Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đánh giá và dự báo chất lượng nước nuôi trồng thủy sản ở đầm Phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế

– Cầu Hai thấp hơn mô hình nuôi lồng ở Kiên Giang. Do mô hình nuôi cá lồng nước lợ mặn ở ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ở quy mô nhỏ, thể tích lồng nhỏ từ 1 – 13,5m3, thả nhiều đối tượng trong cùng 1 lồng, mật độ thấp, Ngược lại, các mô hình nuôi lồng ở Kiên Giang chỉ nuôi đơn 1 đối tượng, kích cỡ lồng lớn (68,3 - 85,8 m3), mật độ thả cao (2,54 - 6,96 con/m3), đầu tư thức ăn, chăm sóc quản lý tốt nên hiệu quả cao hơn. 66 Bảng 4.6. Sản lượng các đối tượng nuôi ở các mô hình nuôi ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai Ghi chú: TB.: Trung bình; STD.: Độ lệch chuẩn; Min.: Nhỏ nhất; Max.: Lớn nhất Mô hình Tôm Cua Cá Dìa Cá kình Cá đối Cá trắm Cá mú Cá hồng Cá chém Cá vẫu Cá nâu Cá bớp Ao đất (kg/ha/năm) TB. 442 430 477 115 942 - - - - - - - STD. 218,6 265,4 228,2 42,9 461,1 - - - - - - - Min. 120 250 150 30 300 - - - - - - - Max. 1.200 1.500 750 180 1.500 - - - - - - - Nuôi lồng (kg/100m3/năm) TB. - - 5 1 740 84 82 66 83 7.4 70 STD. - - 1,4 24,1 23,9 23,2 12,1 24,2 1,9 Min. - - 3 1 500 500 500 500 500 5 70 Max. - - 8 1 1.000 125 125 83 125 11 70 Chắn sáo (kg/ha/năm) TB. 300 408 550 102 - - - - - - - - STD. 104,8 135,1 195,4 35,2 - - - - - - - - Min. 180 250 300 60 - - - - - - - - Max. 600 750 900 150 - - - - - - - - 67 Đối với thuận lợi và khó khăn, qua khảo sát kết quả cho thấy, hoạt động NTTS ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có thuận lợi lớn nhất là về con giống chiếm 18,3%, tiếp đến là thuận lợi về vị trí nuôi với 17,8% và nguồn lao động với 14,8%, các thuận lợi khác có tỷ lệ thấp hơn (Hình 4.6). Sở dĩ, người dân cho rằng con giống là yếu tố thuận lợi nhất là vì người nuôi có thể thu vớt dễ dàng nguồn giống cá ở 2 cửa biển Thuận An và Tư Hiền. Do đó, chi phí con giống thấp hơn, sức đề kháng cao, ít khi bị thoái hóa giống do lai cận huyết, thích nghi tốt với môi trường đầm phánên hiệu quả nuôi cao. Vị trí nuôi cũng là yếu tố thuận lợi vì vùng nuôi sát với đầm phá nên việc lấy nước thuận lợi, ít tốn kém hơn so với bơm nước biển vào ao nuôi. Quy mô nuôi ở khu vực này nhỏ, mức nông hộ nên lao động trong nhà đáp ứng tốt với hoạt động NTTS. Do đó, người dân cho rằng lao động cũng là yếu tố thuận lợi lớn. Về khó khăn, kết quả nghiên cứu cho thấy khó khăn của hoạt động NTTS ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai khá đồng đều ở các khía cạnh, biến động từ 4,4 – 8,8%. Trong đó, 3 khó khăn thường gặp là giá bán (8,8%), thời gian nuôi dài (8,5%) và thời tiết (8,3%) (Hình 4.7). Giá bán các đối tượng nuôi vào vụ thu hoạch thường bấp bênh và bị các chủ thu mua ép giá. Thời gian nuôi các đối tượng khá dài nhất là cá nên tiềm ẩn rủi ro cao. Những năm gần đây thời tiết chuyển biến thất thường làm môi trường nước thay đổi ảnh hưởng đến các đối tượng nuôi. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra dịch bệnh ở ao nuôi. Dịch bệnh còn xuất hiện từ nhiều nguyên nhân khác và càng ngày nuôi càng khó do dịch bệnh lây lan nhanh, khó kiểm soát, gây thiệt hại nghiệm trong cho các hộ nuôi. Hình 4.6: Thuận lợi của hoạt động NTTS ven đầm phá 8.80% 17.80% 4.50% 14.80% 18.30% 3.80% 5.50% 13.00% 13.30% 0.30% 0.30% Đất đai Vị trí tốt Ít bệnh Lao động Nguồn giống Giá bán tốt Vốn Kinh nghiệm Kỹ thuật nuôi Đầu ra Khác 68 Hình 4.7: Khó khăn của hoạt động NTTS ven đầm phá Về giải pháp phát triển NTTS ven đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, các giải pháp được đưa ra bao gồm nguồn vốn, giống, chuyển đổi đất đai, hỗ trợ kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, nuôi cá tạp, đầu ra sản phẩm và tích lũy kinh nghiệm. Trong đó, giải pháp cải thiện chất lượng giống, nhất là giống tôm sú chiếm tỷ lệ cao nhất với 23,2%, tiếp đến giải pháp về đầu ra sản phẩm với 16,1%, giải pháp hỗ trợ kỹ thuật và nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ lần lượt là 15,7% và 15,4%, các giải pháp khác chiếm tỷ lệ thấp hơn (Hình 4.8). Hình 4.8: Giải pháp phát triển hoạt động NTTS ven đầm phá 4.40% 5.70% 8.80% 8.50% 7.70% 6.10% 7.50%7.90% 6.30% 6.90% 7.20% 8.30% 8.20% 6.40% Đất đai Vị trí Giá bán Thời gian nuôi dài Lao động Giống Thức ăn Cơ sở hạ tầng Kinh nghiệm Kỹ thuật nuôi Vốn Thời tiết Nhiều bệnh Khác 15.40% 23.20% 0.70% 15.70% 10.90% 10.90% 16.10% 7.10% Nguồn vốn vay Giống Chuyển đổi đất đai Hỗ trợ kỹ thuật Cơ sở hạ tầng Nuôi cá tạp Đầu ra sản phẩm Tích lũy kinh nghiệm 69 4.2 Đánh giá CLN đầm phá Tam Giang – Cầu Hai 4.2.1 Lựa chọn các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến CLN đầm phá Tam Giang – Cầu Hai 4.2.1.1 Phân nhóm các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến CLN đầm phá Để đánh giá các nhóm chính các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến CLN đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, việc phân tích phân cụm theo thứ bậc (Hierarchy Cluster) được tiến hành và được thể hiện qua Hình 4.9. Hình 4.9: Đồ thị phân cụm theo thứ bậc các yếu tố môi trường Qua Hình 4.9 cho thấy, các yếu tố môi trường ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có quan hệ với nhau và chia làm 2 nhóm chính. Nhóm 1 bao gồm các yếu tố N-NH4+, N-NH3, tổng coliform, BOD5, TSS, N-NO3-, P-PO43-. Nhóm 2 bao gồm các yếu tố pH, TDS, độ mặn, độ kiềm, nhiệt độ và DO. Như vậy, sự phân tách nhóm bước đầu cho thấy tính chất môi trường nước tại khu vực nghiên cứu bị chi phối bởi các nhóm yếu tố khác nhau. Yếu tố dinh dưỡng, vi sinh, khí độc và ô nhiễm hữu cơ có xu hướng thuộc cùng về một nhóm và có quan hệ gần gũi với nhau, trong khi những yếu tố về vật chất hòa tan, các yếu tố nền được gộp thành nhóm riêng. Đồ thị phân tách thể hiện khá rõ mối quan hệ giữa các cặp yếu tố môi trường. Những yếu tố có tương quan chặt (có ảnh hưởng lẫn nhau) sẽ ở cùng một nhánh trong cùng một nhóm (như độ mặn và độ kiềm, BOD5 và TSS, N- NH3 và tổng coliform, N-NO3- và P-PO43-...). 70 Tuy vậy, kết quả này chưa cho biết mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố đến tính chất môi trường toàn cục của khu vực nghiên cứu. Nói cách khác, đồ thị phân tách lớp theo thứ bậc chưa giải thích được nhóm yếu tố nào là nhóm tác động chính đến tính chất môi trường chung cũng như mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố. Để có được thông tin chi tiết hơn, phân tích thành phần chính (PCA) của bộ dữ liệu các yếu tố môi trường tại khu vực nghiên cứu được tiến hành. 4.2.1.2 Sự tác động của các yếu tố môi trường đến CLN ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai Qua Hình 4.10 cho thấy có 10 thành phần góp phần giải thích sự biến động về tính chất môi trường tại khu vực nghiên cứu. Trong phân tích thành phần chính (PCA), chỉ có những nhân tố nào có chỉ số eigenvalue lớn hơn 1 mới được giữ lại trong mô hình phân tích. Do đó, 2 thành phần đầu tiên (PC1 và PC2) có chỉ số eigenvalue lớn hơn 1 nên được chọn là thành phần chính. PC1 và PC2 đã giải thích 79,7% sự biến đổi về CLN ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Hình 4.10: Đồ thị mức đóng góp (%) của các thành phần (PC) 71 Biểu đồ ở Hình 4.11 thể hiện các nhóm môi trường trên hệ trục tọa độ vuông góc. Kết quả này phù hợp với đồ thị phân tách nhóm theo thứ bậc ở Hình 4.9. Theo đó, yếu tố nhiệt độ, pH, DO, độ mặn, độ kiềm, TDS thuộc về một phía của hệ trục tọa độ trong khi N-NO3-, P- PO43-, N-NH4+, N-NH3, BOD5, TSS, tổng coliform thuộc về phía kia. Biểu đồ cũng chỉ rõ mức độ gần gũi của nhóm các yếu tố, chẳng hạn yếu tố độ mặn và độ kiềm, BOD5 và TSS... Màu sắc và độ dài của mũi tên chỉ hệ số tương quan với các thành phần chính (PC1 và PC2). Mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố ở mỗi thành phần chính được khẳng định thông qua hệ số tương quan và giá trị p ở Bảng 4.7. Sự tương quan này rất chặt cho thấy việc khẳng định sự chi phối chính của các yếu tố môi trường ở thành phần 1 (PC1) hoàn toàn được tin cậy. Bảng 4.7: Hệ số tương quan giữa các yếu tố với thành phần chính PC1 và PC2 Thành phần chính (PC) Yếu tố Hệ số tương quan Giá trị p 1 TSS 0,93 0,00 BOD 0,90 0,00 TC 0,89 0,00 N-NH3 0,88 0,00 N-NO3- 0,86 0,00 P-PO43- 0,82 0,00 DO -0,79 0,00 2 Độ kiềm 0,70 0,00 Độ mặn 0,69 0,00 TDS 0,64 0,00 pH 0,54 0,00 Thành phần 1-PC1 (61,1%) T h àn h p h ần 2 -P C 2 (1 8 ,6 % ) Hình 4.11: Biểu đồ giải thích nhóm các yếu tố tác động chính đến tính chất môi trường tại khu vực nghiên cứu 72 Bảng 4.7 thể hiện rõ hệ số tương quan Pearson và giá trị p của các yếu tố được phân tích với thành phần chính PC1 và PC2. TSS có hệ số tương quan với thành phần chính 1 (PC1) lớn nhất với 0,93. Trong PC2, yếu tố độ kiềm có tương quan lớn nhất với 0,70. Thành phần thứ nhất (PC1) giải thích 61,1% sự biến động tính chất môi trường tại khu vực nghiên cứu được thể hiện qua Hình 4.12. Trong thành phần này, nhóm các yếu tố như TSS, BOD5, tổng coliform, N-NH3, N-NO3-, P-PO43- , DO là những yếu tố tác động và chi phối chính. Trong đó, TSS giải thích nhiều nhất với mức đóng góp hơn 10,5%. Như vậy, các yếu tố trong PC1 thiên về nhóm ô nhiễm (hữu cơ, khí độc và vi sinh) và tạm gọi là nhóm hữu cơ – khí độc – vi sinh. Trong khi đó, thành phần thứ 2 (PC2) giải thích khoảng 18,6% sự biến động về tính chất môi trường ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai và được thể hiện qua Hình 4.13. Nhóm này có 4 yếu tố chính bao gồm độ kiềm, độ mặn, TDS và pH, trong đó yếu tố độ kiềm đóng góp hơn 20% vào thành phần PC2. Như vậy, qua phân tích thành phần chính (PCA) các yếu tố ảnh hưởng đến CLN đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, nghiên cứu đã xác định được 11 yếu tố bao gồm: TSS, BOD5, tổng coliform, N-NH3, N-NO3-, P-PO43-, DO, độ kiềm, độ mặn, TDS và pH. Các yếu tố này đã giải thích được 79,7% sự biến đổi về CLN ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. 73 Hình 4.12: Mức độ đóng góp của mỗi yếu tố đến thành phần thứ nhất (PC1) Hình 4.13: Mức độ đóng góp của mỗi yếu tố đến thành phần thứ hai (PC2) Mức độ đóng góp của các biến vào PC1 M ứ c đ ó n g g ó p ( % ) Mức độ đóng góp của các biến vào PC2 M ứ c đ ó n g g ó p ( % ) 74 4.2.1.3 Mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai Mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường được thể hiện qua Hình 4.14. Hình 4.14: Đồ thị Correlogram biểu diễn tương quan giữa các yếu tố môi trường Trong đó: Cột màu từ -1 đến 1 biểu diễn hệ số tương quan; Giá trị trong mỗi ô vuông là hệ số tương quan Pearson. Giá trị âm thể hiện tương quan nghịch và giá trị dương thể hiện tương quan thuận. Các yếu tố môi trường ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có tương quan với nhau từ mức độ ít chặt chẽ đến rất chặt chẽ và có cả tương quan thuận lẫn tương quan nghịch. Một số cặp yếu tố có hệ số tương quan lớn (trên 0,9) thể hiện quan hệ rất chặt chẽ với nhau như độ mặn - độ kiềm (0,95), N-NH3 – tổng coliform (0,92). 75 4.2.2 Đánh giá CLN đầm phá Tam Giang – Cầu Hai thông qua từng thông số 4.2.1.1 Đánh giá nhóm các thông số cơ bản (pH, DO, độ mặn, độ kiềm, TDS) a. Theo thời gian Sự biến động theo ngày đêm và theo mùa của yếu tố pH được thể hiện qua Bảng 4.8 và các yếu tố DO, độ mặn, độ kiềm, TDS trong quá trình nghiên cứu được thể hiện ở Bảng 4.9. Bảng 4.8: Biến động yếu tố pH theo thời gian Thời gian Nhỏ nhất Lớn nhất Độ lệch chuẩn Ban ngày 6h 7,04 8,33 0,311 9h 7,16 8,45 0,299 12h 7,27 8,56 0,295 15h 7,23 8,46 0,290 Ban đêm 0h 6,93 8,30 0,314 3h 6,99 8,32 0,310 18h 7,18 8,36 0,292 21h 7,06 8,33 0,287 Mùa khô Tháng 5 6,81 8,92 0,501 Tháng 8 6,13 8,74 0,538 Mùa mưa Tháng 2 6,47 8,83 0,533 Tháng 10 6,17 8,44 0,490 Tháng 12 5,98 8,56 0,521 Yếu tố pH: Giá trị pH ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai biến động theo ngày đêm khá lớn từ 6,93-8,56 và ban ngày cao hơn ban đêm có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Ban ngày, thời điểm 6h có mức biến động pH lớn nhất từ 7,04- 8,33 với độ lệch chuẩn là 0,311. Ban đêm, mức biến động pH lớn nhất là thời điểm 0h từ 6,93-8,30 với độ lệch chuẩn là 0,314. pH của các nguồn nước mặt thường giao động trong ngày do quá trình quang hợp và hô hấp của thủy sinh vật. Do cả 2 quá trình đều tồn tại song song nhưng được thúc đẩy hay ức chế bởi cường độ ánh sáng nên lượng CO2 biến động kéo theo sự biến đổi của pH trong ngày: ban đêm pH giảm và tăng vào ban ngày khi quá trình quang hợp xảy ra mạnh (Lê Văn Cát và ctv., 2006). Giá trị pH dao động hàng ngày không 76 được vượt quá 0,5 là thích hợp cho nuôi tôm sú (Chanratchakool et al., 1995). Như vậy, pH theo ngày đêm ở đầm phá phù hợp cho nuôi tôm sú do độ lệch chuẩn ở các thời điểm trong ngày chỉ 0,3. pH trung bình ngày đêm ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai cũng thích hợp cho hoạt động nuôi tôm (pH=7-9) theo QCVN02-19:2014 (Bộ NNPTNT, 2014). Theo mùa, pH biến động lớn giữa mùa mưa và mùa khô từ 5,98-8,92. Ở mùa khô, pH biến động từ 6,13-8,92 và mùa mưa biến động từ 5,98-8,83. Giá trị pH có xu hướng tăng dần từ mùa mưa đến mùa khô và sai khác giữa các mùa có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Do vào mùa mưa, lượng mưa nhiều nên có sự rửa trôi chất hữu cơ từ bờ vào môi trường nước đầm phá, làm tăng hàm lượng chất hữu cơ. Lượng chất hữu cơ này sẽ bị phân hủy hiếu khí. Do đó, nhu cầu oxy cho các VSV phân hủy chất hữu cơ, cho các phản ứng oxy hóa cao làm giảm lượng oxy hòa tan trong nước đồng thời làm tăng nồng độ khí CO2 trong nước, CO2 kết hợp với nước tạo thành H2CO3 là một loại axít yếu nên dễ dàng phân ly làm tăng nồng độ ion H+, đây là nguyên nhân làm pH giảm. Bên cạnh đó, các cơn mưa giông axít vào mùa mưa cũng làm giảm pH. Giá trị pH trong nghiên cứu này tương đương so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Hợp và ctv., (2007) (5,50- 9,00), tương đương với đầm Thị Nại, Bình Định (7,04-8,07), đầm Thủy Triều, Khánh Hòa (7,75-8,07) (Lê Thị Vinh, 2015), đầm Lăng Cô, Thừa Thiên Huế (7,56-8,38) (Đặng Hoài Nhơn, 2008) và đầm Nại, Ninh Thuận (7,96-8,25) (Lê Thị Vinh, 2015). Theo Chanratchakool et al. (1995), pH thích hợp cho sự sinh trưởng tối ưu của tôm sú từ 7,5-8,35 và theo QCVN02-19:2014, pH thích hợp cho nuôi tôm là từ 7-9 (Bộ NNPTNT, 2014). Như vậy, pH ở đầm phá thích hợp cho nuôi tôm sú ngoại trừ một số điểm ở phía Bắc đầm phá chưa phù hợp vì pH<7. Yếu tố DO: Hàm lượng DO trong khu vực đầm phá Tam Giang – Cầu Hai đo được vào ban ngày cao hơn ban đêm. Hàm lượng DO trung bình ban ngày là 6,38±0,961 mg/L và ban đêm là 5,74±0,998 mg/L. Hàm lượng DO chênh lệch ngày đêm nhỏ, chỉ khoảng 1,5 mg/L. So sánh với QCVN02-19:2014, hàm lượng DO ngày đêm ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai nằm trong giới hạn cho phép nuôi tôm (DO≥3,5 mg/L). Kiểm định thống kê cho thấy hàm lượng DO ban ngày cao hơn ban đêm có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Theo Lê Văn Cát và ctv. (2006), ban ngày, thực vật thủy sinh quang hợp mạnh làm tăng hàm lượng DO. Trái lại, ban đêm, quá trình hô hấp của thủy sinh vật tiêu thụ nhiều oxy, làm giảm hàm lượng DO trong nước và đạt mức thấp nhất vào sáng sớm. Đây là lý do hàm lượng DO ban ngày cao hơn ban đêm ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. 77 Theo mùa, hàm lượng DO trung bình mùa khô là 5,58±0,880 mg/L và mùa mưa là 5,06±0,799 mg/L. Hàm lượng DO trung bình cao nhất vào tháng 5 với 5,95±0,846 mg/L và thấp nhất vào tháng 12 với 4,98±0,792 mg/L. Như vậy, DO có xu hướng giảm dần từ mùa khô cho đến mùa mưa và sai khác giữa các mùa có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Hiện tượng này do sự giảm dần cường độ ánh sáng mặt trời từ mùa khô qua mùa mưa nên làm giảm khả năng quang hợp của tảo và thực vật có trong nước, dẫn đến làm giảm lượng oxy hòa tan có trong thủy vực. Ngoài ra, trong mùa mưa, hàm lượng chất hữu cơ từ các nguồn thải rửa trôi đổ vào đầm phá lớn nên quá trình phân giải hiếu khí chất hữu cơ của vi sinh vật đã làm giảm DO trong nước. Kết quả nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Hợp và ctv. (2007) với DO trung bình là 6,67-6,86 mg/L. Hàm lượng DO của đầm phá Tam Giang – Cầu Hai tương đương với đầm Thị Nại, Bình Định (4,29-6,64 mg/L), đầm Ô Loan, Phú Yên (3,99-6,54 mg/L), nhưng thấp hơn so với đầm Đề Gi, Bình Định (6,02-7,74 mg/L), đầm Thủy Triều, Khánh Hòa (5,54-7,64 mg/L) và đầm Nại, Ninh Thuận (6,53-7,44 mg/L) (Lê Thị Vinh, 2015). Theo Boyd (1990), hàm lượng DO tối ưu cho các loài thủy sản là trên 5 mg/L. Do đó, hàm lượng DO đầm phá Tam Giang – Cầu Hai vào mùa khô và mùa mưa khá phù hợp cho các loài thủy sản sinh sống. So sánh với QCVN02-19:2014 thì hàm lượng DO có trong thủy vực qua các mùa đều phù hợp cho mục đích nuôi tôm (DO≥3,5 mg/L) (Bộ NNPTNT, 2014). Yếu tố độ mặn: Độ mặn ban ngày cao hơn ban đêm, tuy nhiên sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Độ mặn trung bình ban ngày là 15,5±7,81‰ và ban đêm là 14,6±7,71‰. Độ mặn chênh lệch ngày đêm rất nhỏ (0,9‰). Mức chênh lệch độ mặn theo ngày đêm ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai không ảnh hưởng nhiều đến tôm vì tôm chỉ bị mất cân bằng khi chênh lệch độ mặn vượt quá 1-2‰/giờ (Boyd, 1990). So sánh với QCVN02-19:2014, độ mặn ban ngày và ban đêm đều thích hợp cho nuôi tôm (5-35‰) (Bộ NNPTNT, 2014). Độ mặn trung bình mùa khô (14,1±6,94‰) cao hơn mùa mưa (10,2±5,57‰) và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tháng 5 có độ mặn trung bình cao nhất với 17,1±6,93‰ và tháng 12 có độ mặn thấp nhất với 9,3±5,26‰. Độ mặn có xu hướng tăng dần từ mùa mưa đến mùa khô. Theo Nguyễn Văn Hợp và ctv. (2007), pH của đầm phá phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mùa trong năm, thủy triều, lưu lượng nước từ các sông đổ vào đầm phá... Vào mùa khô, đầm phá chịu tác động mạnh của thủy triều qua 2 cửa (Thuận An và Tư Hiền), nên pH thường cao và ổn định hơn mùa mưa. Thêm vào đó, do mùa mưa, lượng nước ngọt từ mưa và từ các nguồn ven đầm phá như sông, kênh thải...đổ vào đầm phá nhiều hơn nên làm giảm độ mặn so với mùa khô. Kết quả nghiên cứu 78 độ mặn của nghiên cứu này khá phù hợp với nghiên cứu về độ mặn ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai của Nguyễn Văn Hợp và ctv. (2007) với độ mặn trung bình từ 8,2-17,7‰. Độ mặn đầm phá Tam Giang – Cầu Hai thấp hơn một số đầm phá ven biển khác như đầm Lăng Cô, Thừa Thiên Huế (24,3-31,2) (Đặng Hoài Nhơn, 2008), đầm Đề Gi, Bình Định (32,3-33,6‰), đầm Thủy Triều, Khánh Hòa (30,5-34,1‰), đầm Nại, Ninh Thuận (33,3-34‰) (Lê Thị Vinh, 2015). Theo Boyd (1990), cá trắm cỏ có thể sống ở độ mặn từ 0-14‰, cá rô phi từ 0-40‰, tôm sú từ 5-31‰, tôm thẻ chân trắng sinh trưởng tối ưu ở độ mặn từ 15-25‰. Do đó, độ mặn ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai vào mùa mưa và mùa khô thích hợp cho các đối tượng thủy sản. So sánh với QCVN02-19:2014, độ mặn ở đầm phá phù hợp cho lấy nước nuôi tôm (5-35‰) (Bộ NNPTNT, 2014). Yếu tố độ kiềm: Độ kiềm trung bình ban ngày cao hơn ban đêm, tuy nhiên mức chênh lệch rất nhỏ, chỉ khoảng 2 mg/L và sai khác không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Độ kiềm trung bình ban ngày là 64,5±22,48 mg/L và ban đêm là 62,2±22,36 mg/L. So sánh với QCVN02-19:2014 cho thấy độ kiềm ban ngày và ban đêm đều nằm trong giới hạn cho phép (60-180 mg/L) (Bộ NNPTNT, 2014). Như vậy, độ kiềm ban ngày và ban đêm tương đối phù hợp cho hoạt động nuôi tôm ven đầm phá. Theo mùa, độ kiềm trung bình mùa khô là 61,9±22,79 mg/L và mùa mưa là 46,9±19,60 mg/L. Độ kiềm trung bình cao nhất vào tháng 5 với 71,6±22,43 mg/L và thấp nhất vào tháng 12 với 43,5±19,36 mg/L. Độ kiềm mùa khô cao hơn mùa mưa có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Theo Nguyễn Đình Trung (2004), độ kiềm của nước tự nhiên được quy ước bởi sự có mặt của các ion kiềm và kiềm thổ Na+, K+, Ca2+, Mg2+ có trong nước, kết hợp với các axit yếu, trước hết là axit carbonic H2CO3. Cho nên, độ kiềm là chỉ số các dạng chủ yếu của các ion HCO3- và CO32- ở trong nước. Do đó, vào mùa khô, nước đầm phá có độ mặn cao hơn mùa mưa nên lượng bazơ như carbonate (CO32-) và bicarbonate (HCO3-)... nhiều hơn mùa mưa. Khi lượng bazơ trong nước nhiều sẽ làm tăng độ kiềm trong nước. Đối với các loài thủy sản nước lợ mặn, độ kiềm thích hợp nên lớn hơn 80 mg/L (Nguyễn Đình Trung, 2004). Theo Trần Văn Hòa và ctv. (2001), độ kiềm để tôm sú có thể sống được phải cao hơn 60 mg/L, tối ưu là 80- 120 mg/L và theo QCVN02-19:2014, độ kiềm thích hợp cho lấy nước nuôi tôm là 60-180 mg/L (Bộ NNPTNT,
File đính kèm:
luan_an_danh_gia_va_du_bao_chat_luong_nuoc_nuoi_trong_thuy_s.pdf
En_TOM TAT_fullname.pdf
En_Trang thong tin luan an_TVD_final.docx
Vi_TOM TAT_fullname.pdf
Vi_Trang thong tin luan an_TVD_final.docx