Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 1

Trang 1

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 2

Trang 2

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 3

Trang 3

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 4

Trang 4

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 5

Trang 5

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 6

Trang 6

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 7

Trang 7

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 8

Trang 8

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 9

Trang 9

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 219 trang nguyenduy 11/10/2025 80
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế

Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế
– Cầu Hai thấp hơn mô hình nuôi lồng ở Kiên Giang. Do mô hình nuôi 
cá lồng nước lợ mặn ở ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ở quy mô nhỏ, thể 
tích lồng nhỏ từ 1 – 13,5m3, thả nhiều đối tượng trong cùng 1 lồng, mật độ 
thấp, Ngược lại, các mô hình nuôi lồng ở Kiên Giang chỉ nuôi đơn 1 đối 
tượng, kích cỡ lồng lớn (68,3 - 85,8 m3), mật độ thả cao (2,54 - 6,96 con/m3), 
đầu tư thức ăn, chăm sóc quản lý tốt nên hiệu quả cao hơn.
66 
Bảng 4.6. Sản lượng các đối tượng nuôi ở các mô hình nuôi ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai 
Ghi chú: TB.: Trung bình; STD.: Độ lệch chuẩn; Min.: Nhỏ nhất; Max.: Lớn nhất 
Mô hình Tôm Cua Cá Dìa 
Cá 
kình 
Cá đối 
Cá 
trắm 
Cá mú 
Cá 
hồng 
Cá 
chém 
Cá vẫu Cá nâu Cá bớp 
Ao đất 
(kg/ha/năm) 
TB. 442 430 477 115 942 - - - - - - - 
STD. 218,6 265,4 228,2 42,9 461,1 - - - - - - - 
Min. 120 250 150 30 300 - - - - - - - 
Max. 1.200 1.500 750 180 1.500 - - - - - - - 
Nuôi lồng 
(kg/100m3/năm) 
TB. - - 5 1 
740 84 82 66 83 7.4 70 
STD. - - 1,4 
24,1 23,9 23,2 12,1 24,2 1,9 
Min. - - 3 1 
500 500 500 500 500 5 70 
Max. - - 8 1 
1.000 125 125 83 125 11 70 
Chắn sáo 
(kg/ha/năm) 
TB. 300 408 550 102 - - - - - - - - 
STD. 104,8 135,1 195,4 35,2 - - - - - - - - 
Min. 180 250 300 60 - - - - - - - - 
Max. 600 750 900 150 - - - - - - - - 
67 
Đối với thuận lợi và khó khăn, qua khảo sát kết quả cho thấy, hoạt động 
NTTS ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có thuận lợi lớn nhất là về con giống 
chiếm 18,3%, tiếp đến là thuận lợi về vị trí nuôi với 17,8% và nguồn lao động 
với 14,8%, các thuận lợi khác có tỷ lệ thấp hơn (Hình 4.6). Sở dĩ, người dân cho 
rằng con giống là yếu tố thuận lợi nhất là vì người nuôi có thể thu vớt dễ dàng 
nguồn giống cá ở 2 cửa biển Thuận An và Tư Hiền. Do đó, chi phí con giống 
thấp hơn, sức đề kháng cao, ít khi bị thoái hóa giống do lai cận huyết, thích nghi 
tốt với môi trường đầm phánên hiệu quả nuôi cao. Vị trí nuôi cũng là yếu tố 
thuận lợi vì vùng nuôi sát với đầm phá nên việc lấy nước thuận lợi, ít tốn kém 
hơn so với bơm nước biển vào ao nuôi. Quy mô nuôi ở khu vực này nhỏ, mức 
nông hộ nên lao động trong nhà đáp ứng tốt với hoạt động NTTS. Do đó, người 
dân cho rằng lao động cũng là yếu tố thuận lợi lớn. Về khó khăn, kết quả nghiên 
cứu cho thấy khó khăn của hoạt động NTTS ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai 
khá đồng đều ở các khía cạnh, biến động từ 4,4 – 8,8%. Trong đó, 3 khó khăn 
thường gặp là giá bán (8,8%), thời gian nuôi dài (8,5%) và thời tiết (8,3%) (Hình 
4.7). Giá bán các đối tượng nuôi vào vụ thu hoạch thường bấp bênh và bị các 
chủ thu mua ép giá. Thời gian nuôi các đối tượng khá dài nhất là cá nên tiềm ẩn 
rủi ro cao. Những năm gần đây thời tiết chuyển biến thất thường làm môi trường 
nước thay đổi ảnh hưởng đến các đối tượng nuôi. Đây cũng là một trong những 
nguyên nhân chính gây ra dịch bệnh ở ao nuôi. Dịch bệnh còn xuất hiện từ nhiều 
nguyên nhân khác và càng ngày nuôi càng khó do dịch bệnh lây lan nhanh, khó 
kiểm soát, gây thiệt hại nghiệm trong cho các hộ nuôi. 
 Hình 4.6: Thuận lợi của hoạt động NTTS ven đầm phá 
8.80%
17.80%
4.50%
14.80%
18.30%
3.80%
5.50%
13.00%
13.30%
0.30% 0.30% Đất đai
Vị trí tốt
Ít bệnh
Lao động
Nguồn giống
Giá bán tốt
Vốn
Kinh nghiệm
Kỹ thuật nuôi
Đầu ra
Khác
68 
Hình 4.7: Khó khăn của hoạt động NTTS ven đầm phá 
Về giải pháp phát triển NTTS ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, các giải 
pháp được đưa ra bao gồm nguồn vốn, giống, chuyển đổi đất đai, hỗ trợ kỹ thuật, 
cơ sở hạ tầng, nuôi cá tạp, đầu ra sản phẩm và tích lũy kinh nghiệm. Trong đó, 
giải pháp cải thiện chất lượng giống, nhất là giống tôm sú chiếm tỷ lệ cao nhất 
với 23,2%, tiếp đến giải pháp về đầu ra sản phẩm với 16,1%, giải pháp hỗ trợ 
kỹ thuật và nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ lần lượt là 15,7% và 15,4%, các giải pháp 
khác chiếm tỷ lệ thấp hơn (Hình 4.8). 
Hình 4.8: Giải pháp phát triển hoạt động NTTS ven đầm phá 
4.40%
5.70%
8.80%
8.50%
7.70%
6.10%
7.50%7.90%
6.30%
6.90%
7.20%
8.30%
8.20%
6.40% Đất đai
Vị trí
Giá bán
Thời gian nuôi dài
Lao động
Giống
Thức ăn
Cơ sở hạ tầng
Kinh nghiệm
Kỹ thuật nuôi
Vốn
Thời tiết
Nhiều bệnh
Khác
15.40%
23.20%
0.70%
15.70%
10.90%
10.90%
16.10%
7.10%
Nguồn vốn vay Giống Chuyển đổi đất đai
Hỗ trợ kỹ thuật Cơ sở hạ tầng Nuôi cá tạp
Đầu ra sản phẩm Tích lũy kinh nghiệm
69 
4.2 Đánh giá CLN đầm phá Tam Giang – Cầu Hai 
4.2.1 Lựa chọn các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến CLN đầm phá 
Tam Giang – Cầu Hai 
4.2.1.1 Phân nhóm các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến CLN đầm 
phá 
Để đánh giá các nhóm chính các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến CLN 
đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, việc phân tích phân cụm theo thứ bậc (Hierarchy 
Cluster) được tiến hành và được thể hiện qua Hình 4.9. 
Hình 4.9: Đồ thị phân cụm theo thứ bậc các yếu tố môi trường 
Qua Hình 4.9 cho thấy, các yếu tố môi trường ở đầm phá Tam Giang – 
Cầu Hai có quan hệ với nhau và chia làm 2 nhóm chính. Nhóm 1 bao gồm các 
yếu tố N-NH4+, N-NH3, tổng coliform, BOD5, TSS, N-NO3-, P-PO43-. Nhóm 2 
bao gồm các yếu tố pH, TDS, độ mặn, độ kiềm, nhiệt độ và DO. Như vậy, sự 
phân tách nhóm bước đầu cho thấy tính chất môi trường nước tại khu vực nghiên 
cứu bị chi phối bởi các nhóm yếu tố khác nhau. Yếu tố dinh dưỡng, vi sinh, khí 
độc và ô nhiễm hữu cơ có xu hướng thuộc cùng về một nhóm và có quan hệ gần 
gũi với nhau, trong khi những yếu tố về vật chất hòa tan, các yếu tố nền được 
gộp thành nhóm riêng. 
Đồ thị phân tách thể hiện khá rõ mối quan hệ giữa các cặp yếu tố môi 
trường. Những yếu tố có tương quan chặt (có ảnh hưởng lẫn nhau) sẽ ở cùng 
một nhánh trong cùng một nhóm (như độ mặn và độ kiềm, BOD5 và TSS, N-
NH3 và tổng coliform, N-NO3- và P-PO43-...). 
70 
Tuy vậy, kết quả này chưa cho biết mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố đến 
tính chất môi trường toàn cục của khu vực nghiên cứu. Nói cách khác, đồ thị 
phân tách lớp theo thứ bậc chưa giải thích được nhóm yếu tố nào là nhóm tác 
động chính đến tính chất môi trường chung cũng như mức độ ảnh hưởng của 
từng yếu tố. Để có được thông tin chi tiết hơn, phân tích thành phần chính (PCA) 
của bộ dữ liệu các yếu tố môi trường tại khu vực nghiên cứu được tiến hành. 
4.2.1.2 Sự tác động của các yếu tố môi trường đến CLN ở đầm phá 
Tam Giang – Cầu Hai 
Qua Hình 
4.10 cho thấy 
có 10 thành 
phần góp phần 
giải thích sự 
biến động về 
tính chất môi 
trường tại khu 
vực nghiên cứu. 
Trong phân tích 
thành phần 
chính (PCA), 
chỉ có những 
nhân tố nào có 
chỉ số eigenvalue lớn hơn 1 mới được giữ lại trong mô hình phân tích. Do đó, 2 
thành phần đầu tiên (PC1 và PC2) có chỉ số eigenvalue lớn hơn 1 nên được chọn 
là thành phần chính. PC1 và PC2 đã giải thích 79,7% sự biến đổi về CLN ở đầm 
phá Tam Giang – Cầu Hai. 
Hình 4.10: Đồ thị mức đóng góp (%) của các thành phần 
(PC) 
71 
Biểu đồ ở 
Hình 4.11 thể 
hiện các nhóm 
môi trường trên 
hệ trục tọa độ 
vuông góc. Kết 
quả này phù hợp 
với đồ thị phân 
tách nhóm theo 
thứ bậc ở Hình 
4.9. Theo đó, 
yếu tố nhiệt độ, 
pH, DO, độ 
mặn, độ kiềm, 
TDS thuộc về 
một phía của hệ 
trục tọa độ trong 
khi N-NO3-, P-
PO43-, N-NH4+, N-NH3, BOD5, TSS, tổng coliform thuộc về phía kia. Biểu đồ 
cũng chỉ rõ mức độ gần gũi của nhóm các yếu tố, chẳng hạn yếu tố độ mặn và 
độ kiềm, BOD5 và TSS... Màu sắc và độ dài của mũi tên chỉ hệ số tương quan 
với các thành phần chính (PC1 và PC2). 
Mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố ở mỗi thành phần chính được khẳng 
định thông qua hệ số tương quan và giá trị p ở Bảng 4.7. Sự tương quan này rất 
chặt cho thấy việc khẳng định sự chi phối chính của các yếu tố môi trường ở 
thành phần 1 (PC1) hoàn toàn được tin cậy. 
Bảng 4.7: Hệ số tương quan giữa các yếu tố với thành phần chính PC1 và PC2 
Thành phần chính (PC) Yếu tố Hệ số tương quan Giá trị p 
1 
TSS 0,93 0,00 
BOD 0,90 0,00 
TC 0,89 0,00 
N-NH3 0,88 0,00 
N-NO3- 0,86 0,00 
P-PO43- 0,82 0,00 
DO -0,79 0,00 
2 
Độ kiềm 0,70 0,00 
Độ mặn 0,69 0,00 
TDS 0,64 0,00 
pH 0,54 0,00 
Thành phần 1-PC1 
(61,1%) 
T
h
àn
h
 p
h
ần
 2
-P
C
2
(1
8
,6
%
) 
Hình 4.11: Biểu đồ giải thích nhóm các yếu tố tác động 
chính đến tính chất môi trường tại khu vực nghiên cứu 
72 
Bảng 4.7 thể hiện rõ hệ số tương quan Pearson và giá trị p của các yếu tố 
được phân tích với thành phần chính PC1 và PC2. TSS có hệ số tương quan với 
thành phần chính 1 (PC1) lớn nhất với 0,93. Trong PC2, yếu tố độ kiềm có 
tương quan lớn nhất với 0,70. 
Thành phần thứ nhất (PC1) giải thích 61,1% sự biến động tính chất môi 
trường tại khu vực nghiên cứu được thể hiện qua Hình 4.12. Trong thành phần 
này, nhóm các yếu tố như TSS, BOD5, tổng coliform, N-NH3, N-NO3-, P-PO43-
, DO là những yếu tố tác động và chi phối chính. Trong đó, TSS giải thích nhiều 
nhất với mức đóng góp hơn 10,5%. Như vậy, các yếu tố trong PC1 thiên về 
nhóm ô nhiễm (hữu cơ, khí độc và vi sinh) và tạm gọi là nhóm hữu cơ – khí độc 
– vi sinh. Trong khi đó, thành phần thứ 2 (PC2) giải thích khoảng 18,6% sự biến 
động về tính chất môi trường ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai và được thể hiện 
qua Hình 4.13. Nhóm này có 4 yếu tố chính bao gồm độ kiềm, độ mặn, TDS và 
pH, trong đó yếu tố độ kiềm đóng góp hơn 20% vào thành phần PC2. 
Như vậy, qua phân tích thành phần chính (PCA) các yếu tố ảnh hưởng đến 
CLN đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, nghiên cứu đã xác định được 11 yếu tố 
bao gồm: TSS, BOD5, tổng coliform, N-NH3, N-NO3-, P-PO43-, DO, độ kiềm, độ 
mặn, TDS và pH. Các yếu tố này đã giải thích được 79,7% sự biến đổi về CLN 
ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. 
73 
Hình 4.12: Mức độ đóng góp của mỗi yếu tố đến thành phần thứ nhất (PC1) 
Hình 4.13: Mức độ đóng góp của mỗi yếu tố đến thành phần thứ hai (PC2) 
Mức độ đóng góp của các biến vào PC1 
M
ứ
c 
đ
ó
n
g
 g
ó
p
 (
%
) 
Mức độ đóng góp của các biến vào PC2 
M
ứ
c 
đ
ó
n
g
 g
ó
p
 (
%
) 
74 
4.2.1.3 Mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường ở đầm phá Tam Giang 
– Cầu Hai 
Mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường được thể hiện qua Hình 4.14. 
Hình 4.14: Đồ thị Correlogram biểu diễn tương quan giữa các yếu tố môi trường 
Trong đó: Cột màu từ -1 đến 1 biểu diễn hệ số tương quan; Giá trị trong mỗi ô 
vuông là hệ số tương quan Pearson. Giá trị âm thể hiện tương quan nghịch và 
giá trị dương thể hiện tương quan thuận. 
Các yếu tố môi trường ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có tương quan 
với nhau từ mức độ ít chặt chẽ đến rất chặt chẽ và có cả tương quan thuận lẫn 
tương quan nghịch. Một số cặp yếu tố có hệ số tương quan lớn (trên 0,9) thể 
hiện quan hệ rất chặt chẽ với nhau như độ mặn - độ kiềm (0,95), N-NH3 – tổng 
coliform (0,92). 
75 
4.2.2 Đánh giá CLN đầm phá Tam Giang – Cầu Hai thông qua từng 
thông số 
4.2.1.1 Đánh giá nhóm các thông số cơ bản (pH, DO, độ mặn, độ kiềm, 
TDS) 
a. Theo thời gian 
Sự biến động theo ngày đêm và theo mùa của yếu tố pH được thể hiện qua 
Bảng 4.8 và các yếu tố DO, độ mặn, độ kiềm, TDS trong quá trình nghiên cứu 
được thể hiện ở Bảng 4.9. 
Bảng 4.8: Biến động yếu tố pH theo thời gian 
Thời gian Nhỏ nhất Lớn nhất Độ lệch chuẩn 
Ban ngày 
6h 7,04 8,33 0,311 
9h 7,16 8,45 0,299 
12h 7,27 8,56 0,295 
15h 7,23 8,46 0,290 
Ban đêm 
0h 6,93 8,30 0,314 
3h 6,99 8,32 0,310 
18h 7,18 8,36 0,292 
21h 7,06 8,33 0,287 
Mùa khô 
Tháng 5 6,81 8,92 0,501 
Tháng 8 6,13 8,74 0,538 
Mùa mưa 
Tháng 2 6,47 8,83 0,533 
Tháng 10 6,17 8,44 0,490 
Tháng 12 5,98 8,56 0,521 
Yếu tố pH: Giá trị pH ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai biến động theo 
ngày đêm khá lớn từ 6,93-8,56 và ban ngày cao hơn ban đêm có ý nghĩa thống 
kê với p<0,05. Ban ngày, thời điểm 6h có mức biến động pH lớn nhất từ 7,04-
8,33 với độ lệch chuẩn là 0,311. Ban đêm, mức biến động pH lớn nhất là thời 
điểm 0h từ 6,93-8,30 với độ lệch chuẩn là 0,314. pH của các nguồn nước mặt 
thường giao động trong ngày do quá trình quang hợp và hô hấp của thủy sinh 
vật. Do cả 2 quá trình đều tồn tại song song nhưng được thúc đẩy hay ức chế 
bởi cường độ ánh sáng nên lượng CO2 biến động kéo theo sự biến đổi của pH 
trong ngày: ban đêm pH giảm và tăng vào ban ngày khi quá trình quang hợp 
xảy ra mạnh (Lê Văn Cát và ctv., 2006). Giá trị pH dao động hàng ngày không 
76 
được vượt quá 0,5 là thích hợp cho nuôi tôm sú (Chanratchakool et al., 1995). 
Như vậy, pH theo ngày đêm ở đầm phá phù hợp cho nuôi tôm sú do độ lệch 
chuẩn ở các thời điểm trong ngày chỉ 0,3. pH trung bình ngày đêm ở đầm phá 
Tam Giang – Cầu Hai cũng thích hợp cho hoạt động nuôi tôm (pH=7-9) theo 
QCVN02-19:2014 (Bộ NNPTNT, 2014). 
Theo mùa, pH biến động lớn giữa mùa mưa và mùa khô từ 5,98-8,92. Ở 
mùa khô, pH biến động từ 6,13-8,92 và mùa mưa biến động từ 5,98-8,83. Giá 
trị pH có xu hướng tăng dần từ mùa mưa đến mùa khô và sai khác giữa các mùa 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Do vào mùa mưa, lượng mưa nhiều nên có sự rửa 
trôi chất hữu cơ từ bờ vào môi trường nước đầm phá, làm tăng hàm lượng chất 
hữu cơ. Lượng chất hữu cơ này sẽ bị phân hủy hiếu khí. Do đó, nhu cầu oxy cho 
các VSV phân hủy chất hữu cơ, cho các phản ứng oxy hóa cao làm giảm lượng 
oxy hòa tan trong nước đồng thời làm tăng nồng độ khí CO2 trong nước, CO2 
kết hợp với nước tạo thành H2CO3 là một loại axít yếu nên dễ dàng phân ly làm 
tăng nồng độ ion H+, đây là nguyên nhân làm pH giảm. Bên cạnh đó, các cơn 
mưa giông axít vào mùa mưa cũng làm giảm pH. Giá trị pH trong nghiên cứu 
này tương đương so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Hợp và ctv., (2007) (5,50-
9,00), tương đương với đầm Thị Nại, Bình Định (7,04-8,07), đầm Thủy Triều, 
Khánh Hòa (7,75-8,07) (Lê Thị Vinh, 2015), đầm Lăng Cô, Thừa Thiên Huế 
(7,56-8,38) (Đặng Hoài Nhơn, 2008) và đầm Nại, Ninh Thuận (7,96-8,25) (Lê 
Thị Vinh, 2015). Theo Chanratchakool et al. (1995), pH thích hợp cho sự sinh 
trưởng tối ưu của tôm sú từ 7,5-8,35 và theo QCVN02-19:2014, pH thích hợp 
cho nuôi tôm là từ 7-9 (Bộ NNPTNT, 2014). Như vậy, pH ở đầm phá thích hợp 
cho nuôi tôm sú ngoại trừ một số điểm ở phía Bắc đầm phá chưa phù hợp vì 
pH<7. 
Yếu tố DO: Hàm lượng DO trong khu vực đầm phá Tam Giang – Cầu 
Hai đo được vào ban ngày cao hơn ban đêm. Hàm lượng DO trung bình ban 
ngày là 6,38±0,961 mg/L và ban đêm là 5,74±0,998 mg/L. Hàm lượng DO 
chênh lệch ngày đêm nhỏ, chỉ khoảng 1,5 mg/L. So sánh với QCVN02-19:2014, 
hàm lượng DO ngày đêm ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai nằm trong giới hạn 
cho phép nuôi tôm (DO≥3,5 mg/L). Kiểm định thống kê cho thấy hàm lượng 
DO ban ngày cao hơn ban đêm có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Theo Lê Văn 
Cát và ctv. (2006), ban ngày, thực vật thủy sinh quang hợp mạnh làm tăng hàm 
lượng DO. Trái lại, ban đêm, quá trình hô hấp của thủy sinh vật tiêu thụ nhiều 
oxy, làm giảm hàm lượng DO trong nước và đạt mức thấp nhất vào sáng sớm. 
Đây là lý do hàm lượng DO ban ngày cao hơn ban đêm ở đầm phá Tam Giang 
– Cầu Hai. 
77 
Theo mùa, hàm lượng DO trung bình mùa khô là 5,58±0,880 mg/L và mùa 
mưa là 5,06±0,799 mg/L. Hàm lượng DO trung bình cao nhất vào tháng 5 với 
5,95±0,846 mg/L và thấp nhất vào tháng 12 với 4,98±0,792 mg/L. Như vậy, DO 
có xu hướng giảm dần từ mùa khô cho đến mùa mưa và sai khác giữa các mùa 
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Hiện tượng này do sự giảm dần cường độ ánh 
sáng mặt trời từ mùa khô qua mùa mưa nên làm giảm khả năng quang hợp của 
tảo và thực vật có trong nước, dẫn đến làm giảm lượng oxy hòa tan có trong 
thủy vực. Ngoài ra, trong mùa mưa, hàm lượng chất hữu cơ từ các nguồn thải 
rửa trôi đổ vào đầm phá lớn nên quá trình phân giải hiếu khí chất hữu cơ của vi 
sinh vật đã làm giảm DO trong nước. Kết quả nghiên cứu này thấp hơn so với 
nghiên cứu của Nguyễn Văn Hợp và ctv. (2007) với DO trung bình là 6,67-6,86 
mg/L. Hàm lượng DO của đầm phá Tam Giang – Cầu Hai tương đương với đầm 
Thị Nại, Bình Định (4,29-6,64 mg/L), đầm Ô Loan, Phú Yên (3,99-6,54 mg/L), 
nhưng thấp hơn so với đầm Đề Gi, Bình Định (6,02-7,74 mg/L), đầm Thủy 
Triều, Khánh Hòa (5,54-7,64 mg/L) và đầm Nại, Ninh Thuận (6,53-7,44 mg/L) 
(Lê Thị Vinh, 2015). Theo Boyd (1990), hàm lượng DO tối ưu cho các loài thủy 
sản là trên 5 mg/L. Do đó, hàm lượng DO đầm phá Tam Giang – Cầu Hai vào 
mùa khô và mùa mưa khá phù hợp cho các loài thủy sản sinh sống. So sánh với 
QCVN02-19:2014 thì hàm lượng DO có trong thủy vực qua các mùa đều phù 
hợp cho mục đích nuôi tôm (DO≥3,5 mg/L) (Bộ NNPTNT, 2014). 
Yếu tố độ mặn: Độ mặn ban ngày cao hơn ban đêm, tuy nhiên sự sai khác 
này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Độ mặn trung bình ban ngày là 
15,5±7,81‰ và ban đêm là 14,6±7,71‰. Độ mặn chênh lệch ngày đêm rất nhỏ 
(0,9‰). Mức chênh lệch độ mặn theo ngày đêm ở đầm phá Tam Giang – Cầu 
Hai không ảnh hưởng nhiều đến tôm vì tôm chỉ bị mất cân bằng khi chênh lệch 
độ mặn vượt quá 1-2‰/giờ (Boyd, 1990). So sánh với QCVN02-19:2014, độ 
mặn ban ngày và ban đêm đều thích hợp cho nuôi tôm (5-35‰) (Bộ NNPTNT, 
2014). 
Độ mặn trung bình mùa khô (14,1±6,94‰) cao hơn mùa mưa 
(10,2±5,57‰) và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tháng 5 có độ mặn trung bình 
cao nhất với 17,1±6,93‰ và tháng 12 có độ mặn thấp nhất với 9,3±5,26‰. Độ 
mặn có xu hướng tăng dần từ mùa mưa đến mùa khô. Theo Nguyễn Văn Hợp 
và ctv. (2007), pH của đầm phá phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mùa trong năm, 
thủy triều, lưu lượng nước từ các sông đổ vào đầm phá... Vào mùa khô, đầm 
phá chịu tác động mạnh của thủy triều qua 2 cửa (Thuận An và Tư Hiền), nên 
pH thường cao và ổn định hơn mùa mưa. Thêm vào đó, do mùa mưa, lượng 
nước ngọt từ mưa và từ các nguồn ven đầm phá như sông, kênh thải...đổ vào 
đầm phá nhiều hơn nên làm giảm độ mặn so với mùa khô. Kết quả nghiên cứu 
78 
độ mặn của nghiên cứu này khá phù hợp với nghiên cứu về độ mặn ở đầm phá 
Tam Giang – Cầu Hai của Nguyễn Văn Hợp và ctv. (2007) với độ mặn trung 
bình từ 8,2-17,7‰. Độ mặn đầm phá Tam Giang – Cầu Hai thấp hơn một số 
đầm phá ven biển khác như đầm Lăng Cô, Thừa Thiên Huế (24,3-31,2) (Đặng 
Hoài Nhơn, 2008), đầm Đề Gi, Bình Định (32,3-33,6‰), đầm Thủy Triều, 
Khánh Hòa (30,5-34,1‰), đầm Nại, Ninh Thuận (33,3-34‰) (Lê Thị Vinh, 
2015). Theo Boyd (1990), cá trắm cỏ có thể sống ở độ mặn từ 0-14‰, cá rô phi 
từ 0-40‰, tôm sú từ 5-31‰, tôm thẻ chân trắng sinh trưởng tối ưu ở độ mặn từ 
15-25‰. Do đó, độ mặn ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai vào mùa mưa và mùa 
khô thích hợp cho các đối tượng thủy sản. So sánh với QCVN02-19:2014, độ 
mặn ở đầm phá phù hợp cho lấy nước nuôi tôm (5-35‰) (Bộ NNPTNT, 2014). 
Yếu tố độ kiềm: Độ kiềm trung bình ban ngày cao hơn ban đêm, tuy nhiên 
mức chênh lệch rất nhỏ, chỉ khoảng 2 mg/L và sai khác không có ý nghĩa thống 
kê (p>0,05). Độ kiềm trung bình ban ngày là 64,5±22,48 mg/L và ban đêm là 
62,2±22,36 mg/L. So sánh với QCVN02-19:2014 cho thấy độ kiềm ban ngày 
và ban đêm đều nằm trong giới hạn cho phép (60-180 mg/L) (Bộ NNPTNT, 
2014). Như vậy, độ kiềm ban ngày và ban đêm tương đối phù hợp cho hoạt động 
nuôi tôm ven đầm phá. 
Theo mùa, độ kiềm trung bình mùa khô là 61,9±22,79 mg/L và mùa mưa 
là 46,9±19,60 mg/L. Độ kiềm trung bình cao nhất vào tháng 5 với 71,6±22,43 
mg/L và thấp nhất vào tháng 12 với 43,5±19,36 mg/L. Độ kiềm mùa khô cao 
hơn mùa mưa có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Theo Nguyễn Đình Trung (2004), 
độ kiềm của nước tự nhiên được quy ước bởi sự có mặt của các ion kiềm và 
kiềm thổ Na+, K+, Ca2+, Mg2+ có trong nước, kết hợp với các axit yếu, trước hết 
là axit carbonic H2CO3. Cho nên, độ kiềm là chỉ số các dạng chủ yếu của các 
ion HCO3- và CO32- ở trong nước. Do đó, vào mùa khô, nước đầm phá có độ 
mặn cao hơn mùa mưa nên lượng bazơ như carbonate (CO32-) và bicarbonate 
(HCO3-)... nhiều hơn mùa mưa. Khi lượng bazơ trong nước nhiều sẽ làm tăng 
độ kiềm trong nước. Đối với các loài thủy sản nước lợ mặn, độ kiềm thích hợp 
nên lớn hơn 80 mg/L (Nguyễn Đình Trung, 2004). Theo Trần Văn Hòa và ctv. 
(2001), độ kiềm để tôm sú có thể sống được phải cao hơn 60 mg/L, tối ưu là 80-
120 mg/L và theo QCVN02-19:2014, độ kiềm thích hợp cho lấy nước nuôi tôm 
là 60-180 mg/L (Bộ NNPTNT, 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_danh_gia_va_du_bao_chat_luong_nuoc_nuoi_trong_thuy_s.pdf
  • pdfEn_TOM TAT_fullname.pdf
  • docxEn_Trang thong tin luan an_TVD_final.docx
  • pdfVi_TOM TAT_fullname.pdf
  • docxVi_Trang thong tin luan an_TVD_final.docx