHC trong đất của I.V.Chiurin (1951, 1972), nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) và nhóm bùn đáy được xếp vào nhóm đất có hàm lượng CHC giàu; nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) thuộc nhóm khá. Điều này rất hữu ích cho hệ thống canh tác hiện tại bởi vì CHC có vai trò quan trọng đối với câu trúc và độ phì nhiêu của đất và cũng là nguồn cung cấp dưỡng chất cho cây trồng. Hàm lượng N tổng số (%N) của các nhóm đất chia thành 2 nhóm, nhóm giàu bao gồm: bùn đáy và đất tầng canh tác (0-3 cm) với các hàm lượng N tổng số trung bình tương ứng là 0,27 và 0,27; đất tầng canh tác (3-10 cm) có hàm lượng trung bình là 0,18% (Bảng 4.4) thuộc nhóm khá (theo thang đánh giá hàm lượng N tổng số của Kyuma, 1976). Hàm lượng N tổng số của nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) thuộc nhóm khá, thấp hơn 2 nhóm đất còn lại điều này cho thấy rằng trong quá trình canh tác vụ lúa, hàm lượng N tổng số đã chuyển hóa thành các dạng hữu dụng cung cấp cho vụ lúa. Hàm lượng N tổng số này sẽ giảm dần theo thời gian nếu không có sự cung cấp bồi hoàn trả lại cho đất. Điều này một lần nữa càng khẳng định việc cung cấp bùn đáy tại chỗ lên bề mặt ruộng để tận dụng hàm lượng N có trong bùn đáy bổ sung cho vụ lúa là cần thiết, làm giảm một phần chi phí phân bón và góp phần cải thiện hiệu quả về kinh tế cho hệ thống lúa-tôm. Hàm lượng P tổng số (%P2O5) ghi nhận của nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) đạt mức 0,06%; nhóm bùn đáy và nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) cùng 66 đạt 0,05% (Bảng 4.4). Theo thang đánh giá hàm lượng P tổng số trong đất của Lê Văn Căn (1978), hàm lượng P tổng số của các nhóm đất này thuộc nhóm nghèo do đó trong quá trình canh tác hệ thống lúa-tôm với điều kiện hiện tại của vùng nghiên cứu cần phải quan tâm bổ sung lượng P cần thiết để đáp ứng nhu cầu về dưỡng chất thiết yếu cho vụ lúa. 67 Bảng 4.4 Các chỉ tiêu hóa học các nhóm mẫu đất ở các vị trí khác nhau trong hệ thống lúa-tôm tại Cái Nước Mẫu Giá trị pH (nước) EC (1:2,5); (mS/cm) ECe (mS/cm) Na+ K+ Ca2+ Mg2+ CEC ESP CHC N tổng số P tổng số (cmol/kg) (%) (%) (%N) (%P2O5) Bùn đáy Cao nhất 5,6 25,8 62,0 41,1 3,1 8,2 25,6 73,0 58,8 12,5 0,31 0,08 Thấp nhất 4,5 19,2 46,1 22,4 1,4 4,7 15,0 46,7 42,0 5,5 0,2 0,04 Trung bình 5,1±0,4 23,5±2,2 56,5±5,3 30,6±5,6 2,5±0,5 6,2±1,1 19,5±3,4 58,8±7,2 51,8±4,7 9,4±2,2 0,27±0,04 0,05±0,01 Tầng canh tác (0-3 cm) Cao nhất 5,3 10,3 24,7 27,3 2,9 12,0 24,3 65,1 43,3 15 0,3 0,07 Thấp nhất 4,3 7,1 17,0 11,7 1,2 6,9 19,3 40,8 28,7 9,5 0,18 0,04 Trung bình 4,9±0,3 8,4±1,2 20,2±2,9 20,8±5,0 2,2±0,5 9,1±1,5 22,0±1,6 54,1±6,9 38,0±5,1 12,6±1,8 0,27±0,03 0,06±0,01 Tầng canh tác (3-10 cm) Cao nhất 7,5 11,5 27,6 34,7 2,6 9,3 18,5 61,1 60,0 12,3 0,36 0,06 Thấp nhất 3,5 9,1 21,8 17,4 0,9 4,9 11,8 42,3 41,1 4 0,09 0,04 Trung bình 5,8±1,5 10,4±0,7 24,9±1,7 28,2±4,3 2,1±0,6 6,5±1,4 14,9±2,2 51,7±4,5 54,3±4,9 7±3,2 0,18±0,08 0,05±0,01 Các chỉ số theo sau (±) biểu thị độ lệch chuẩn của các giá trị trung bình 68 4.2.2 Tại vùng nghiên cứu huyện Thới Bình Kết quả khảo sát đặt tính hóa học đất đất ở các vị trí khác nhau trong hệ thống canh tác lúa-tôm tại điểm nghiên cứu Thới Bình, ghi nhận sự khác nhau giữa các vị trí nhưng nhìn chung các đặc tính thể hiện độ mặn ít hơn so với điểm nghiên cứu Cái Nước, cụ thể như sau: Chỉ số pH (nước) dao động từ 4,2 đến 5,6, cao nhất ở nhóm mẫu bùn đáy và đất tầng canh tác (3-10 cm) (Bảng 4.5). Theo thang đánh giá độ chua hiện tại cho đất trồng màu của Washington University-tree Fruit research & Extention center (2001) thì độ chua hiện tại của 3 nhóm mẫu ở mức thấp do đó cần phải có sự quan tâm cải tạo độ chua trong quá trình canh tác hệ thống để đạt hiệu quả. Theo H.Eswaran (1985), pH dao động trong khoảng 6,16 là tốt nhất cho cây lúa phát triển và các chất dinh dưỡng có độ hữu dụng tối đa. Như vậy trong 3 nhóm mẫu thì nhóm mẫu bùn đáy và tầng canh tác (3-10 cm) thuận lợi nhất cho cây lúa. Tuy nhiên do thời gian lấy mẫu đất vào thời điểm cuối mùa khô, chưa vào thời gian rửa mặn để phục vụ cho vụ lúa do đó cần có đủ thời gian và nguồn nước ngọt rửa khi tận dụng bùn đáy và đất tầng canh tác (0-3 cm) để canh tác tốt vụ lúa. Độ dẫn điện bão hòa (ECe, mS/cm) của nhóm đất bùn đáy cao nhất đạt 28,0 (cmol/kg), kế tiếp là đất tầng canh tác (0-3 cm) và thấp nhất đất tầng canh tác (3-10 cm) (Bảng 4.5). Theo phân loại đất mặn của Abrol và ctv., 1988 dựa vào sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng (Bảng 4.2), thì các nhóm mẫu khảo sát vào thời điểm cuối mùa khô thuộc nhóm rất mặn, ở nhóm đất này chỉ có một ít loại cây trồng kháng mặn mới cho năng suất. Tuy nhiên chỉ số ECe ở điểm nghiên cứu này thấp hơn rất nhiều so với chỉ số ECe ở điểm nghiên cứu Cái Nước, như vậy nếu rửa mặn phù hợp thì việc canh tác vụ lúa trong hệ thống canh tác lúa-tôm tại điểm nghiên cứu Thới Bình sẽ thuận lợi hơn nhiều so với Cái Nước. Bên cạnh đó, tại Thới Bình việc rửa mặn không phụ thuộc hoàn toàn vào nước mưa, lượng nước ngọt còn được cung cấp bởi nước sông. Do đó, người dân chủ động được nguồn nước ngọt trong quá trình rửa mặn, đây là yếu tố quan trọng tại những vùng rửa mặn phục vụ cho vụ lúa, bởi vì việc rửa mặn đạt hiệu quả cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng chủ động nguồn nước ngọt. Chỉ số phần trăm Na trao đổi (ESP, %) của các nhóm mẫu ở các vị trí khác nhau dao động từ 24 đến 30 (%) (Bảng 4.5) với chỉ số ESP này cùng với chỉ số ECe hiện diện ở các nhóm đất, theo Abrol và ctv., (1988); Ayers (1985) về phân loại đất mặn (Bảng 4.3) thì các nhóm đất trong hệ thống canh tác lúa- 69 tôm thuộc loại đất mặn-sodic. Tuy nhiên mức độ mặn-sodic ở điểm nghiên cứu này thấp hơn nhiều so với điểm Cái Nước, do đó về mặt điều kiện tự nhiên có thể nói việc thực hiện hệ thống canh tác lúa-tôm tại Thới Bình thuận lợi hơn nhiều so với điểm Cái nước. Điều này được thể hiện ở 2 khía cạnh: (1) Đặc tính hóa học về độ mặn ở Thới Bình thấp hơn sơ với Cái Nước; (2) Điểm nghiên cứu Thới Bình chủ động được nguồn nước ngọt phục vụ cho rửa mặn và cho cả vụ lúa (nước ngọt từ sông và nước mưa). Hàm lượng K trao đổi (K+, cmol/kg) dao động từ 0,7 đến 1,4 (cmol/kg) (Bảng 4.5), cao nhất ở mẫu đất tầng canh tác (0-3 cm). Theo thang đánh giá hàm lượng K trao đổi trong đất của Kyuma (1976), hàm lượng K trao đổi của các nhóm mẫu đất đều thuộc nhóm có hàm lượng K trao đổi giàu. Hàm lượng Ca trao đổi (Ca2+, cmol/kg) cũng được ghi nhận ở nhóm bùn đáy cao nhất đạt trung bình là 6,0 cmol/kg; kế tiếp là nhóm đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị trung bình là 5,1 (meq/100g) (Bảng 4.5). Theo thang đánh giá Ca trao đổi của E.S. Marx.J. Hart & R.G Steven (1999), thì hàm lượng Ca trao đổi của nhóm bùn đáy và đất tầng canh tác (3-10 cm) thuộc nhóm khá; nhóm đất tầng canh tác (0-3 cm) thuộc nhóm thấp. Hàm lượng Mg trao đổi (Mg2+, cmol/kg) ở các nhóm tương đương nhau dao động từ 8 đến 11,3 (cmol/kg); (Bảng 4.5). Theo thang đánh giá Mg trao đổi của E.S. Marx.J. Hart & R.G Steven (1999), hàm lượng Mg trao đổi của 3 nhóm đất đều thuộc nhóm cao. Chỉ số CEC (cmol/kg) của mẫu bùn đáy cao nhất đạt 27,0 (cmol/kg), các nhóm đất còn lại dao động từ 17 đến 21 (cmol/kg) (Bảng 4.5). Chỉ số CEC cả 3 nhóm đất trên thuộc nhóm cao, chứng tỏ các nhóm đất này có khả năng giữ và trao đổi tốt các dưỡng chất thiết yếu cho cây trồng. Hàm lượng CHC (%) ở các vị trí khác nhau dao động từ 6,2 đến 10,4 (%). Trong đó hàm lượng CHC bùn đáy đạt giá trị cao nhất (10,4%). Theo thang đánh giá hàm lượng CHC trong đất của I.V.Chiurin (1951, 1972), hàm lượng CHC ở cả 3 vị trí trên đều thuộc nhóm giàu. Điều này chứng tỏ CHC trong hệ thống lúa-tôm được tích lũy một phần trên tầng canh tác (0-3 cm) và đa phần được tích lũy ở lớp bùn đáy. Do đó, nếu tận dụng bùn đáy bón cho vụ lúa thì hàm lượng CHC này giúp cho việc cải thiện đất canh tác cũng như năng suất lúa, góp phần làm cho hệ thống canh tác lúa-tôm ngày càng thêm ổn định, bền vững. 70 Hàm lượng N tổng số (%) trong hệ thống lúa-tôm tại huyện Thới Bình dao động từ 0,13 đến 0,19% (Bảng 4.5). Trong đó, bùn đáy đạt giá trị cao nhất (0,19%). Theo thang đánh giá hàm lượng N tổng số của Kyuma (1976), hàm lượng N tổng số của bùn đáy được đánh giá thuộc nhóm khá, các mẫu ở các vị trí còn lại được đánh giá có hàm lượng N tổng số thuộc nhóm trung bình. Như vậy nếu loại bỏ được bất lợi của mặn thì dinh dưỡng N từ bùn đáy trong hệ thống lúa-tôm có thể hữu dụng cho vụ lúa. Hàm lượng P tổng số (%) trong hệ thống lúa-tôm dao động từ 0,04 đến 0,07%. Trong đó bùn đáy và đất tầng canh tác (3-10 cm) có giá trị cao nhất. Theo thang đánh giá của Nguyễn Xuân Cự (2000), hàm lượng P tổng của bùn đáy, đất tầng canh tác (3-10 cm) thuộc nhóm trung bình, riêng đất tầng canh tác (3-10 cm) có hàm lượng P tổng thuộc nhóm nghèo. Như vậy hàm lượng P tổng trong bùn đáy cao hơn rất nhiều so với đất mặt ruộng nên nếu tận dụng được lượng dinh dưỡng P từ bùn đáy sẽ có lợi cho vụ lúa khi loại bỏ được mặn tích lũy trong bùn đáy. Tóm lại, qua kết quả khảo đặc tính hóa học các mẫu đất ở 3 vị trí khác nhau trong mô hình lúa-tôm tại điểm nghiên cứu Cái Nước và Thới Bình cho thấy: (1) Việc thực hiện hệ thống canh tác lúa-tôm tại Thới Bình thuận lợi hơn so với Cái Nước do đặc tính mặn ở Thới Bình thấp hơn; (2) Bùn đáy có chứa nhiều dưỡng chất hữu dụng cho cây trồng nên việc tận dụng bùn đáy bón cho vụ lúa là cần thiết sau khi đã loại bỏ yếu tố mặn thông qua việc rửa mặn. 71 Bảng 4.5 Các chỉ tiêu hóa học các nhóm mẫu đất ở các vị trí khác nhau trong hệ thống lúa-tôm tại Thới Bình Mẫu Giá trị pH (nước) EC (1:2,5); (mS/cm) ECe (mS/cm) Na+ K+ Ca2+ Mg2+ CEC ESP CHC N tổng số P tổng số (cmol/kg) (%) (%) (%N) (%P2O5) Bùn đáy Cao nhất 6,5 17,2 41,9 8,4 2,4 6,6 14,6 30,1 31,9 13,2 0,24 0,09 Thấp nhất 4,5 3,7 9,0 6,8 0,5 5,1 9,1 23,8 23,6 8,9 0,17 0,06 Trung bình 5,6±0,5 11,5±4,8 28,0±11,6 7,7±0,6 1,2±0,6 6,0±0,4 11,3±2,0 27,0±1,9 28,5±2,5 10,6±1,2 0,19±0,02 0,07±0,01 Tầng canh tác (0-3 cm) Cao nhất 5,4 12,4 30,3 6,4 1,9 2,8 11,5 20,9 34,0 8,9 0,19 0,06 Thấp nhất 4,6 3,9 9,5 4,4 0,9 2,3 7,8 17,6 21,1 7,4 0,13 0,03 Trung bình 4,9±0,3 9,3±2,8 22,7±6,9 5,2±0,8 1,3±0,4 2,5±0,2 9,8±1,2 19,5±1,0 26,6±3,9 8,1±0,5 0,16±0,02 0,04±0,01 Tầng canh tác (3-10 cm) Cao nhất 5,9 15,4 37,6 5,8 1,9 5,5 10,4 23,6 29,6 9,5 0,17 0,08 Thấp nhất 5,4 2,5 6,0 2,74 1,02 4,68 8,9 18,9 14,3 7,6 0,13 0,05 Trung bình 5,6±0,1 10,2±4,0 24,9±9,7 5,2±0,8 1,4±0,3 5,1±0,2 9,4±0,6 21,5±1,7 24,2±3,7 8,4±0,5 0,15±0,01 0,07±0,01 Các chỉ số theo sau (±) biểu thị độ lệch chuẩn của các giá trị trung bình 72 4.3 Khối lượng bùn đáy
File đính kèm:
luan_an_danh_gia_chat_luong_va_hieu_qua_cua_bun_day_tren_nan.pdf
Thong tin luan an- TViet_Huynh Van Quoc.pdf
Thong tin luan an-TAnh_Huynh Van Quoc.pdf
Tom tat tieng Anh_Huynh Van Quoc.pdf
Tom tat tieng Viet_Huynh Van Quoc.pdf