Luận án Đánh giá ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật trên ruộng lúa và các sông rạch chính tại tỉnh Hậu Giang

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật trên ruộng lúa và các sông rạch chính tại tỉnh Hậu Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật trên ruộng lúa và các sông rạch chính tại tỉnh Hậu Giang

g đất ruộng lúa theo thời vụ. Diễn biến dư lượng fenobucarb trong đất tương tự trong nước trên ruộng lúa. Dư lượng fenobucarb trong đất ruộng lúa tăng theo thời gian khảo sát là do lượng thuốc BVTV được sử dụng ở vụ Hè – Thu và Thu - Đông cao hơn so với ở vụ Đông – Xuân. Nghiên cứu của Pham Van Toan (2011) và Chau et al. (2015) trên các ruộng lúa ở ĐBSCL cũng cho thấy lượng thuốc BVTV ở vụ Đông – Xuân, dao động 1,13 – 2,21 Kg/ha thấp hơn so với Hè – Thu và Thu – Đông, dao động 1,53 – 5,38 Kg/ha. Một nguyên nhân khác là fenobucarb có khả năng hoà tan trong nước cao, nên hoạt chất này rất dễ lan truyền từ ruộng lúa lân cận và kênh nội đồng vào ruộng lúa khảo sát, đặc biệt là vào mùa mưa và lũ; sau đó, lượng fenobucarb được hấp phụ bởi đất. Dư lượng quinalphos và cypermethrin trong đất ruộng lúa có xu hướng giảm theo thời gian khảo sát, mặc dù lượng thuốc BVTV được sử dụng ở vụ Đông – Xuân thấp hơn so với vụ Hè – Thu và Thu – Đông. Hoạt chất quinalphos và cypermethrin có chỉ số PPBT ở mức trung bình đến cao (The D ư lư ợn g th uố c BV TV (µ g/ K g) 79 PPDB, 2016); chứng tỏ hai hoạt chất này có khả năng lan truyền từ ruộng lúa ra kênh nội đồng. Ở vụ Hè – Thu và Thu – Đông là mùa mưa và lũ đã tạo điều kiện cho lượng quinalphos và cypermethrin dễ bị cuối trôi từ đất vào môi trường nước so với ở vụ Đông - Xuân, sau đó theo nước thải từ ruộng lúa ra kênh nội đồng. Kết quả nghiên cứu dư lượng quinalphos trong nước trên ruộng lúa tăng theo thời gian khảo sát, nhưng không phát hiện cypermethrin trong nước. Jones (1995) cho rằng lượng cypermethrin trong nước đã giảm 95% chỉ sau 24 giờ khảo sát là do bị hấp phụ bởi đất. Nghiên cứu của Pham Van Toan (2011) trên các ruộng lúa tại Đồng Tháp và An Giang chỉ phát hiện dư lượng cypermethrin trong mẫu nước được thu ngay sau cơn mưa; điều này là do mưa đã cuốn trôi lượng cypermethrin từ đất vào nước. Tỷ lệ lan truyền thuốc BVTV từ ruộng lúa ra thủy vực lân cận ở mùa mưa thường cao hơn so với mùa khô (Watanabe et al. 2007). 4.2.3.2 Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên kênh nội đồng a. Dư lượng các hoạt chất nghiên cứu trong bùn đáy trên kênh nội đồng Tần suất phát hiện của propiconazole và fenobucarb trong bùn đáy trên kênh nội đồng là 100%; tiếp theo là hoạt chất fipronil (93,3%). Tần suất phát hiện của quinalphos cao hơn so với cypermethrin với giá trị lần lượt là 53,3% và 37,8% (Bảng 4.13). Bảng 4.13: Dư lượng thuốc BVTV (µg/Kg) trong bùn đáy trên kênh nội đồng TSPH (%) Thấp nhất (µg/L) Cao nhất (µg/L) Trung bình (µg/L) Propiconazole 100 68,21 230,16 145,23 ±11,15 Cypermethrin 37,8 17,47 361,95 44,36 ± 9,02 Fenobucarb 100 5,23 131,84 17,30 ± 2,82 Quinalphos 53,3 0,27 38,83 7,43 ± 1,74 Fipronil 93,3 1,17 9,82 5,38 ± 0,71 Ghi chú: n = 15 (propiconazole, fipronil) n = 45 (quinalphos, fenobucarb và cypermethrin) Trung bình ±SE; TSPH: tần suất phát hiện. Ngưỡng phát hiện: propiconazole (≥0,001 µg/Kg); quinalphos (≥0,0001 µg/Kg); cypermethrin (≥0,0003 µg/Kg); fipronil (≥0,0001 µg/Kg) và fenobucarb (≥0,0002 µg/Kg); Kết quả ở Bảng 4.13 cho thấy dư lượng propiconazole trong bùn đáy trên kênh nội đồng dao động từ 68,21 – 230,16 µg/Kg và trung bình là 145,23 ±11,15 µg/Kg. Đối với thuốc trừ sâu, tần suất phát hiện của cypermethrin thấp nhất, nhưng dư lượng cypermethrin cao hơn so với các hoạt chất trừ sâu còn lại trong nghiên cứu, với giá trị thấp nhất là 17,47 µg/Kg, giá trị cao nhất là 361,95 µg/Kg và trung bình là 44,36 ±9,02 µg/Kg. Dư lượng fenobucarb dao động 5,23 – 131,84 µg/Kg và trung bình là 17,30 ±2,82 µg/Kg cao hơn so với 80 quinalphos có giá trị dao động 0,27 – 38,83 µg/Kg và trung bình là 7,43 ±1,74 µg/Kg. Dư lượng fipronil thấp nhất, là 5,38 ±0,71 µg/Kg. Diễn biến dư lượng các hoạt chất nghiên cứu trong bùn đáy trên kênh nội đồng tương tự trong đất ruộng lúa. Dư lượng propiconazole cao nhất, tiếp theo là cypermethrin, fenobucarb, quinalphos và fipronil. Các hoạt chất nghiên cứu có chỉ số PPBT từ trung bình đến cao (The PPDB, 2016) nên các hoạt chất này có khả năng lan truyền từ ruộng lúa ra kênh nội đồng; trong đó, propiconazole và cypermethrin có chỉ số PPBT ở mức cao, nhưng fenobucarb, quinalphos và fipronil có chỉ số PPBT ở mức trung bình. Dư lượng propiconazole cao hơn cypermethrin là do tỷ lệ sử dụng của propiconazole cao hơn cypermethrin (phụ lục 1.3) và lượng thuốc trừ bệnh được sử dụng cao hơn lượng thuốc trừ sâu là 1,8 Kg/ha và 0,56 Kg/ha. Tỷ lệ sử dụng của quinalphos cao hơn fenobucarb, nhưng dư lượng quinalphos thấp hơn so với fenobucarb là do lân hữu cơ phân huỷ nhanh hơn so với carbamate (Babu et al. 1998; Goncalves et al. 2006; Kumar, 2010, Blasing 2010). Hoạt chất fipronil (Koc = 577) có khả năng hấp phụ bởi bùn đáy thấp nhất trong các hoạt chất nghiên cứu nên dư lượng fipronil thấp nhất. Kết quả về thực trạng sử dụng thuốc BVTV cho thấy ở thời điểm lúa 55 ngày tuổi, các hoạt chất nghiên cứu đã được sử dụng với tần suất là 1 – 4 lần trên ruộng lúa. Thời gian giữ nước trên ruộng ngắn, tối đa là 5 ngày sau khi phun, đã tạo điều kiện cho dư lượng các hoạt chất này lan truyền từ ruộng lúa ra kênh nội đồng. Nghiên cứu Shi-yu and Morioka (2000), Samuel and Ireneo (2013) và Christen et al. (2015) cũng cho rằng dư lượng thuốc trên kênh nội đồng là do được lan truyền từ ruộng lúa trong quá trình canh tác và tỷ lệ lan truyền sẽ tăng trong mùa mưa. Tại kênh nội đồng với lưu lượng nước lớn, dư lượng thuốc đã được xáo trộn và pha loãng, sau đó kết hợp với các chất lơ lửng, lắng tụ và tích luỹ trong bùn đáy (Riise et al. 2004); kết quả là tần suất phát hiện và dư lượng các hoạt chất nghiên cứu trên kênh nội đồng thấp hơn so với trên ruộng lúa. Dựa vào chỉ số Koc của hoạt chất nghiên cứu ở mức cao và rất cao (The PPDB, 2016), chứng tỏ các hoạt chất này có khả năng bị hấp phụ cao bởi bùn đáy trên kênh nội đồng. Sau thời điểm lúa 55 ngày tuổi, các hoạt chất nghiên cứu đã không được sử dụng, ngoại trừ propiconazole. b. Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên kênh nội đồng ở khu vực lúa 3 vụ/năm và 2 vụ/năm Kết quả ở Hình 4.15 cho thấy dư lượng propiconazole, cypermethrin, quinalphos, fipronil và fenobucarb trong bùn đáy trên kênh nội đồng ở khu 81 vực lúa 3 vụ/năm có xu hướng cao hơn so với ở khu vực lúa 2 vụ/năm. Dư lượng propiconazole ở khu vực lúa 3 vụ/năm và 2 vụ/năm lần lượt là 157,67 ±10,48 µg/Kg và 95,47 ±19,76 µg/Kg. Đối với thuốc trừ sâu, dư lượng cypermethrin, fenobucarb, quinalphos và fipronil ở khu vực lúa 3 vụ/năm là 58,87 ±25,66 µg/Kg, 18,64 ±3,48 µg/Kg, 8,26 ±1,93 µg/Kg và 6,17 ±0,71 µg/Kg cao hơn so với ở khu vực lúa 2 vụ/năm là 46,59 ±15,99 µg/Kg, 11,94 ±1,31 µg/Kg, 1,63 ±0,72 µg/Kg và 2,47 ±0,75 µg/Kg tương ứng. Hình 4.15 : Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên kênh nội đồng ở khu vực lúa 3 vụ/năm và 2 vụ/năm Ghi chú: n = 12 (3 vụ/năm) và n = 3 (2 vụ/năm): propiconazole và fipronil n = 36 (3 vụ/năm) và n = 9 (2 vụ/năm): cypermethrin, fenobucarb và quinalphos. Diễn biến dư lượng propiconazole, cypermethrin, fenobucarb, quinalphos và fipronil trên kênh nội đồng tương tự trên ruộng lúa ở 2 khu vực khảo sát. Có thể thấy rằng gia tăng lượng thuốc BVTV được sử dụng trên ruộng lúa đã dẫn đến dư lượng thuốc BVTV trên kênh nội đồng cũng tăng theo. Kết quả về thực trạng sử dụng thuốc BVTV cho thấy lượng thuốc được sử dụng trên ruộng lúa 3 vụ/năm cao hơn so với 2 vụ/năm, lần lượt là 3,88 Kg/ha và 2,58 Kg/ha; trong đó, lượng thuốc trừ bệnh và trừ sâu được sử dụng ở các ruộng lúa 3 vụ/năm là 1,8 Kg/ha và 0,56 Kg/ha cao hơn so với ở ruộng lúa 2 vụ/năm là 1,45 Kg/ha và 0,32 Kg/ha. Nghiên cứu của Keiya et al. (2008) cũng cho rằng dư lượng thuốc BVTV trên kênh nội đồng tăng là do tăng sử dụng thuốc BVTV trên ruộng lúa. D ư lư ợn g th uố c BV TV (µ g/ K g) 3 vụ/năm 2 vụ/năm Propiconazole Cypermethrin Fenobucarb Quinalphos Fipronil 82 Quy chuẩn Việt Nam (QCVN 15:2008/BTNMT) về dư lượng tối đa cho phép của thuốc BVTV trong đất (trọng lượng khô) đã quy định cho hoạt chất fenobucarb là 50 µg/Kg. Nghiên cứu Crommentuijn et al. (2000) về dư lượng tối đa cho phép (MPC – Maximum permissible concentration) của nhóm cúc tổng hợp và lân hữu cơ trong bùn đáy (trọng lượng khô) là 0,4 µg/Kg và 0,95 µg/Kg. Theo đó, trên các kênh nội đồng tại 2 khu vực nghiên cứu có 50% mẫu bùn đáy khảo sát bị nhiễm quinalphos vượt chuẩn cho phép, 36,1% đối với hoạt chất cypermethrin và 2,8% đối với fenobucarb. Hoạt chất propiconazole và fipronil vẫn chưa tìm thấy quy định về dư lượng tối đa cho phép trong đất và bùn đáy. c. Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên kênh nội đồng theo thời vụ Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên kênh nội đồng khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa Đông – Xuân, Hè – Thu và Thu – Đông, có giá trị trung bình lần lượt là 47,28 ±23,96 µg/Kg; 34,36 ±6,67 µg/Kg và 41,47 ±10,46 µg/Kg. Dư lượng quinalphos và cypermethrin khác biệt không có ý nghĩa thống kê theo thời gian khảo sát. Dư lượng fenobucarb ở vụ Đông – Xuân là 10,32 ±0,96 µg/Kg khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với vụ Hè – Thu là 15,28 ±2,26 µg/Kg, nhưng thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với vụ Thu – Đông là 26,31 ±7,69 µg/Kg. Hình 4.16 Biến động dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên kênh nội đồng theo thời vụ Ghi chú: n = 15; a,b: khác biệt có ý nghĩa thống kê (5%) kiểm định DUNCAN. Tổng: trung bình tổng dư lượng fenobucarb, quinalphos và cypermethrin trong bùn đáy theo thời vụ. D ư lư ợn g th uố c BV TV (µ g/ K g) 83 Kênh nội đồng có lưu lượng nước lớn hơn trên ruộng lúa và chịu ảnh hưởng bởi chế độ bán nhật triều (2 lần/ngày) đã tạo điều kiện cho dư lượng các hoạt chất nghiên cứu xáo trộn và pha loãng trong môi trường nước trước khi lắng tụ vào bùn đáy; kết quả có thể dẫn đến dư lượng thuốc BVTV khác biệt không có ý nghĩa thống kê theo thời gian. Ở vụ Hè – Thu và Thu – Đông là mùa mưa và lũ có thể cuốn trôi lượng thuốc BVTV từ bùn đáy vào môi trường nước và tăng sự hoà tan của thuốc trong nước, đặc biệt là hoạt chất fenobucarb và quinalphos. Kết quả phân tích dư lượng fenobucarb và quinalphos trong nước đã tăng theo thời gian khảo sát, trong khi dư lượng của 2 hoạt chất này trong bùn đáy khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Chỉ số PPBT của hoạt chất cypermethrin ở mức cao (The PPDB, 2016), nên dư lượng cypermethrin có khả năng lan truyền từ kênh nội đồng ra sông, rạch. Tỷ lệ này thường tăng cao ở mùa mưa (Watanabe et al. 2007; Samuel and Ireneo, 2013). Nguyên nhân khác dẫn đến dư lượng thuốc BVTV ở vụ Thu – Đông khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với vụ Hè – Thu và Đông – Xuân là do khu vực lúa 2 vụ/năm đã không canh tác vụ Thu - Đông. 4.2.3.3 Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên sông, rạch a. Dư lượng các hoạt chất nghiên cứu trong bùn đáy trên sông, rạch Hoạt chất propiconazole được tìm thấy trong 15/18 mẫu bùn đáy trên các sông, rạch khảo sát, với tần suất phát hiện là 83,3%, không phát trên rạch Mái Dầm. Đối với thuốc trừ sâu, tần suất phát hiện của fenobucarb cao nhất, chiếm 100%, tiếp theo là hoạt chất fipronil (66,7%). Tần suất phát hiện của quinalphos cao hơn cypermethrin, lần lượt là 51,9% và 44,4% (Bảng 4.14). Bảng 4.14: Dư lượng thuốc BVTV (µg/Kg) trong bùn đáy trên sông, rạch TSPH (%) Thấp nhất (µg/L) Cao nhất (µg/L) Trung bình (µg/L) Propiconazole 83,3 64,51 150,36 86,18 ±10,67 Cypermethrin 44,4 22,09 164,39 43,75 ± 5,64 Fenobucarb 100 2,65 72,72 19,00 ± 2,19 Quinalphos 51,9 0,36 12,60 4,45 ±0,58 Fipronil 66,7 0,66 15,62 4,59 ±1,46 Ghi chú: n = 18 (propiconazole, fipronil); n = 54 (fenobucarb, quinalphos và cypermethrin) Trung bình ±SE; TSPH: tần suất phát hiện. Ngưỡng phát hiện: propiconazole (≥0,001 µg/Kg); quinalphos (≥0,0001 µg/Kg); cypermethrin (≥0,0003 µg/Kg); fipronil (≥0,0001 µg/Kg) và fenobucarb (≥0,0002 µg/Kg); Kết quả ở Bảng 4.14 cho thấy hoạt chất propiconazole được tìm thấy trong bùn đáy trên các sông, rạch khảo sát (ngoại trừ rạch Mái Dầm), với giá trị thấp nhất là 64,51 µg/Kg, giá trị cao nhất là 150,36 µg/Kg và trung bình là 86,18 ±10,67 µg/Kg. Đối với thuốc trừ sâu, tần suất phát hiện của 84 cypermethrin thấp nhất, nhưng dư lượng cypermethrin cao hơn so với các hoạt chất thuốc trừ sâu còn lại trong nghiên cứu, có giá trị dao động 22,09 – 164,39 µg/Kg và trung bình là 43,75 ±5,64 µg/Kg. Dư lượng fenobucarb thấp hơn so với cypermethrin, dao động 2,65 – 72,72 µg/Kg và trung bình là 19 ±2,19 µg/Kg. Dư lượng quinalphos và fipronil chênh lệch không đáng kể, có giá trị trung bình lần lượt là 4,45 ±0,58 µg/Kg và 4,59 ±1,46 µg/Kg. Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên sông Cái Lớn, sông Lái Hiếu, sông Nàng Mau, sông Xà No, kênh Quản Lộ Phụng Hiệp và rạch Mái Dầm được thể hiện ở Bảng 4.15. Kết quả cho thấy dư lượng propiconazole khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các đoạn sông, rạch khảo sát với giá trị trung bình lần lượt là 117,51 ±16,43 µg/Kg trên sông Cái Lớn, 113,71 ±14,42 µg/Kg trên sông Lái Hiếu, 115,93 ±8,87 µg/Kg trên sông Nàng Mau, 89,01 ±11,78 µg/Kg trên sông Xà No và 81,48 ±9,18 µg/Kg trên kênh Quản Lộ Phụng Hiệp, không phát hiện trên rạch Mái Dầm. Tương tự propiconazole, dư lượng cypermethrin khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các sông, rạch nghiên cứu, lần lượt là 35,24 ±9,55 µg/Kg, 78,59 ±25,38 µg/Kg, 43,98 ±3,91 µg/Kg, 42,4 ±8,49 µg/Kg và 27,63 ±2,32 µg/Kg, không phát hiện trên sông Cái Lớn. Bảng 4.15: Dư lượng thuốc BVTV (µg/Kg) trong bùn đáy trên sông, rạch tại các vị trí nghiên cứu Khu vực Vị trí Propiconazole Cypermethrin Fenobucarb Quinalphos Fipronil 3 vụ/năm Cái Lớn 117,51 ±16,43a KPH 11,95 ±1,68b 1,48 ±0,11 b 11,67 ±2,83a Lái Hiếu 113,71 ±14,42a 35,24 ± 9,55a 22,64 ±4,26b 2,96 ±1,96ab 3,49 ±1,56b Nàng Mau 115,93 ± 8,87a 78,59 ±25,38a 14,20 ±2,10b 2,45 ±0,29ab 1,39 ±1,39b Xà No 89,01 ±11,78a 43,98 ± 3,91a 39,12 ±8,41a 6,44 ±0,84a 0,96 ±0,29b 2 vụ/năm Quản Lộ Phụng Hiệp 81,48 ± 9,18 a 42,40 ± 8,49a 20,57 ±3,02b 6,28 ±1,97a 0,83 ±0,56b Điểm tham chiếu Mái Dầm KPH 27,63 ± 2,32 a 5,53 ±1,01c 3,96 ±1,65ab KPH Ghi chú: n = 3 (propiconazole, fipronil); n = 9 (fenobucarb, quinalphos, cypermethrin); Trung bình ±SE. Ngưỡng phát hiện: propiconazole (≥0,001 µg/Kg); quinalphos (≥0,0001 µg/Kg); cypermethrin (≥0,0003 µg/Kg); fipronil (≥0,0001 µg/Kg) và fenobucarb (≥0,0002 µg/Kg); Dư lượng fenobucarb và quinalphos trên sông Xà No là 39,12 ±8,41 µg/Kg và 6,44 ±0,84 µg/Kg cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các sông, rạch còn lại. Điểm tham chiếu (rạch Mái Dầm) là khu vực không canh tác lúa, đã phát hiện fenobucarb và quinalphos trong bùn đáy, với giá trị trung bình là 5,53 ±1,01 µg/Kg và 3,96 ±1,65 µg/Kg tương ứng. Dư lượng fipronil trên sông Cái Lớn là 11,67 ±2,83 µg/Kg cao hơn so với trên sông Lái Hiếu, sông Nàng Mau, sông Xà No và kênh Quản Lộ Phụng Hiệp, không phát hiện trên rạch Mái Dầm (Bảng 4.15). 85 Sông Xà No, sông Cái Lớn, sông Lái Hiếu và sông Nàng Mau nhận nước thải từ các ruộng lúa 3 vụ/năm; kênh Quản Lộ Phụng Hiệp nhận nước thải từ các ruộng lúa 2 vụ/năm. Các hoạt chất nghiên cứu có chỉ số PPBT từ trung bình đến cao (The PPDB, 2016), nên các hoạt chất này có khả năng lan truyền từ ruộng lúa ra kênh nội đồng và ra sông, rạch. Chỉ số PPBT của propiconazole và cypermethrin ở mức cao, trong khi hoạt chất fenobucarb, quinalphos và fipronil có chỉ số PPBT ở mức trung bình; kết quả có thể dẫn đến dư lượng propiconazole và cypermethrin cao hơn so với fenobucarb, quinalphos và fipronil. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Blasing (2010) ở một số tỉnh ĐBSCL cho thấy hoạt chất có chỉ số PPBT càng cao khả năng lan truyền ra thuỷ vực lân cận càng cao. Sông, rạch có lưu lượng nước lớn và ảnh hưởng bởi chế độ bán nhật triều (2 lần/ngày) đã góp phần pha loãng dư lượng thuốc BVTV trong nước trước khi được hấp phụ bởi bùn đáy; vì vậy, tần suất phát hiện của các hoạt chất nghiên cứu trên sông, rạch thấp hơn so với trên kênh nội đồng và ruộng lúa; đồng thời dư lượng các hoạt chất này khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các sông, rạch khảo sát. Nghiên cứu Gustafson (1989) cho rằng hoạt chất thuốc BVTV có chỉ số GUS < 1,8 là không có khả năng trực di vào nước ngầm và GUS ≥ 1,8 là có khả năng trực di vào nước ngầm; theo đó hoạt chất propiconazole (GUS = 1,51), cypermethrin (GUS = -2,12), fenobucarb (GUS = 1,23) và quinalphos (GUS = 1,10) không trực di vào nước ngầm, ngoại trừ fipronil (GUS = 2,45) có mức độ trực di thấp, nên dư lượng các hoạt chất nghiên cứu được phát hiện ở tầng đất mặt. Nghiên cứu của Khairatul et al. (2013) cho thấy dư lượng propiconazole chỉ phát hiện ở lớp đất bền mặt (0 – 20 cm). Quy chuẩn Việt Nam (QCVN 15:2008/BTNMT) và Crommentuijn et al. (2000) đã quy định về dư lượng tối đa cho phép (MPC – Maximum permissible concentration) của fenobucarb, cypermethrin và quinalphos trong bùn đáy là 50 µg/Kg, 0,4 µg/Kg và 0,95 µg/Kg tương ứng; theo đó có 48,1% mẫu bùn đáy trên các sông, rạch đã bị nhiễm quinalphos vượt ngưỡng cho phép, 44,4% đối với cypermethrin và 7,4% đối với fenobucarb. Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy vượt ngưỡng cho phép có thể ảnh hưởng tiêu cực đến thành phần loài và số lượng cá thể ĐVĐ tại địa bàn nghiên cứu. 86 b. Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên sông, rạch theo thời vụ Kết quả Hình 4.17 cho thấy dư lượng fenobucarb trong bùn đáy trên sông, rạch tăng từ vụ Đông – Xuân đến vụ Hè – Thu và Thu – Đông, có giá trị trung bình là 9,54 ±0,9 µg/Kg; 19,23 ±3,25 µg/Kg và 28,24 ±4,82 µg/Kg tương ứng. Dư lượng quinalphos và cypermethrin khác biệt không có ý nghĩa thống kê theo thời gian. Dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy ở vụ Thu – Đông là 56,90 ±7,26 µg/Kg cao hơn có ý nghĩa thống kê so với vụ Hè – Thu là 32,38 ±7,00 µg/Kg, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với vụ Đông – Xuân là 39,68 ±12,49 µg/Kg. Hình 4.17 Biến động dư lượng thuốc BVTV trong bùn đáy trên sông, rạch theo thời vụ Ghi chú: n = 18; a,b: khác biệt có ý nghĩa thống kê (5%) kiểm định DUNCAN. Tổng: trung bình tổng dư lượng fenobucarb, quinalphos và cypermethrin trong bùn đáy theo thời vụ. Sông, rạch có lưu lượng nước lớn đã tạo điều kiện cho sự xáo trộn và pha loãng dư lượng thuốc BVTV trong nước trước khi lắng tụ vào bùn đáy, đặc biệt là vụ Hè – Thu và Thu – Đông là mùa mưa và lũ nên lưu lượng nước trên sông, rạch lớn hơn so với ở vụ Đông – Xuân; kết quả là dư lượng các hoạt chất nghiên cứu khác biệt không có ý nghĩa thống kê theo thời gian khảo sát. Hơn nữa, mưa và lũ cũng góp phần tăng cuốn trôi lượng thuốc BVTV từ bùn đáy và môi trường nước. Kết quả về dư lượng thuốc BVTV trong nước trên sông, rạch đã tăng theo thời gian khảo sát. D ư lư ợn g th uố c BV TV (µ g/ K g) 87 Ở vụ lúa Thu – Đông, dư lượng thuốc BVTV có xu hướng cao hơn so với ở vụ Hè – Thu và Đông – Xuân; điều này có thể là do lượng thuốc BVTV được sử dụng ở vụ Thu – Đông cao hơn các vụ khác trong năm (Pham Van Toan, 2011 và Chau et al. 2015). Dựa vào chỉ số PPBT và khả năng hấp phụ bởi bùn đáy (Koc) của các hoạt chất nghiên cứu từ trung bình đến cao; nên các hoạt chất này có thể lan truyền từ ruộng lúa và kênh nội đồng ra sông, rạch, sau đó được hấp phụ bởi bùn đáy. Bùn đáy trên các sông, rạch là nơi dự trữ dư lượng thuốc BVTV từ ruộng lúa trong quá trình canh tác (Stackelberg, 1997). Nghiên cứu của Agnihorti et al. (1986); Elisabeth et al. (2006), Alamgir et al. (2012) và Khairatul et al. (2013) cho rằng các hoạt chất nghiên cứu của đề tài đều có khả năng bị hấp phụ cao bởi bùn đáy. 4.2.3.4 Biến động dư lượng thuốc BVTV trong đất, bùn đáy theo loại hình thủy vực Kết quả Hình 4.18 cho thấy dư lượng propiconazole trong đất và bùn đáy đã giảm từ ruộng lúa và kênh nội đồng ra sông, rạch có giá trị trung bình lần lượt là 179,34 ±15,56 µg
File đính kèm:
luan_an_danh_gia_o_nhiem_thuoc_bao_ve_thuc_vat_tren_ruong_lu.pdf
Baocaotomtat-en_NguyenPhanNhan-08022018.pdf
Baocaotomtat-vi_NguyenPhanNhan-08022018.pdf
Thong tin luan an-en-08022018.doc
Thong tin luan an-vi-08022018.doc