Luận án Đánh giá hiệu quả tài chính và kỹ thuật của các hình thức sản xuất và đề xuất giải pháp nuôi tôm sú (Penaeus monodon) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá hiệu quả tài chính và kỹ thuật của các hình thức sản xuất và đề xuất giải pháp nuôi tôm sú (Penaeus monodon) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá hiệu quả tài chính và kỹ thuật của các hình thức sản xuất và đề xuất giải pháp nuôi tôm sú (Penaeus monodon) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long

1 ±2,41a 8,68 ±1,74ab 9,13 ±2,12b 8,88 ±2,38ab FCR 1,54 ±0,12b 1,53 ±0,10b 1,40 ±0,16a 1,48 ±0,16a Kích cỡ tôm thu hoạch (g/con) 25,1 ±5,55a 25,4 ±3,39a 28,8 ±5,33ab 30,1 ±2,63b Tỷ lệ sống (%) 56,4 ±9,94a 63,6 ±12,7b 70,6 ±13,8bc 74,5 ±8,45c Năng suất (tấn/ha/vụ) 4,68 ±1,16a 5,67 ±1,05b 6,52 ±1,87c 6,00 ±1,07bc Ghi chú: Các giá trị thể hiện trong bảng là TB±STD; Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05); HND: Hộ nông dân, TT: Trang trại, Cty: Công ty, THT: Tổ hợp tác 58 Thời điểm thu hoạch tôm nuôi của các HTSX tập trung vào tháng 8, 9 và kết thúc vào tháng 10 dương lịch. Riêng đối với hình thức HND và THT bắt đầu thu hoạch vào tháng 7 dương lịch, do thả tôm nuôi sớm hơn (Hình 4.7). Kết quả thu hoạch trên trễ hơn khảo sát của Dương Vĩnh Hảo (2009), chủ yếu thu hoạch tập trung vào tháng 7 dương lịch hàng năm. Hình 4.7. Các tháng thu hoạch của các HTSX tôm sú thâm canh (Ghi chú: NH: Nông hộ; TT: Trang trại; THT: Tổ hợp tác; CT: Công ty) Thời gian nuôi ở các HTSX khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), tuy nhiên kích cỡ tôm thu hoạch ở hình thức Cty lớn hơn (30,1 g/con) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với hình thức HND và THT (p<0,05); sự khác biệt này là do mật độ thả nuôi ở hình thức Cty thấp (26,9 con/m2) hơn hình thức HND và THT (lần lượt là 33,1 và 36,3 con/m2) nên tôm nuôi có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn. Kích cỡ tôm thu hoạch có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của quá trình nuôi vì tôm nuôi kích cỡ càng lớn thì sản lượng và giá bán sẽ càng cao và dẫn đến lợi nhuận thu được sẽ cao hơn đáng kể so với kích cỡ tôm khi thu hoạch ở cỡ nhỏ. Tỷ lệ sống ở hình thức Cty (74,5%) cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với hình thức nuôi HND và THT nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với hình thức nuôi TT. Năng suất tôm nuôi ở hình thức nuôi TT (6,52 tấn/ha/vụ) cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các hình thức nuôi HND và THT (4,68 và 5,67 tấn/ha/vụ) nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với hình thức nuôi Cty (6,00 tấn/ha/vụ). Do trình độ kỹ thuật, khả năng quản lý có sự chênh lệch lớn giữa hình thức nuôi HND và THT so với các hình thức nuôi khác, đặc biệt là biện pháp xử lý khi có dịch bệnh xảy ra, dễ lây lan giữa các hình thức nuôi là HND và THT với nhau. 59 Các chỉ số về tỷ lệ sống tôm nuôi, hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR), thời gian nuôi và năng suất tôm nuôi có quan hệ tương quan nhau; thể hiện tương quan về trình độ quản lý và kỹ thuật nuôi của cơ sở sản xuất; và lợi nhuận thu được. Xét ở mối tương quan này thì lợi nhuận thu được trong 1 vụ sản xuất ở hình thức nuôi TT là cao hơn so với các hình thức nuôi khác. Điều này, được làm rõ hơn qua phân tích, đánh giá ở phần đánh giá hiệu quả tài chính ở các HTSX. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, lượng thức ăn sử dụng bình quân của 4 HTSX là 8,48 tấn/ha/vụ, cao hơn nghiên cứu của Dương Vĩnh Hảo (2009) là 6,02 tấn/ha/vụ và Đàm Thị Phong Ba (2007), Trương Tấn Thống (2007) là 6,69 tấn/ha/vụ. Sự khác biệt này là do mật độ thả nuôi cao hơn so với các năm trước đây. Hệ số FCR trong nghiên cứu này, tương tự với các nghiên cứu của Dương Vĩnh Hảo (2009) và Lê Xuân Sinh và ctv., (2010) lần lượt là: 1,53 ở Sóc Trăng và 1,49 ở ĐBSCL nhưng thấp hơn nghiên cứu của Võ Văn Bé (2007) ở Sóc Trăng là 1,59. Tỷ lệ sống có sự khác nhau giữa các HTSX nhưng tương ứng với nghiên cứu của Lê Xuân Sinh và ctv., (2010) là 67,4%. Năng suất tôm nuôi trong nghiên cứu này, cao hơn các nghiên cứu trước đây của Dương Vĩnh Hảo (2009); Nguyễn Quốc Nghi và ctv., (2010) và Lê Xuân Sinh và ctv., (2010) lần lượt là: 3,99; 3,3; và 4,1 tấn/ha/vụ. 4.2.3.5 Các chỉ tiêu được quan tâm trong nuôi tôm sú thâm canh Các chỉ tiêu khảo sát nhằm đánh giá mức độ quan tâm về an toàn sinh học (ATSH) và hiệu quả việc nuôi tôm thâm canh của các HTSX ở khu vực nghiên cứu được trình bày qua Bảng 4.10. Kết quả phân tích ở Bảng 4.10 cho thấy, hiện nay quản lý mô hình nuôi tôm theo hình thức bền vững ở các HTSX đang ngày càng được quan tâm. Khi đánh giá chung giữa các chỉ tiêu quản lý và kiểm soát cho thấy, hình thức nuôi TT được quan tâm cao hơn (chiếm 79,8%) so với các HTSX còn lại, trong đó hình thức nuôi HND chiếm tỷ lệ thấp nhất 40,55%. Sự khác biệt này là do quy mô nuôi và thiết kế hệ thống nuôi khác nhau. Ở hình thức nuôi HND, diện tích nuôi nhỏ nên không đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật so với các HTSX còn lại, hơn nữa việc nhận thức về tầm quan trọng việc kiểm soát sinh học chưa được nhận thức đúng. 60 Bảng 4.10: Các chỉ tiêu ATSH trong nuôi tôm sú thâm canh (đvt: %) Diễn giải HND (n=49) THT (n=20) TT (n=14) Cty (n=8) Bảo vệ cách ly khu sản xuất 32,0 80,0 100 100 Kiểm soát người ra vào 46,9 65,0 100 87,5 Kiểm soát mầm bệnh do dụng cụ nuôi 71,4 89,5 100 100 Kiểm tra thường xuyên nước cấp 75,5 25,0 100 100 Xét nghiệm (PCR) tôm giống 100 100 100 100 Thả giống đồng loạt trong vùng 36,7 85,0 100 87,5 Thả giống theo khuyến cáo 59,2 25,0 28,6 37,5 Kiểm tra chất lượng TA, chất cấm sử dụng 18,4 25,0 78,6 12,5 Kiểm tra thuốc và hóa chất 16,3 25,0 71,4 25,0 Kiểm tra nước định kỳ 79,6 90,0 92,9 100 Xét nghiệm bệnh tôm định kỳ 44,9 95,0 78,6 62,5 Kiểm tra chất lượng tôm trước khi bán 4,1 100 35,7 12,5 Xử lý nước trước khi thải ra ngoài 4,1 65,0 64,3 50,0 Tập huấn nâng cao kỹ thuật và phòng bệnh 30,6 70,0 92,9 62,5 Tập huấn an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) 14,3 20,0 92,9 12,5 Tập huấn bảo vệ môi trường nuôi thủy sản 12,2 30,0 57,1 25,0 Tập huấn về thị trường và quản trị DN 63,3 60,0 92,9 100 Tổ chức các hoạt động văn hóa 22,4 25,0 50,0 25,0 Bình quân tham gia các hoạt động 40,55 57,94 79,77 61,11 Ghi chú: HND: Hộ nông dân; TT: Trang trại; CTy: Công ty; THT: Tổ hợp tác Các yếu tố trong nuôi tôm bền vững được các HTSX quan tâm nhất hiện nay lần lượt là: (1) kiểm soát mầm bệnh do dụng cụ nuôi; (2) xét nghiệm tôm giống bằng phương pháp PCR; (3) kiểm tra các chỉ tiêu thủy lý thủy hóa môi trường nước ao nuôi định kỳ trong hệ thống nuôi và (4) tập huấn về thị trường và quản trị doanh nghiệp. Trong nhóm yếu tố được các HTSX quan tâm, thì việc kiểm tra thường xuyên các chỉ số môi trường nước ao nuôi ở hình thức nuôi THT thấp hơn (chiếm 25%) so với các HTSX còn lại. Điều này được hiểu, ở hình thức nuôi THT, sự thống nhất giữa các thành viên trong THT là không cao. Mặt khác, những quy định cụ thể có liên quan đến nuôi tôm bền vững như kiểm tra tôm nuôi định kỳ, bảo vệ khu cách ly sản xuất hay kiểm soát người ra vào của THT cũng chưa được cụ thể hóa, bắt buộc thực hiện mà chỉ mang yếu tố khuyến khích thực hiện. Vấn đề kiểm 61 tra chất lượng tôm nuôi khi bán và xử lý nước trước khi thải ra môi trường chưa được quan tâm ở các HTSX, đặc biệt ở hình thức nuôi HND. Nhằm đánh giá hiệu quả sản xuất của các hình thức nuôi tôm sú thâm canh ở địa bàn nghiên cứu thì việc đánh giá hiệu quả tài chính của các hình thức nuôi là rất cần thiết. 4.2.4 Hiệu quả tài chính của các hình thức nuôi Kết quả phân tích ở Bảng 4.11 cho thấy, trong tổng chi phí trên 1 đơn vị tính thì hình thức nuôi HND có tổng chi phí 347 tr.đ/ha/vụ, thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các hình thức còn lại, từ 384-392 tr.đ/ha/vụ; trong đó chi phí cố định chỉ chiếm từ 4,87-5,18% và phần còn lại là chi phí biến đổi. Hình thức nuôi HND có tổng chi phí thấp là do lượng thức ăn sử dụng (7,21 tấn/ha/vụ) thấp hơn so với các hình thức khác (từ 8,68-9,13 tấn/ha/vụ), bởi lẽ như thế là do chi phí thức ăn chiếm bình quân 68% trong cơ cấu chi phí biến đổi. Tuy nhiên, chi phí sản xuất cho 1 kg tôm sú ở hình thức nuôi HND (76,1 nghìn đồng/kg) lại cao nhất, đó là do năng suất ở hình thức này thấp hơn so với các hình thức nuôi khác như đã nêu ở phần trên. Gía thành sản xuất như đã phân tích ở phần trên, có sự tương quan về trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật nuôi và vốn của cơ sở sản xuất. Ở hình thức nuôi HND do đa số các HND thiếu vốn trong quá trình sản xuất nên chi phí sản xuất đã phải gia tăng do mua ghi nợ thức ăn, thuốc và hóa chất từ các đại lý phân phối, dịch vụ. Giá thành sản xuất của các HTSX trong nghiên cứu này cao hơn so với các nghiên cứu trước đây của Võ Văn Bé (2007) và Lê Xuân Sinh và ctv., (2010) lần lượt là 52,2 và 68,5 nghìn đồng/kg. Kết quả cho thấy, giá thành sản xuất tôm sú ngày càng tăng là do sự gia tăng các yếu tố đầu vào (thức ăn, thuốc, hóa chất, con giống,). Các yếu tố đầu vào của việc nuôi tôm sú thâm canh trong thời gian qua và hiện tại phần lớn bị lệ thuộc vào nguyên liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, vì lẽ đó mà giá thành các yếu tố đầu vào phần lớn bị lệ thuộc vào thị trường nhập khẩu. Giá bán tôm sú tại thời điểm nghiên cứu khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các hình thức nuôi, từ 114-122 nghìn đồng/kg. Trong khi đó, doanh thu thấp nhất ở hình thức nuôi HND là 553tr.đ/ha/vụ, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với hình thức nuôi TT và Cty là 767 và 731 tr.đ/ha/vụ, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thông kê (p>0,05) so với hình thức nuôi THT (657 tr.đ/ha/vụ). Lợi nhuận cao nhất ở hình thức nuôi TT là 375 tr.đ/ha/vụ khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các HTSX còn lại. Sự khác biệt giữa các hình thức nuôi là do có sự khác biệt về năng suất tôm nuôi và khả năng quản lý của từng hình thức nuôi. Kết quả khảo sát về yếu tố lợi nhuận trong nghiên cứu này, cao hơn so với các 62 nghiên cứu trước đây của Nguyễn Thanh Long và ctv., (2010) trong hình thức nuôi tôm sú thâm canh ở Sóc Trăng đạt 231 tr.đ/ha/vụ và ở Cà Mau là 219,4 (Nguyễn Văn Mạnh và Bùi Thị Nga, 2011). Sự sai khác trên là do sự khác biệt về năng suất và chênh lệch giá bán ở từng thời điểm nghiên cứu khác nhau. Về tỷ suất lợi nhuận ở các HTSX cũng cho thấy, hình thức nuôi HND có tỷ suất lợi nhuận thấp nhất (p<0,05) so với các HTSX khác và đồng thời có mức độ rủi ro cao hơn. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, hiệu quả tài chính trong nuôi tôm sú thâm canh ở hình thức nuôi HND kém hơn so với các hình thức nuôi khác. Điều này, được lý giải bởi sự hạn chế về trình độ kỹ thuật và thiếu vốn đầu tư. Tỷ lệ hộ thua lỗ trong nghiên cứu này nhìn chung thấp hơn so với nghiên cứu của Lê Xuân Sinh và ctv., (2010) là 11,4%, ở hình thức nuôi HND có tỷ lệ lỗ cao hơn 16,3%. Bảng 4.11: Hiệu quả tài chính trong nuôi tôm sú của các HTSX Chỉ tiêu ĐVT HND (n=49) THT (n=20) TT (n=14) Cty (n=8) CP cố định Tr.đ/ha/vụ 17,0±2,8a 19,3±2,3b 19,1±1,8b 19,9±2,2b CP biến đổi Tr.đ/ha.vụ 329±56a 367±55,3b 373±96,5b 364±53,7b 1.000đ/kg 72,2±8,5b 65,2±5,2a 59,7±13,1a 61,4±7,5a Tổng CP Tr.đ/ha/vụ 347±55,1a 386±51,5b 392±97,3b 384±55,1b 1.000đ/kg 76,1±9,4c 68,7±5,6b 63,2±15,0a 64,8±7,9ab Giá bán 1.000đ/kg 115±25,5a 116±16,5a 114±20,3a 122±5,8a Doanh thu Tr.đ/ha/vụ 553±218a 657±143ab 767±284b 731±141b Lợi nhuận Tr.đ/ha/vụ 207±178a 272±115a 375±106c 347±102b 1.000đ/kg 38,7±32,1a 47,7±16,7a 50,8±31,3a 56,7±10,6a Tỷ suất LN % 55,6±46,7a 70,1±26,6ab 89,2±48,0b 90,1±25,8b Tỷ lệ hộ lời % 83,7 100 92,9 100 Ghi chú: Các giá trị thể hiện trong bảng là TB±STD. Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05); HND: Hộ nông dân, TT: Trang trại, Cty: Công ty, THT: Tổ hợp tác Cơ cấu chi phí biến đổi trong các HTSX nuôi tôm sú thâm canh Kết quả phân tích ở Bảng 4.12 cho thấy, chi phí biến đổi chiếm tỷ trọng lớn từ: 92,86-95,12% trong tổng chi phí nuôi tôm sú ở các hình thức nuôi, do đó việc quản lý tốt phần chi phí này sẽ góp phần làm giảm giá thành sản xuất và gia tăng lợi nhuận cho mô hình. Trong chi phí biến đổi, chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất (từ 53,28-67,88%). Ở hình thức nuôi Cty chi phí sử dụng thuốc và hóa chất chiếm nhiều nhất trong các HTSX nhưng có cơ cấu chi phí thức ăn thấp nhất so với các 63 HTSX còn lại. Do chi phí thức ăn chiếm phần lớn trong chi phí biến đổi do vậy việc quản lý thức ăn tốt sẽ góp phần làm giảm chi phí trong quá trình nuôi. Bảng 4.12: Cơ cấu chi phí giá thành sản xuất của các HTSX (Đvt: %) Cơ cấu chi phí HND (n=49) THT (n=20) TT (n=14) Cty (n=8) Chi phí cố định 4.88 4.88 5.05 7.14 Chi phí biến đổi 95.12 95.12 94.95 92.86 - Vôi + Cải tạo 4.45 3.35 4.08 6.10 - Con giống 5.19 4.30 5.21 2.90 - Thức ăn 62.44 67.88 62.41 53.28 - Thuốc + hóa chất 9.11 7.47 9.24 11.84 - Công lao động 4.33 3.54 4.21 5.26 - Nhiên liệu 4.43 4.16 4.41 5.96 - Khác 5.18 4.42 5.39 7.52 Tổng 100 100 100 100 Ghi chú: HND: Hộ nông dân; TT: Trang trại; CTy: Công ty; THT: Tổ hợp tác 4.3 Kết quả thực nghiệm các mô hình nuôi tôm sú thâm canh ở hình thức nuôi hộ nông dân (TN-HND), tổ hợp tác (TN-THT), trang trại (TN-TT) và công ty (TN-Cty) 4.3.1 Hệ thống nuôi thực nghiệm của các hình thức sản xuất (TN-HTSX) Kết quả nghiên cứu thực nghiệm các TN-HTSX cho thấy, diện tích mặt nước ao nuôi ở các mô hình thực nghiệm biến động từ: 0,32 - 0,62 ha/ao (p<0,05). Trong đó, ở hình thức nuôi TN-TT có diện tích 0,32 ha/ao nhỏ hơn so với các TN-HTSX còn lại và nhỏ hơn so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv., (2008) và Barg (1992) lần lượt là: 0,45 ha/ao và từ 0,48 - 0,56 ha/ao. So với kết quả khảo sát ở Bến Tre, Kiên Giang và Sóc Trăng trong nghiên cứu này như trình bày ở trên thì diện tích ao nuôi trong thực nghiệm ở hình thức nuôi TN-HND, TN-THT và TN-Cty tương tự với kết quả khảo sát. Diện tích ao nuôi nhỏ sẽ thuận lợi cho việc chăm sóc và quản lý so với ao có diện tích lớn, tuy nhiên các chỉ tiêu môi trường biến động lớn theo chu kỳ ngày đêm và theo mùa, gây ảnh hưởng bất lợi đến tôm nuôi. Độ sâu ao nuôi có vai trò quan trọng trong việc ổn định nhiệt độ nước theo ngày đêm, đồng thời để ngăn nước tràn bờ khi lũ về. Trong nghiên cứu này, độ sâu của các ao nuôi là: 1,80m và mực nước ao nuôi 1,3m, nằm trong khoảng nghiên cứu 64 của Nguyễn Thanh Long và ctv., (2010) là từ: 1 - 1,4m. Trong các mô hình thực nghiệm này, độ sâu mức nước ao nuôi tương đồng với độ sâu của kết quả khảo sát. Như vậy, với độ sâu và mực nước các ao thực nghiệm ở các TN-HTSX trong nghiên cứu này là nằm trong giới hạn thuận lợi cho tôm sú nuôi tăng trưởng và phát triển. Bảng 4.13: Hệ thống công trình ao nuôi của các TN-HTSX Diễn giải TN-TT (n=3) TN-HND (n=3) TN-THT (n=3) TN-Cty (n=3) Diện tích ao nuôi (ha/ao) 0,32 0,02a 0,55 0,14ab 0,62 0,06b 0,53 0,11ab Độ sâu ao nuôi (m) 1,80 0,0a 1,80 0,0a 1,80 0,0a 1,80 0,0a Mực nước ao (m) 1,30 0,0a 1,30 0,0a 1,30 0,0a 1,30 0,0a Ghi chú: Các giá trị thể hiện trong bảng là TB±STD; Các giá trị trên cùng 1 hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05); TN-TT: Thực nghiệm-Trang trại, TN-HND: Thực nghiệm-Hộ nông dân, TN-THT: Thực nghiệm-Tổ hợp tác, TN-Cty: Thực nghiệm-Cty 4.3.2 Biến động môi trường nước trong các ao nuôi thực nghiệm (TN-HTSX) Biến động chất lượng nước ở các TN-HTSX cho thấy độ trong mức nước ao nuôi giữa TN-TT và các TN-HTSX khác ít biến động trong quá trình nuôi từ: 41,8 - 45,8 cm và trong khoảng phù hợp cho sự sinh trưởng của tôm nuôi. Đây là kết quả của việc quản lý tốt thức ăn cho tôm nuôi, cũng như quản lý tốt sự biến động môi trường nước trong suốt quá trình nuôi. Độ trong của nước trong ao nuôi ở trong khoảng thích hợp không chỉ thể hiện giá trị dinh dưỡng trong ao mà còn liên quan đến hoạt động của tôm nuôi. Khi độ trong nước ao nuôi quá lớn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động bắt mồi của tôm nuôi vì tôm sú có tập tính sống đáy và bắt mồi trong môi trường tối. Theo Trương Quốc Phú và Vũ Ngọc Út (2006), độ trong thích hợp cho nuôi tôm là từ: 30 - 45cm, vì ở giới hạn này ao nuôi có mức dinh dưỡng phù hợp, hạn chế sự phát triển quá mức của tảo dẫn đến hàm lượng DO và giá trị pH ít bị biến động theo ngày đêm, đồng thời ít ảnh hưởng đến hoạt động và phát triển của tôm trong ao nuôi. Bảng 4.14: Biến động môi trường nước trong các mô hình theo các TN-HTSX Hạng mục TN-TT (n=3) TN-HND (n=3) TN-THT (n=3) TN-Cty (n=3) Độ trong (cm) Sáng 42,3 0,46a 41,8 4,94a 45,8 1,84a 45,2 1,60a Độ mặn (‰) Sáng 13,8 0,98a 18,1 0,12c 16,4 0,20b 18,2 0,36c Nhiệt độ (oC) Sáng 28,7 0,01a 28,7 0,01a 28,6 0,01a 29,1 0,64a Chiều 29,8 0,12a 29,8 0,12a 29,8 0,05a 30,7 1,32a Giá trị pH Sáng 7,41 0,05a 7,89 0,01b 7,99 0,03c 7,93 0,08bc 65 Hạng mục TN-TT (n=3) TN-HND (n=3) TN-THT (n=3) TN-Cty (n=3) Chiều 7,78 0,10a 8,04 0,06b 8,26 0,09c 8,15 0,07bc Độ kiềm (mg/L) Sáng 60 9,1a 86,4 4,88c 65,3 4,16b 75,0 3,33bc NH3 (mg/L) Sáng 0,35 0,01ab 0,33 0,01a 0,37 0,02b 0,41 0,02c Ghi chú: Các giá trị thể hiện trong bảng là TB±STD; Các giá trị trên cùng 1 hàng có chự cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05); TN-TT: Thực nghiệm-Trang trại, TN-HND: Thực nghiệm-Hộ nông dân, TN-THT: Thực nghiệm-Tổ hợp tác, TN-CTy: Thực nghiệm-Công ty Độ mặn nước ao nuôi giữa các mô hình biến động trong khoảng từ 13,8- 18,2‰ và trong khoảng phù hợp cho sự sinh trưởng của tôm nuôi. Độ mặn nước trong mô hình nuôi TN-TT là 13,8‰, thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các mô hình còn lại là từ: 16,4 - 18,2‰ (p<0,05). Mô hình nuôi TN-TT có độ mặn thấp hơn là do lấy nước đầu vụ có độ mặn còn thấp và ít thay nước trong quá trình nuôi, nên độ mặn trong ao giảm dần vào cuối vụ. Mặt khác, do ảnh hưởng của nước mưa được cung cấp bổ sung trong quá trình nuôi. Theo Barg (1992), tôm sú có khả năng thích nghi với độ mặn biến động lớn trong quá trình nuôi từ: 0 - 35‰. Tuy nhiên, tôm cũng cần đảm bảo có độ mặn thích hợp nhất là từ: 10 - 20‰ để có tốc độ tăng trưởng và phát triển tốt nhất. Khi độ mặn trong ao nuôi thấp làm tôm nuôi dễ bị bệnh mềm vỏ, tốc độ tăng trưởng giảm, kéo dài thời gian nuôi và làm giảm năng suất thu hoạch. Nhiệt độ nước ở các mô hình biến động trong khoảng từ: 28,6 - 29,1oC vào buổi sáng và từ: 29,8 - 30,7oC ở buổi chiều và nằm trong khoảng nhiệt độ thích hợp cho tôm sú sinh trưởng tốt, theo công bố của Barg (1992) là từ: 22 - 31oC. Nhiệt độ ít biến động giữa các thời điểm trong ngày là do sự hoạt động của hệ thống quạt nước trong ao nuôi. Hệ thống quạt nước ngoài tác dụng cung cấp oxy hòa tan còn có vai trò quan trọng là hạn chế sự phân tầng nhiệt độ và làm ổn định nhiệt độ nước trong ao. Nhiệt độ nước là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến NTTS (Lê Văn Cát và ctv., 2006), trực tiếp ảnh hưởng đến nhiều chỉ tiêu môi trường khác trong nước ao nuôi. Nhiệt độ nước trong ao nuôi còn có mối tương quan đến một số chỉ tiêu môi trường khác như hàm lượng DO, NH3 và H2S. Trong nghiên cứu này, nhiệt độ ít biến động hơn so với kết quả nghiên cứu ở tỉnh Sóc Trăng của Nguyễn Thanh Long và Võ Thành Toàn (2008) vào buổi sáng nhiệt độ từ: 26,9 - 31,5oC và chiều từ: 27,9 - 34,2oC. Giá trị pH trong các ao vào buổi sáng biến động từ: 7,41 - 7,99 thấp hơn so với buổi chiều từ: 7,78 - 8,26 và trong khoảng thích hợp, theo Barg (1992) là từ: 7,5 - 8,9 và Boyd (2001) là từ: 7 - 9 sẽ cho tôm tăng trưởng tốt. Giá trị pH trong ngày 66 biến động cao hay thấp phụ thuộc vào mật độ tảo, độ mặn và độ kiềm trong ao nuôi (Nguyễn Thanh Long và Võ Thành Toàn, 2008). Biến động giá trị pH thích hợp trong ngày không nên vượt quá 0,5 đơn vị, bởi lẻ ở khoảng giới hạn này ao nuôi có giá trị dinh dưỡng và chất lượng nước cho tôm nuôi phù hợp nhất, các giá trị môi trường khác ít bị biến động theo ngày và đêm. Độ kiềm của nước trong các ao nuôi thực nghiệm biến động từ: 60 - 86,4mg/L. Trong đó độ kiềm ở mô hình nuôi TN-TT thấp nhất (60mg/L) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các TN-HTSX khác (p<0,05). Nguyên nhân do độ mặn ở các ao nuôi TN-TT là 13,8‰, thấp hơn đáng kể so với các ao nuôi trong TN- HTSX khác và nghiên cứu được thực hiện trong mùa mưa, giải pháp nuôi hạn chế thay nước nên độ kiềm thấp. Kết quả nghiên c
File đính kèm:
luan_an_danh_gia_hieu_qua_tai_chinh_va_ky_thuat_cua_cac_hinh.pdf
Thongtinluanan-en.docx
Thongtinluanan-vi.docx
Tomtatluanan-en.pdf
Tomtatluanan-vi.pdf