Luận án Đánh giá nguy cơ tai biến môi trường tự nhiên tại khu vực huyện bảo thắng và Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai sử dụng các mô hình địa không gian

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá nguy cơ tai biến môi trường tự nhiên tại khu vực huyện bảo thắng và Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai sử dụng các mô hình địa không gian", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá nguy cơ tai biến môi trường tự nhiên tại khu vực huyện bảo thắng và Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai sử dụng các mô hình địa không gian
phân giải cao và khả năng khoanh định đa thời gian tại nhiều vị trí, đây là nguồn thông tin bổ sung hết sức quan trọng giúp cho việc chuẩn bị cơ sở dữ liệu các điểm trượt được đầy đủ và tin cậy hơn cho các phân tích thống kê sau này. 69 3.3.3 Cơ sở dữ liệu các yếu tố địa hình 3.3.3.1. Độ cao và độ dốc địa hình Các yếu tố trắc lượng hình thái có ảnh hưởng đến nguy cơ xảy ra tai biến địa động lực bao gồm độ dốc, độ cao, hướng sườn hay độ phân cắt sâu, độ phân cắt ngang. Độ cao địa hình khác nhau sẽ làm thay đổi điều kiện ngoại sinh mưa, ẩm, phong hóa từ đó có thể ảnh hưởng tới các quá trình tai biến. Khu vực nghiên cứu có địa hình phức tạp, nằm giữa 2 hệ thống núi thuộc vùng Tây Bắc Bộ và Đông Bắc Bộ, có độ cao lớn (đỉnh cao nhất 2.874m), phân cắt mạnh và phát triển nhiều hệ thống sông suối khác nhau. Hình 3.7. Nền địa hình khu vực nghiên cứu Bản đồ địa hình khu vực nghiên cứu được phân tích và tách thành các thành phần: độ cao, độ dốc sườn, hướng dốc. Độ cao địa hình dọc theo hành lang các tuyến đường chính dao động từ 40m (thấp nhất) đến trên 700m (cao nhất). 70 Hình 3.8. Độ cao địa hình tại khu vực nghiên cứu Thống kê độ cao địa hình phân bố trong diện tích nghiên cứu được tổng hợp trong bảng sau: Bảng 3.2. Phân bố độ cao địa hình tại khu vực nghiên cứu Mức độ cao (m) Pixels Diện tích (km2) Tỷ lệ (%) < 100 1.313.672 131,37 14,45 100-150 2.030.694 203,07 22,34 150-200 1.611.581 161,16 17,73 200-300 1.338.256 133,83 14,72 300-500 874.997 87,50 9,63 500-700 462.629 46,26 5,09 700-1000 547.969 54,80 6,03 1.000-1.500 602.789 60,28 6,63 > 1.500 305.930 30,59 3,37 Tổng 9.088.517 908,85 100 Yếu tố địa hình, trong đó cụ thể là độ dốc sườn là nguyên nhân chính gây ra trượt lở. Địa hình cao và độ phân cắt lớn tạo ra năng luợng địa hình lớn, thuận lợi cho trượt lở có nguồn gốc trọng lực. Kết quả thống kê ngoài thực địa cũng cho thấy số lượng các điểm trượt lở tỷ lệ thuận với độ cao và độ phân cắt của địa hình. Có trên 90% số điểm trượt lở phân bố ở các khu vực có độ dốc địa hình trên 250. 71 Hình 3.9. Sơ đồ độ dốc địa hình tại khu vực nghiên cứu Bảng thống kê độ dốc địa hình phân bố trong diện tích nghiên cứu: Bảng 3.3. Phân bố độ dốc địa hình tại khu vực nghiên cứu Góc dốc (0) Pixels Diện tích (km2) Tỷ lệ (%) < 10 1.723.464 172,35 18,96 10-20 1.816.013 181,60 19,98 20-30 2.634.874 263,49 28,99 30-45 2.643.900 264,39 29,09 > 45 270.266 27,03 2,97 Tổng 9.088.517 908,85 100 Trong diện tích nghiên cứu, tại các sườn dốc trên 300, các hoạt động động lực dòng chảy lớn trong mùa mưa đã hình thành các mương xói đạt chiều sâu từ 0,3-0,5 m và chiều dài hàng chục mét. Sườn dốc địa hình theo các hướng khác nhau cũng nhận được tác động về điều kiện thời tiết như mưa, nắng và gió khác nhau, ảnh hưởng đến tính chất hoạt động của các vật liệu trên nó. Do vậy, hướng dốc của địa hình khác nhau cũng ảnh hưởng khác nhau đến khả năng xảy ra trượt lở. 72 Hình 3.10. Sơ đồ hướng dốc địa hình của khu vực nghiên cứu Bảng thống kê phân bố hướng dốc địa hình trong diện tích nghiên cứu: Bảng 3.4. Phân bố hướng dốc địa hình Hướng Pixels Diện tích (km2) Tỷ lệ (%) Bắc (00) 1.134.260 113,43 12,48 Đông Bắc (450) 1.410.810 141,08 15,52 Đông (900) 1.193.881 119,39 13,14 Đông Nam (1350) 1.000.852 100,09 11,01 Nam (1800) 1.084.459 108,45 11,93 Tây Nam (2250) 1.105.966 110,60 12,17 Tây (2700) 1.073.060 107,31 11,81 Tây Bắc (3150) 922.957 92,30 10,16 Bằng phẳng 162.272 16,23 1,79 Tổng 9.088.517 908,85 100 Khu vực nghiên cứu chủ yếu nằm về đông bắc của dãy Hoàng Liên Sơn. Kết quả phân tích chi tiết về hướng dốc địa hình tại khu vực nghiên cứu cũng cho thấy hướng Bắc, Đông Bắc và Đông có tỷ lệ cao hơn, các hướng còn lại phân bố tương đối đồng đều và diện tích bằng phẳng chiếm tỷ lệ rất nhỏ. 73 3.3.3.2. Các chỉ số địa hình Từ mô hình số độ cao của khu vực còn có thể tính toán bổ sung các chỉ số địa hình nhằm thể hiện sự thay đổi về năng lượng địa hình hoặc mức độ tập trung của dòng chảy. Các chỉ số được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm Chỉ số độ nhám địa hình (Terrain Ruggedness Index- TRI), chỉ số độ ẩm địa hình (Terrain Wetness Index- TWI), chỉ số năng lượng dòng chảy (Stream Power Index- SPI), chỉ số vị trí địa hình (Topographic Position Index- TPI), chỉ số độ cong địa hình theo phương ngang (Plan curvatures) và độ cong địa hình theo phương đứng (Profile curvatures), chỉ số vận chuyển trầm tích (Sediment Transport Index- STI) và chỉ số cân bằng khối (Mass Balance Index- MBI). Trong đó, các chỉ số TWI và SPI là các thông số thủy văn điển hình ảnh hưởng đến cường độ dòng chảy và sự tích tụ nước của từng tiểu lưu vực. Chỉ số độ ẩm địa hình (TWI), còn được gọi là chỉ số địa hình hỗn hợp (Compound Topographic Index- CTI), được phát triển bởi Beven và Kirkby (1979)[78] trong mô hình dòng chảy TOPMODEL. Chỉ số TWI là hàm số thể hiện mối quan hệ giữa độ dốc và diện tích khu vực thu nước ở địa hình cao hơn, phần diện tích cung cấp lượng nước cho vị trí tính toán. Chỉ số độ ẩm địa hình TWI được tính toán bằng công thức: )tan/ln( sATWI = (3.1) Trong đó: As là diện tích khu vực thu nước (contributing area) là độ dốc địa hình tại vị trí tính toán Dòng chảy thường chảy từ các pixel có độ cao lớn hơn xuống các pixel có độ cao thấp hơn ở lân cận. Chỉ số TWI thể hiện trạng thái ổn định của độ ẩm trên bề mặt địa hình thông qua việc lượng hóa ảnh hưởng của địa hình đối với các quá trình thủy văn. Chỉ số năng lượng dòng chảy SPI là thước đo sức ăn mòn của nước chảy trên địa hình. Chỉ số năng lượng dòng chảy SPI được xác định theo công thức: tansASPI = (3.2) Chỉ số SPI được tính dựa trên độ dốc và diện tích đóng góp từ các địa hình cao hơn phía trên. Chỉ số SPI được sử dụng để mô tả quá trình xói mòn dòng chảy tiềm năng tại điểm đã cho của bề mặt địa hình. Khi diện tích lưu vực và độ dốc tăng lên, 74 lượng nước do các khu vực thượng lưu và vận tốc dòng nước tăng lên, do đó chỉ số sức mạnh dòng chảy và nguy cơ xói mòn tăng. Các chỉ số vị trí địa hình TPI, chỉ số độ cong địa hình theo phương ngang (plan curvatures) và độ cong địa hình theo phương đứng (profile curvatures) cho phép xác định các yếu tố địa mạo của bề mặt địa hình, qua đó thể hiện các khu vực tác động đến nguy cơ xảy ra tai biến khác nhau. Hình 3.11. Độ cong địa hình theo phương ngang (plan curvatures) và độ cong địa hình theo phương đứng (profile curvatures) Chỉ số vị trí địa hình TPI được tính toán theo công thức sau [85]: −= nMMTPI ni /0 (3.3) Trong đó: M0 là độ cao địa hình tại vị trí đánh giá Mn là các giá trị độ cao địa hình tại các điểm xung quanh n là số lượng điểm đưa vào đánh giá Chỉ số độ ẩm địa hình (TWI) Chỉ số độ nhám địa hình (TRI) Chỉ số vị trí địa hình (TPI) 75 Chỉ số độ cong địa hình theo phương ngang Chỉ số độ cong địa hình theo phương đứng Chỉ số cân bằng khối (MBI) Hình 3.12. Một số chỉ số địa hình của khu vực nghiên cứu Các chỉ số độ nhám địa hình TRI, chỉ số cân bằng khối MBI và chỉ số vận chuyển trầm tích STI thể hiện vai trò thế năng của địa hình, khi độ cao tương đối càng lớn thì thế năng địa hình càng cao và ngược lại, điều này đã thúc đẩy quá trình dịch chuyển của đất đá xảy ra mạnh hơn và động năng va đập của đất đá thể hiện tính khốc liệt rõ nét hơn. Chỉ số vận chuyển trầm tích STI được tính toán theo công thức sau [79]: nm sAmSTI )0896.0/sin()13.22/()1( += (3.4) Các thông số đặc trưng cho diện tích lưu vực (m) và cho độ dốc cục bộ (n). Thông thường, giá trị m thường được chọn bằng 0,4 và n bằng 1,4. Năng lượng địa hình trong chỉ số cân bằng khối MBI được tính toán thông qua độ chênh cao tương đối giữa đỉnh các địa hình dương với đáy của các địa hình âm gần nhất [80],[81]. Tương tự như vậy, chỉ số độ nhám địa hình TRI thể hiện mức độ không đồng nhất của bề mặt địa hình [86] cũng được tính toán dựa trên việc tính toán sự khác biệt về độ cao địa hình của vị trí trung tâm với tám pixel xung quanh đó. Chỉ số cân bằng khối MBI được tính toán theo công thức: ++ −− = 0)())(1(*))(1(*)( 0)())(1(*))(1(*)( TCfAffTCf TCfAffTCf MBI s s (3.5) Trong đó: là độ dốc địa hình TC là chỉ số tổng độ cong (total curvature) trên bề mặt địa hình As là diện tích lưu vực thu nước 76 Chỉ số MBI có giá trị dương tại các khu vực bị xói mòn như khu vực đỉnh hoặc sườn dốc và các giá trị âm đặc trưng cho các khu vực chịu ảnh hưởng của quá trình trầm tích các vật liệu trên bề mặt. 3.3.4 Cơ sở dữ liệu các yếu tố địa chất 3.3.4.1. Đặc điểm thạch học Thành phần thạch học của các đá gốc đóng vai trò quan trọng cho sự hình thành hiện tượng trượt lở. Hiện tượng trượt lở có thể xảy ra ở tất cả các loại đá gốc có thành phần khác nhau, tuy nhiên các vật liệu có độ bền thấp biểu hiện mối nguy hiểm lớn nhất. Các thành tạo địa chất trong khu vực nghiên cứu khá đa dạng, bao gồm các trầm tích lục nguyên bị biến chất, nén ép, dập vỡ tạo thành các dải chạy theo phương TB- ĐN xen kẽ với các khối magma xâm nhập. Dưới đây mô tả sơ lược về thành phần thạch học các đá có mặt trong diện tích nghiên cứu: Về địa tầng, trong diện tích nghiên cứu có mặt các hệ tầng: Hệ tầng Núi Con Voi (PR1 nv): Phân bố thành các dải hẹp, kéo dài theo phương TB-ĐN, nằm kẹp giữa 2 đứt gãy Sông Hồng và Sông Chảy. Thành phần chủ yếu gồm các đá gneis, gneis chứa graphit, gneis biotit, đá phiến thạch anh biotit, đá phiến 2 mica, quartzit, amphibolit, đá hoá. Các đá bị biến chất khu vực mạnh mẽ. Hệ tầng Ngòi Chi (PR1 nc): Các đá thuộc hệ tầng Ngòi Chi phân bố thường gắn liền với diện tích phân bố hệ tầng Núi Con Voi (PR1 nv). Thành phần chủ yếu bao gồm gneis biotit, gneis 2 mica, đá phiến thạch anh biotit, thấu kính amphibolit, quartzit. Thế nằm chung của mặt ép 26560. Đá bị phong hoá mạnh mẽ. Hệ tầng Sin Quyền (PR1-2 sq): Phân bố thành dải phương TB-ĐN, nằm giữa 2 đứt gãy Sông Hồng và Ngòi Nhu. Các thành tạo của hệ tầng Sin Quyền bao gồm đá phiến biotit, phiến thạch anh biotit, quartzit, phiến biotit horblend. Hầu hết các đá bị phong hoá trung bình đến mạnh. Các lớp đá phiến bị phong hoá mạnh mẽ tạo thành các lớp đất bở rời hoặc các lớp sét màu tím gan gà. Hệ tầng Cam Đường ( 1 cđ): Phân bố ở gần trung tâm diện tích nghiên cứu, tạo thành các dải hẹp nằm giữa các đứt gãy phương TB-ĐN từ TP. Lào Cai xuống Văn Bàn. Thành phần chủ yếu của hệ tầng gồm cuội sạn kết đa khoáng, hạt cuội sạn là thạch anh, đá phiến carbonat, đá phiến actinolit chứa sulphur dạng xâm tán, đá phiến 77 sét than, đá phiến thạch anh biotit, phiến biotit, phyllit và liên quan chặt chẽ với khoáng sản apatit. Thế nằm chung của các đá 20-3050. Hệ tầng Hà Giang ( 2 hg): Chủ yếu tập trung ở phần đông bắc của diện tích nghiên cứu, thuộc rìa tây khối granit Sông Chảy. Thành phần thạch học của phân hệ tầng dưới ( 2 hg1) chủ yếu gồm đá phiến sericit, đá phiến sét phân lớp mỏng bị phong hoá mạnh và bị ép rất mạnh. Thế nằm mặt ép phổ biến là 14040. Phân hệ tầng trên ( 2 hg2) gồm các tập bột kết và tập đá vôi tái kết tinh, hạn mịn, rắn chắc với thế nằm đơn nghiêng 11075 và 26050. Các thành tạo đá vôi của hệ tầng bị tái kết tinh và hoa hoá, phân lớp trung bình, bị karst hoá và quá trình bóc mòn, rửa lũa được tích tụ ngay tại chỗ. Hệ tầng Bản Diệt (C3 bd): Trong diện tích nghiên cứu, các đá của hệ tầng chỉ lộ ra thành 1 diện tích nhỏ gần cửa suối Ngòi Bo. Thành phần chủ yếu bao gồm đá phiến sét, sét vôi, cát kết xen sét silic, phiến silic, có chỗ bị mạch aplit xuyên cắt. Đá thường bị phong hoá mạnh đến trung bình, vò nhàu nhẹ. Thế nằm chung 13060. Hệ tầng Mia Lé (D1 ml): Các đá thuộc hệ tầng Mia Lé lộ thành diện tích nhỏ ở phía bắc khu vực nghiên cứu. Thành phần thạch học của phân hệ tầng dưới (D1 ml1) chủ yếu gồm cát kết dạng quarzit, cát kết ít khoáng hạt không đều, bị ép, cát bột kết, đá phiến thạch anh- feldspat. Các đá thuộc phân hệ tầng trên (D1 ml2) gồm đá phiến sét- sericit- chlorit, đá phiến sét- silic chứa cát, bột kết. Hệ tầng Cổ Phúc (N1 cp): (N1 cp): Hệ tầng lộ thành 2 diện tích nhỏ (~2km2) trong vùng nghiên cứu, phân bố dọc theo 2 đứt gãy phân đới Sông Hồng và Sông Chảy. Các thành tạo của hệ tầng Cổ Phúc lộ thành dải cao, kéo dài, được xếp bằng cuội kết, cát kết đa khoáng. Cuội kết và cát kết được xi măng gắn kết và được sắp xếp theo hướng 32040. Các trầm tích Đệ Tứ không phân chia (Q): Các thành tạo Đệ Tứ chủ yếu phân bố dọc theo các sông, suối lớn trong vùng như sông Hồng, suối Nậm Mu, Nậm Sổ Ngoài ra còn phân bố rải rác trong các thung lũng giữa núi, diện lộ nhỏ. 78 Hình 3.13. Sơ đồ địa chất khu vực nghiên cứu Các phức hệ magma có mặt trong diện tích nghiên cứu gồm: Phức hệ Xóm Giấu (PR xg): Gồm nhiều khối nhỏ phân bố rải rác trong diện tích nghiên cứu ở Ngòi Nhu, Thái Niên gồm các đá mạch sáng màu thuộc pha 2 với thành phần chủ yếu là thạch anh, felspat, dạng hạt lớn (pegmatit), granit migmatit màu xám xanh xen các sọc dải màu trắng đục, granit biotit màu xám xanh, hạt nhỏ, cấu tạo định hướng yếu theo phương 7080 và bị phong hoá yếu. Phức hệ Posen (PZ1 ps): Trong diện tích nghiên cứu, các đá thuộc phức hệ phân bố thành dải hẹp ở phía tây nam, dạng những khối lớn, bị phong hoá bóc vỏ, tầng phong hoá màu nâu đỏ. Đá tươi có màu xám sáng và bị ép rất mạnh. Phức hệ Yê Yên Sun (E ys): Là phần kéo dài của khối lớn Yê Yên Sun thuộc dãy Fansipan với diện lộ lớn, phân bố ở phía tây và tây nam khu vực nghiên cứu. Thành phần các đá chủ yếu gồm granit biotit màu xám sáng, bị ép mạnh gạng gneis, mặt ép 2040 và bị các hệ thống đứt gãy, khe nứt phá huỷ, dập vỡ mạnh, nhiều chỗ có các mạch thạch anh xuyên cắt. Hiện trượng trượt lở trong vùng nghiên cứu cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi hiện tượng phong hóa. Trong những điều kiện như nhau thì vỏ phong hoá trên các loại đá khác nhau sẽ có thành phần, cấu trúc, bề dày khác nhau, nghĩa là có sản phẩm phong hóa khác nhau. Địa hình cũng là yếu tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong 79 sự hình thành và bảo tồn vỏ phong hoá. Các đặc trưng hình thái của địa hình như độ cao, độ dốc, mức độ phân cắt sâu, phân cắt ngang liên quan chặt chẽ với nhau và quyết định chế độ nước ngầm trong chúng. Trong đó, độ dốc địa hình xác định khả năng phát triển và bảo tồn các kiểu vỏ phong hoá. Thực tế khảo sát tại các điểm trượt lở cho thấy tất cả các đá đều bị phong hoá, song tốc độ, cường độ lại rất khác nhau dẫn đến chiều dày của vỏ phong hoá cũng như thành phần khoáng vật và đặc tính cơ lý của đất đá phong hoá rất khác nhau. Đây là nguyên nhân có tác dụng làm thay đổi các tính chất cơ lý của đất đá, đặc biệt là làm thay đổi khối lượng thể tích tự nhiên, làm giảm lực kháng cắt của đất đá. Quá trình phong hoá tạo môi trường cho quá trình dịch chuyển đất đá xảy ra và là một trong những nguyên nhân chính gây ra trượt lở cho các tuyến đường trong khu vực nghiên cứu. Hình 3.14. Sơ đồ loại hình vỏ phong hoá Các điểm trượt tập trung trên các sườn có độ dốc trên 20-300 và tập trung ở các đới cắt trượt có đá gốc vỡ vụn hoặc những nơi vỏ phong hóa có lẫn sét. Ngoài ra bề dày của các lớp đất đá mềm yếu (tầng phủ) cũng ảnh hưởng đến quá trình phát sinh trượt. Kết quả khảo sát cho thấy bề dày của các lớp vỏ phong hoá càng dày thì quá trình trượt càng dễ xảy ra và quy mô các khối trượt lở càng lớn . Tính chất cơ lý và cấu tạo của đá gốc cũng có vai trò quan trọng gây ra trượt lở. Tại những khu vực đá gốc gắn kết yếu, bị vỡ vụn, bở rời, các hiện tượng tai biến cũng 80 xảy ra mạnh hơn. Đặc điểm địa chất công trình của đất đá trong vùng nghiên cứu được phân ra thành 2 lớp, lớp không có liên kết (đất bở rời) và lớp có liên kết cứng (đá cứng). Mỗi lớp lại gồm một số nhóm đất đá thành tạo trong những điều kiện kiến tạo và cổ địa lý giống nhau và do vậy có những đặc điểm địa chất công trình giống nhau. Hình 3.15. Sơ đồ nhóm đá theo địa chất công trình Các lớp địa chất công trình tại khu vực nghiên cứu bao gồm: - Lớp đất bở rời: Gồm các nhóm đá trầm tích Đệ Tứ phân bố chủ yếu dọc sông Hồng và sông Nậm Thi, một số ít dọc theo thung lũng các sông suối có mặt trong vùng. Đặc điểm cơ bản của chúng là sức bền thấp, hầu như chưa cố kết. - Lớp đá liên kết cứng, gồm các trầm tích cuội kết, các thành tạo đá phiến, đá vôi, các thành tạo magma xâm nhập kiềm, axit và các dyke mạch. Mỗi loại lại được phân chia thành các nhóm riêng tuỳ theo thành phần và tuổi địa chất thành tạo khác nhau. Liên quan chặt chẽ với lớp đá cứng và vỏ phong hoá của chúng là các hoạt động trượt lở sườn dốc và các hoạt động liên quan với môi trường karst như sụt lún, rò rỉ, mất nước... Khả năng chứa nước của đất đá được xây dựng từ bản đồ địa chất thuỷ văn. Trong vùng nghiên cứu, các dạng tồn tại của nước gồm các dạng sau: - Nước lỗ hổng trong tầng chứa nước là các thành tạo Đệ Tứ không phân chia và Neogen. 81 - Nước khe nứt và khe nứt karst trong các thành tạo Neoproterozoi-Cambri. Các thành tạo địa chất nghèo nước hoặc không chứa nước gồm: - Các thành tạo không chứa nước: Phức hệ Yê Yên Sun, phức hệ Posen, hệ tầng Cam Đường, phức hệ Xóm Giấu. - Các thành tạo địa chất nghèo nước thuộc các hệ tầng Sin Quyền, hệ tầng Ngòi Chi, hệ tầng Núi Con Voi. Hình 3.16. Sơ đồ địa chất thuỷ văn Trong diện tích nghiên cứu, các sườn dốc, mái dốc chủ yếu ở vị trí cao, nước dưới đất thường tồn tại trong các khe nứt ở mực nước thấp hơn so với mặt trượt, nên tác động của nước dưới đất gây nên áp lực thuỷ động là không đáng kể, mà chủ yếu thông qua cơ chế bôi trơn và làm giảm lực kháng cắt của đất đá cấu tạo tầng phủ. 3.3.4.2 Hệ thống đứt gãy và lineament Hiện tượng trượt không những phụ thuộc vào thành phần, tính chất của đá gốc mà còn phụ thuộc vào các hoạt động kiến tạo. Mức độ phá huỷ đứt gãy kiến tạo là điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh, phát triển dịch chuyển trọng lực vì đó là những nơi mà đất đá bị vụn nát, các tính chất cơ lý, đặc biệt là góc nội ma sát và lực dính kết giảm đột ngột, là nơi tàng trữ nước, làm giảm sức kháng cắt của đất đá. Các phá huỷ kiến tạo cũng là nơi dễ phát sinh các quá trình địa động lực khác, có khả năng ảnh hưởng và kích thích hiện tượng trượt lở. 82 Các kết quả phân tích đứt gãy và lineament kết hợp từ tài liệu địa chất và viễn thám phản ánh sự phân bố của các hệ thống cấu trúc chính của vùng nghiên cứu. Trong diện tích nghiên cứu, các hệ thống đứt gãy chính phát triển theo phương TB-ĐN và ĐB-TN, ít phát triển phương á kinh tuyến và á vĩ tuyến, trong đó hệ thống phương TB-ĐN phát triển nhất với các đứt gãy lớn như đứt gãy Sông Hồng, đứt gãy Sông Chảy. Biểu hiện của hệ thống TB-ĐN là đới dập vỡ rộng hàng trăm mét, dọc theo đứt gãy Sông Hồng, hình thành các trũng được tích tụ bằng các trầm tích Neogen (hệ tầng Cổ Phúc N1 cp). Hình 3.17. Sơ đồ phân bố và mật độ đứt gãy và lineament của khu vực nghiên cứu Mật độ đứt gãy trong vùng nghiên cứu thay đổi từ 0-5,52km/km2, trung bình 2,30km/km2. Phần lớn chiều dài các tuyến đường trong diện tích nghiên cứu chạy theo phương TB-ĐN gần như trùng với phương hoạt động của hệ thống đứt gãy chính trong vùng, do vậy các tuyến đường này chủ yếu chạy trong các đới nén ép, dập vỡ bởi các hoạt động địa chất. Nhiều đoạn đường có vách taluy dương cấu tạo bởi các vật liệu bở rời, như các tầng phong hóa gần đới tiếp xúc, thành tạo sườn tích và bồi tích Đệ Tứ cũng như các đới bị cà nát, nén ép, dập vỡ. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm tăng khả năng xảy ra trượt lở trong vùng nghiên cứu. Tại khu vực nghiên cứu, yếu tố kích thích các tai biến chủ yếu liên quan đến các điều kiện khí tượng- thủy văn, trong đó lượng mưa đóng vai trò chính. Bên cạnh đó, khả năng phát sinh động đất tuy có khả năng không lớn song cũng là một trong những yếu tố kích thích quan trọng cần được đưa vào phân tích. Nguy cơ xảy ra tai biến nói chung chịu ảnh
File đính kèm:
luan_an_danh_gia_nguy_co_tai_bien_moi_truong_tu_nhien_tai_kh.pdf
Đóng góp mới của Luận án.doc
NEW CONTRIBUTIONS OF THE THESIS.docx
Những đóng góp mới của LA TA NCS Minh.pdf
Những đóng góp mới của LA TV NCS Minh.pdf
QĐ NCS Minh.pdf
Tóm tắt LA Nguyen Quang Minh.pdf
Tón tắt Tiếng Anh Nguyen Quang Minh.pdf
Trích lục LA Nguyen Quang Minh.doc
Trích yếu LA NCS Minh.pdf

