Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 1

Trang 1

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 2

Trang 2

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 3

Trang 3

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 4

Trang 4

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 5

Trang 5

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 6

Trang 6

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 7

Trang 7

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 8

Trang 8

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 9

Trang 9

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 171 trang nguyenduy 13/08/2025 80
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế

Luận án Đánh giá khả năng thích ứng của giống cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế
theo hình thức chăn thả. Buổi sáng và buổi chiều sau khi theo dõi các chỉ tiêu sinh lý, cừu được chăn thả tự do ở bãi chăn. Buổi tối cừu được lùa về chuồng, không bổ sung thức ăn nhưng cung cấp nước uống đầy đủ. 
2.3.2.2. Xác định các chỉ tiêu sinh lý
Thí nghiệm được theo dõi trên 24 con cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế với các nhóm tuổi khác nhau: 1, 3, 6, 9, 12, 15 tháng tuổi (mỗi nhóm 4 con) và 88 con cừu Phan Rang nuôi ở tỉnh Ninh Thuận tại các tháng tuổi trên với số con tương ứng lần lượt là 3, 8, 17, 24, 20 và 16 con.
Các chỉ tiêu sinh lý bao gồm: tần số hô hấp, nhịp tim, nhiệt độ da và nhiệt độ trực tràng (thân nhiệt) đã được theo dõi theo từng cá thể cừu. Thời gian theo dõi được chia thành 3 lần trong ngày vào lúc 7.00, 13.00 và 19.00h; theo dõi liên tục các ngày trong tháng ở hai mùa: mùa nóng (từ tháng 6 đến tháng 8/2009) và mùa lạnh (từ tháng 12/2009 đến tháng 2/2010). 
Cừu trong từng nhóm tuổi đều được xác định các chỉ tiêu sinh lý hàng ngày, mỗi ngày đo 2 con, cứ thế luân phiên nhau (mỗi con được theo dõi 2 ngày/lần), đảm bảo mỗi ngày đo đều có cừu từng nhóm tuổi. 
Tại các mốc thời gian tuần tự đo tần số hô hấp, nhịp tim, nhiệt độ da và nhiệt độ trực tràng. Xác định tần số hô hấp bằng cách đếm nhu động lên xuống của hõm hông bên trái. Nhịp tim được xác định bằng việc sử dụng ống nghe đặt ở dưới vùng ngực bên trái của cừu. Thân nhiệt được đo trực tiếp ở trực tràng và nhiệt độ da được đo ở sát vùng da trên lưng cừu bằng nhiệt kế trong 5 phút. 
2.3.2.3. Xác định các chỉ tiêu sinh lý máu
Theo dõi cá thể trên 24 con cừu Phan Rang nuôi ở Thừa Thiên Huế với các nhóm tuổi khác nhau: 1, 3, 6, 9, 12 và 15 tháng tuổi (mỗi nhóm 4 con) và 61 con cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận tại các tháng tuổi trên với số con tương ứng là 4, 4, 6, 6, 5 và 36 con.
Các chỉ tiêu sinh lý máu bao gồm hồng cầu, hemoglobin, hematocrit và bạch cầu. Máu được lấy cố định vào ngày 27 của các tháng nghiên cứu (từ tháng 4 - 8/2009 và từ tháng 12/2009 đến 02/2010), lấy tất cả các cá thể cừu. 
Lấy máu ở tĩnh mạch cổ của cừu vào lúc 7.00h, trước khi con vật được cho ăn và vận động. Mỗi lần lấy 1ml máu và cho vào ống nghiệm đã có sẵn chất chống đông Natri citrate, sau đó lắc đều và bỏ vào hộp xốp rồi vận chuyển đến khoa huyết học truyền máu, trường Đại học Y Dược - Đại học Huế để phân tích. 
Số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu, hàm lượng hemoglobin và chỉ số hematocrit được xác định bằng máy đếm tế bào tự động SYSMEX KX 21 (Nhật Bản).
2.3.2.4. Xác định nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm 
Tại 3 mốc thời gian trong ngày (7.00; 13.00 và 19.00h) ở những ngày đo các chỉ tiêu sinh lý của cừu số liệu về nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi cũng được theo dõi, từ đó tính THI để xác định quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với các chỉ tiêu sinh lý của cừu. Phương pháp xác định nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi như đã trình bày cụ thể ở nội dung 1.
2.3.2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được quản lý bằng phần mềm Microsoft Excel (2003) và xử lý thống kê bằng phần mềm Minitab version 15.10 (2010). Đánh giá ảnh hưởng riêng rẻ của các yếu tố như vùng sinh thái (Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận), các yếu tố môi trường (nhiệt độ, ẩm độ và THI) và yếu tố mùa vụ (mùa nóng và mùa lạnh) đến các chỉ tiêu sinh lý của cừu được thể hiện thông qua phương pháp phân tích phương sai (ANOVA). So sánh sự sai khác của các giá trị trung bình bằng phương pháp Tukey với độ tin cậy 95%. Mô hình phân tích ANOVA như sau: 
Yij = µ + Ai + eij
Trong đó; Yij: là biến phụ thuộc (các chỉ tiêu sinh lý của cừu); µ: trung bình của quần thể; Ai: biến độc lập (vùng sinh thái, hoặc các yếu tố môi trường, hoặc mùa); eij: ảnh hưởng của yếu tố ngẫu nhiên.
Đánh giá mối quan hệ giữa nhiệt độ, ẩm độ và THI với một số chỉ tiêu sinh lý được thực hiện thông qua phương pháp hồi quy phi tuyến tính với phương trình bậc 2: 
Y = ax2 + bx + c
Trong đó; Y: là biến phụ thuộc (chỉ tiêu sinh lý); x: là biến độc lập (nhiệt độ, ẩm độ hoặc THI); a, b, c là các hệ số hồi quy.
2.3.3. Nội dung 3 - Xác định quan hệ giữa nhiệt độ và THI với lượng thức ăn thu nhận 
2.3.3.1. Nuôi dưỡng
Thí nghiệm theo dõi lượng thức ăn thu nhận tiến hành trên 12 con cừu Phan Rang nuôi tại Thừa Thiên Huế với các độ tuổi 6, 9 và 12 tháng, mỗi nhóm tuổi 4 con, qua 2 giai đoạn: 4 - 8/2009 và 11/2009 - 2/2010. 
Toàn bộ cừu được theo dõi cá thể và được nuôi trong từng ô chuồng riêng biệt. Trong thời gian theo dõi lượng thức ăn thu nhận cừu được nuôi nhốt hoàn toàn, chỉ được thả tự do vào một ngày cuối tuần (ngày không theo dõi số liệu) để cừu vận động và tổng vệ sinh chuồng trại. Cừu được cung cấp thức ăn và nước uống đầy đủ. Thức ăn của cừu là cỏ tự nhiên, được thu cắt hàng ngày và để qua đêm cho ráo nước trước khi cho ăn. 
2.3.3.2. Xác định lượng thức ăn thu nhận của cừu
Để xác định lượng thức ăn thu nhận hàng ngày của cừu, thức ăn được chia nhỏ thành 5 bữa vào lúc: 7.00, 9.00, 13.00, 16.00 và 21.00h. Cừu được cân để biết khối lượng, từ đó ước tính lượng thức ăn cho ăn (khoảng 3% DM so với LW) đảm bảo lượng thức ăn luôn dư thừa. Xác định lượng thức ăn còn thừa vào trước bữa ăn đầu tiên của sáng hôm sau.
2.3.3.3. Xác định nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt ẩm 
Tại các ngày trong các tháng theo dõi lượng thức ăn thu nhận của cừu, số liệu về nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi cũng được theo dõi, từ đó tính THI. Giá trị nhiệt độ và THI được tính trung bình cho từng ngày để xác định quan hệ giữa nhiệt độ và THI với lượng thức ăn thu nhận của cừu. Phương pháp xác định nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi như đã trình bày ở nội dung 1.
2.3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu	
Số liệu thu thập được quản lý bằng phần mềm Microsoft Excel (2003) và xử lý thống kê bằng phần mềm Minitab version 15.10 (2010). Đánh giá ảnh hưởng của nhiệt độ cũng như THI đến lượng thức ăn thu nhận của cừu được thể hiện thông qua phương pháp phân tích phương sai (ANOVA). So sánh sự sai khác của các giá trị trung bình bằng phương pháp Tukey với độ tin cậy 95%. Mô hình phân tích ANOVA như sau: 
Yij = µ + Ai + eij
Trong đó; Yij: là biến phụ thuộc (lượng thức ăn thu nhận); µ: trung bình của quần thể; Ai: biến độc lập (nhiệt độ hoặc THI); eij: ảnh hưởng của yếu tố ngẫu nhiên.
Đánh giá mối quan hệ giữa lượng thức ăn thu nhận của cừu với nhiệt độ và THI được thực hiện thông qua phương pháp hồi quy phi tuyến tính với phương trình bậc 2: 
Y = ax2 + bx + c
Trong đó; Y: là biến phụ thuộc (lượng thức ăn thu nhận); x: là biến độc lập (nhiệt độ hoặc THI); a, b, c là các hệ số hồi quy.
2.3.4. Nội dung 4 - Đánh giá khả năng sinh trưởng và sinh sản
2.3.4.1. Nuôi dưỡng
Trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 8/2009 và tháng 11/2009 đến tháng 2/2010 (thời gian theo dõi xác định các chỉ tiêu sinh lý và lượng thức ăn thu nhận), cừu được nuôi nhốt, chỉ được thả tự do vào một ngày cuối tuần để cừu vận động, tiếp xúc với nhau cũng như tổng vệ sinh chuồng trại. 
Các tháng còn lại khi kết thúc theo dõi thí nghiệm xác định các chỉ số sinh lý cừu được nuôi theo phương thức bán chăn thả, mỗi ngày cừu được chăn thả, vận động tự do vào buổi sáng và buổi chiều, mỗi buổi 3 giờ. Trong thời gian nhốt ở chuồng, cừu vẫn được bổ sung thêm các loại thức ăn như đã kể trên. Chuồng trại và thức ăn như đã trình bày chi tiết ở nội dung 2.
Ở Ninh Thuận, cừu được đánh số để theo dõi cá thể và được nuôi chung cùng đàn với nhau trong một chuồng lớn, nuôi theo hình thức chăn thả. Buổi sáng và buổi chiều sau khi theo dõi các chỉ tiêu sinh lý, cừu được chăn thả tự do ở bãi chăn. Buổi tối cừu được lùa về chuồng, không bổ sung thức ăn nhưng cung cấp nước uống đầy đủ. 
2.3.4.2. Đánh giá khả năng sinh trưởng và sản xuất thịt
Đánh giá khả năng sinh trưởng 
Theo dõi trên 20 cá thể cừu Phan Rang nhập từ Ninh Thuận về nuôi ở Thừa Thiên Huế với các nhóm tuổi khác nhau: 3, 6, 9, 12 và 15 tháng (mỗi nhóm 4 con) và 05 cừu con được cừu mẹ sinh ra ở Thừa Thiên Huế. Đồng thời khảo sát trên đàn cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận gồm 207 con tại các độ tuổi 3, 6, 9, 12 và 15 tháng với số con tương ứng lần lượt là 57, 48, 43, 38, và 21 con.
Khả năng sinh trưởng của cừu được xác định thông qua các chỉ tiêu về khối lượng, tăng trọng tại các thời điểm: sơ sinh, 3, 6, 9, 12 và 15 tháng tuổi, từ đó tính toán tốc độ sinh trưởng của cừu. Xác định kích thước của cừu qua các chiều đo bao gồm cao vây, vòng ngực, dài thân chéo tại các thời điểm: 3, 6, 9 và 12 tháng tuổi. 
Khối lượng của cừu được xác định bằng cách cân định kỳ 3 ngày liên tục vào buổi sáng trước khi cho ăn ở thời điểm cuối tháng bằng cân đồng hồ 100kg và tính giá trị trung bình. 
Tại mỗi thời điểm cân cừu cũng tiến hành đo các chiều đo. Chiều cao vây được tính từ mặt đất lên đến vai, đo bằng thước gậy. Vòng ngực đo ngay phía sau nách chân trước, bằng thước dây. Dài thân chéo được tính từ mỏm trước xương bả vai cánh tay đến u xương ngồi bằng thước dây. 
Từ đó, tính toán tốc độ sinh trưởng tuyệt đối (absolute - A) và tốc độ sinh trưởng tương đối (relative - R), theo các công thức sau:
	 V2 - V1
	A (g/con/ngày) = 
	 T2 - T1
	 V2 - V1
	R (%) = 	x 100
	1/2 (V2 + V1)
Trong đó: V1: là khối lượng bình quân cơ thể cừu tại thời điểm T1; 
 V2: là khối lượng bình quân cơ thể cừu tại thời điểm T2.
Đánh giá khả năng sản xuất thịt
Tiến hành mổ khảo sát 6 cừu (3 cừu đực và 3 cừu cái) ở 9 tháng tuổi với các chỉ tiêu và phương pháp theo quy chuẩn QCVN 01-71:2011 /BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011) như sau: 
Khối lượng giết mổ là khối lượng được xác định tại thời điểm sau khi cho cừu nhịn đói 24 giờ.
Khối lượng thịt xẻ là khối lượng cừu sau khi lột da, cắt bỏ đầu (tại xương át lát), lấy bỏ nội tạng (cơ quan tiêu hoá, hô hấp, sinh dục, tiết niệu và tim) và cắt 4 chân (từ đầu gối trở xuống), bỏ đuôi, huyết. Từ đó tính tỷ lệ thịt xẻ (%) là tỷ lệ giữa khối lượng thịt xẻ và khối lượng giết mổ. 
Khối lượng thịt tinh là khối lượng thịt xẻ sau khi lọc bỏ xương và mỡ bao ngoài thịt. Từ đó tính tỷ lệ thịt tinh (%) là tỷ lệ giữa khối lượng thịt tinh và khối lượng giết mổ. 
Khối lượng xương là lượng xương được tách ra từ thịt xẻ (không tính xương chân, đầu, đuôi). Từ đó tính tỷ lệ xương (%) là tỷ lệ giữa khối lượng xương và khối lượng thịt xẻ.
Độ dày mỡ lưng được xác định ở giữa xương sườn 12 và 13 bằng thước kẹp Panme. 
Diện tích mắt thịt được xác định ở cơ thăn giữa xương sườn 12 và 13 dựa trên tỷ lệ khối lượng và diện tích của giấy can để tính diện tích mắt thịt.
2.3.4.3. Đánh giá khả năng sinh sản của cừu
 	Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh sản trên 5 cừu cái (trong đó 4 con cừu cái tơ nhập từ Ninh Thuận, 1 con cừu mẹ đã đẻ lứa đầu ở Ninh Thuận) và 6 con cừu đực sinh trưởng để phối giống. Thiết lập hệ thống sổ ghi chép độ tuổi, tình trạng sinh trưởng của từng cá thể cừu từ khi bắt đầu nhập về. Trong quá trình nuôi dưỡng, hằng ngày theo dõi các biểu hiện về đặc điểm hoạt động sinh dục của từng cá thể với các chỉ tiêu và phương pháp theo quy chuẩn QCVN 01-71:2011/BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), các chỉ tiêu như sau: 
Tuổi động dục (ngày) và khối lượng động dục lần đầu (kg);
Tuổi phối giống (ngày) và khối lượng phối giống lần đầu (kg);
Tuổi đẻ (ngày) và khối lượng khi đẻ lứa đầu (kg);
Thời gian mang thai (ngày);
Số con đẻ ra/lứa (con);
Khối lượng cừu lúc sơ sinh (kg).
Quan sát các đặc điểm động dục của cừu cái: khi động dục, cừu cái tự nhiên biếng ăn hoặc bỏ ăn, tâm trạng bồn chồn, nếu nuôi nhốt trong chuồng thì mắt nhìn ra ngoài như mong ngóng cừu đực tới, âm hộ "sưng" to hơn bình thường, có lúc kêu to liên tục từng hồi và chồm lên phá chuồng.
Khi phát hiện cừu cái động dục (dựa vào những dấu hiệu nêu trên), tiến hành cho cừu cái tiếp xúc với cừu đực để thực hiện phối giống trực tiếp. 
2.3.4.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được quản lý trên phần mềm Microsoft Excel (2003) và xử lý thống kê trên phần mềm Minitab version 15.10 (2010), với phép phân tích cơ bản là thống kê mô tả. Kết quả nghiên cứu được thể hiện bởi giá trị trung bình (M) và sai số của giá trị trung bình (SEM).
2.3.5. Nội dung 5 - Đánh giá giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn thô xanh
2.3.5.1. Vật liệu thí nghiệm
Thí nghiệm đã được tiến hành trên 04 con cừu đực Phan Rang, có độ tuổi 6 - 7 tháng, khối lượng trung bình 18,5 ± 1,5kg. 
Thức ăn gồm 4 loại: cỏ tự nhiên, cỏ voi, lá mít và lá duối.
2.3.5.2. Thiết kế thí nghiệm
Thí nghiệm được thiết kế theo ô vuông la tinh với 4 loại thức ăn kể trên, qua 4 giai đoạn. Thời gian cho mỗi giai đoạn là 20 ngày (15 ngày cho cừu ăn thích nghi với thức ăn thí nghiệm và 5 ngày cuối tiến hành thu mẫu). Sơ đồ bố trí thí nghiệm thể hiện như sau.
Bảng 2.1. Sơ đồ thiết kế thí nghiệm
Giai đoạn 
Cừu số
1
2
3
4
I
Cỏ voi
Cỏ tự nhiên
Lá dưới
Lá mít
II
Lá mít
Cỏ voi
Cỏ tự nhiên
Lá duối
III
Lá dưới
Lá mít
Cỏ voi
Cỏ tự nhiên
IV
Cỏ tự nhiên
Lá dưới
Lá mít
Cỏ voi
2.3.5.3. Quản lý nuôi dưỡng
Cừu được nuôi cá thể trong 4 cũi tiêu hoá riêng biệt, có máng ăn, máng uống và được cung cấp nước uống đầy đủ. Các loại thức ăn được lấy về lúc chiều tối của ngày hôm trước và để qua đêm cho ráo nước trước khi cho ăn. Cỏ tự nhiên được thu cắt hàng ngày, cỏ voi được trồng ở khuôn viên Trung tâm nghiên cứu vật nuôi Thuỷ An, lá mít và lá duối được thu hái tự nhiên. Trước lúc cho cừu ăn, cỏ voi được cắt ngắn khoảng 10cm, các loại lá được tách cành. 
Cừu ở tất cả các nghiệm thức đều được cho ăn thức ăn tự do hàng ngày ước tính bằng 3% (theo DM) so với khối lượng cơ thể và cho ăn 5 bữa/ngày vào lúc 7.00, 9.00, 13.00, 16.00 và 21.00h.
2.3.5.4. Quy trình xử lý và phân tích mẫu
Lượng thức ăn thu nhận được theo dõi hàng ngày bằng cách cân lượng thức ăn cho ăn và lượng dư thừa của từng loại thức ăn. Mẫu thức ăn (cả loại cho ăn và dư thừa) được lấy hàng ngày trong 5 ngày thu mẫu ở mỗi giai đoạn, sấy ở nhiệt độ 600C để cất giữ, phân tích thành phần hóa học sau này. 
Phân được thu sau khi gia súc thải ra, cuối mỗi ngày được trộn đều và xác định khối lượng rồi lấy mẫu phụ bằng 30% tổng lượng phân thải ra trong ngày, hàm lượng chất khô được xác định hàng ngày và phần còn lại được bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ - 200C. Cuối mỗi giai đoạn thí nghiệm, phân của từng con được trộn đều theo từng gia súc và sấy khô ở nhiệt độ 600C rồi nghiền qua lỗ sàng 1mm ở máy nghiền (Retsche, Đức) để phân tích thành phần hóa học. 
Nước tiểu được thu sau khi gia súc thải ra bằng bình hứng nước tiểu đã có sẵn dung dịch H2SO4 20% sao cho pH luôn luôn thấp dưới 2 để tránh mất mát nitơ trong quá trình thu mẫu. Cuối mỗi ngày, nước tiểu được trộn đều và đong bằng ống đong để xác định lượng nước tiểu tổng số. Sau đó lấy mẫu bằng 30% lượng nước tiểu và bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ -200C. Cuối giai đoạn (5 ngày) nước tiểu của từng con được trộn đều và lấy mẫu phụ để xác định hàm lượng nitơ.
2.3.5.5. Phân tích hoá học 
Mẫu thức ăn, phân được phân tích vật chất khô (DM), vật chất hữu cơ (OM), nitơ tổng số (N) và khoáng tổng số (Ash) theo AOAC (1990). Hàm lượng protein thô được xác định thông qua hàm lượng N tổng số nhân với hệ số 6,25 (N x 6,25). Xơ không hòa tan trong môi trường trung tính (NDF) được xác định theo Van Soest và CS. (1991). Năng lượng thô tổng số (GE) được xác định bằng cách đo trực tiếp trên Bomb Calorimeter (PAR 600, Mỹ). 
2.3.5.6. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Minitab version 15.10 (2010) theo phương pháp phân tích ANOVA. So sánh sự sai khác giữa các nghiệm thức bằng phương pháp Turkey với khoảng tin cậy 95%. Mô hình toán học như sau: 
Yijk = µ + Ri + Cj + Tk + eijk
Trong đó; Y: tỷ lệ tiêu hóa của một chất dinh dưỡng của một thức ăn; µ: trung bình quần thể; Ri: ảnh hưởng của giai đoạn thứ i, i=1-4; Cj: ảnh hưởng của gia súc thứ j, i=1-4; Tk: ảnh hưởng của yếu tố thí nghiệm (loại thức ăn) thứ k, k=1-4; eijk: ảnh hưởng của yếu tố ngẫu nhiên.
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. DIỄN BIẾN NHIỆT ĐỘ, ẨM ĐỘ VÀ THI Ở ĐIỂM NGHIÊN CỨU
3.1.1. Diễn biến nhiệt độ, ẩm độ, THI hàng tháng ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận
Biến thiên nhiệt độ, ẩm độ, THI bình quân qua các tháng trong năm ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011 được thể hiện ở đồ thị 3.1.
Đồ thị 3.1. Biến thiên nhiệt độ, ẩm độ, THI bình quân tháng ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận (2007 - 2011)
Số liệu đồ thị 3.1 cho thấy, nhiệt độ, ẩm độ, THI môi trường bình quân tháng ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận có sự khác biệt về giá trị tuyệt đối và quy luật biến thiên ở từng vùng.
 Ở cả hai tỉnh, nhiệt độ biến thiên theo quy luật chung là: tăng dần từ tháng 1 (19,10C ở Thừa Thiên Huế và 24,80C ở Ninh Thuận) đến tháng 6 (290C), sau đó giảm dần đến tháng 12 (20,70C ở Thừa Thiên Huế và 25,30C ở Ninh Thuận). Nhiệt độ cao nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 (28,1 - 29,00C ở Thừa Thiên Huế và 28,4 - 29,00C ở Ninh Thuận); nhiệt độ thấp nhất là từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (19,1 - 20,90C ở Thừa Thiên Huế và 24,8 - 25,50C ở Ninh Thuận). 
Tuy nhiên, nhiệt độ trung bình hàng năm ở Thừa Thiên Huế thấp hơn 2,80C so với Ninh Thuận (24,70C so với 27,50C), song chênh lệch nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất và lạnh nhất lớn hơn (8,90C so với 4,20C).
Ẩm độ hàng năm ở Thừa Thiên Huế cao hơn 9,3% so với Ninh Thuận (87,3% so với 78%) và có sự biến động lớn giữa các tháng trong năm. Ở Thừa Thiên Huế, ẩm độ biến thiên theo quy luật: giảm dần từ tháng 1 (92,8%) đến tháng 7 (77,4%), sau đó tăng lên đến tháng 12 (93,4%); trong khi ở Ninh Thuận ẩm độ biến động thất thường giữa các tháng. Ẩm độ ở Thừa Thiên Huế thấp nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 (77,4 - 82,4%); mặc dù vậy vẫn cao hơn so với Ninh Thuận (75,6 - 76,4%); ẩm độ cao nhất là từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (90,4 - 93,4%), ngược lại đây là thời điểm ẩm độ Ninh Thuận thấp nhất (70,2 - 73,2%).
Giá trị THI ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận có xu hướng tăng, giảm theo chiều tăng, giảm của nhiệt độ. THI bắt đầu tăng dần lên từ tháng 1 (19 – Thừa Thiên Huế; 23,8 – Ninh Thuận), đến tháng 6 (28 – Thừa Thiên Huế; 27,9 – Ninh Thuận), sau đó THI giảm dần vào tháng 12 (20,5 – Thừa Thiên Huế; 24,4 – Ninh Thuận). Giá trị THI cao nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 (27,3 - 28 ở Thừa Thiên Huế và 27,4 - 27,9 ở Ninh Thuận); THI thấp nhất là từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (19,0 - 20,7 ở Thừa Thiên Huế và 23,8 - 24,6 ở Ninh Thuận).
Giá trị THI ở Ninh Thuận cao trong suốt cả năm, dao động 23,8 - 27,9; trong đó, có 4 tháng (từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau) giá trị THI trong khoảng 23,8 - 25,2 và 8 tháng (từ tháng 3 đến tháng 10) THI trong khoảng 25,8 - 27,9. Theo Marai và CS. (2000), giá trị THI>22,2 cừu bị stress, THI≥25,6 cừu bị stress cực kỳ nghiêm trọng. Với kết quả này, cừu ở Ninh Thuận luôn luôn bị stress nhiệt; trong đó, cừu bị stress nghiêm trọng khoảng 8 tháng. Thực tế, cừu Phan Rang tồn tại và phát triển rất tốt ở Ninh Thuận hàng trăm năm qua (Đinh Văn Bình và CS., 2007; Đoàn Đức Vũ và CS., 2006; Mai và CS., 2005). Các tác giả cho biết, cừu Phan Rang sinh trưởng, sinh sản tốt, ít bệnh tật trong điều kiện chăn nuôi ở Ninh Thuận (Đoàn Đức Vũ và CS., 2006; Mai và CS., 2005). Đây là điều đáng lưu ý khi sử dụng thang đánh giá stress nhiệt của Marai và CS. (2000) đối với cừu Phan Rang trong điều kiện ở Việt Nam.
Nhìn chung với đặc điểm thời tiết như vậy, Thừa Thiên Huế có hai mùa rõ rệt; mùa nóng (MN) từ tháng 6 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình tháng 28,1 - 29,00C, ẩm độ 77,4 - 82,4% và THI là 27,3 - 28; mùa lạnh (ML) từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau với nhiệt độ trung bình 19,1 - 20,90C, ẩm độ 90,4 - 93,4% và THI là 19,0 - 20,7. 
Như vậy, nhiệt độ, ẩm độ, THI ở Thừa Thiên Huế và Ninh Thuận có sự khác biệt rõ rệt. Ninh Thuận được đặc trưng bởi thời tiết khí hậu khô - nóng, với nhiệt độ luôn cao và ẩm độ thấp trong suốt cả năm - nơi mà cừu đã được du nhập vào, tồn tại, phát triển và thích nghi ở đây hàng trăm năm. Trong khí đó, Thừa Thiên Huế khí hậu có đặc trưng chung là mùa lạnh: lạnh - ẩm và mùa nóng: khô - nóng. 
3.1.2. Nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi ở Thừa Thiên Huế qua các mùa thí nghiệm 
3.1.2.1. Nhiệt độ, ẩm độ và THI chuồng nuôi theo giờ đo trong ngày qua các mùa thí nghiệm 
Kết quả khảo sát sự biến thiên nhiệt độ, ẩm độ và THI tại 8 thời điểm trong ngày (1.00, 

File đính kèm:

  • docluan_an_danh_gia_kha_nang_thich_ung_cua_giong_cuu_phan_rang.doc
  • doc1. BuiVanLoi_ Tomtat.doc
  • doc3. BuiVanLoi_ Donggopmoi.doc