Luận án Dự báo rủi ro tín dụng trong đầu tư phát triển đội tàu container của Việt Nam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Dự báo rủi ro tín dụng trong đầu tư phát triển đội tàu container của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Dự báo rủi ro tín dụng trong đầu tư phát triển đội tàu container của Việt Nam
vực, mọi thời điểm bởi vì mỗi đối tượng vay vốn có quy luật vận động phát triển riêng. Đặc điểm riêng về tính xác suất trong quan hệ tín dụng bao gồm Bên cho vay sẽ cung cấp trước khoản tín dụng để Bên vay sử dụng trong một khoảng thời gian mà hai Bên đã thống nhất gọi là thời hạn vay vốn. Tính thời điểm trong dự báo rủi ro tín dụng còn thể hiện ở mối quan hệ giữa Bên vay và Bên cho vay trong thời gian vay vốn. Trong thời gian vay vốn tổng thể Bên cho vay và Bên vay có thể phân kỳ ra những thời gian nhỏ hơn để thu lãi và từng phần gốc. Như vậy biến cố dẫn tới rủi ro tín dụng là việc Bên vay vốn không thực hiện được việc trả nợ gốc, lãi cho Bên cho vay theo đúng số tiền vào đúng các thời hạn đã cam kết. Vì thời hạn vay là những thời điểm sau khi đã cấp tín dụng (một thời điểm ở tương lai) nên trước khi 75 đến thời điểm trả nợ Bên cho vay không thể đảm bảo chắc chắn 100% Bên vay sẽ có thể trả nợ như đã cam kết, chính vì vậy từ khi quan hệ tín dụng được xác lập (thông qua việc ký kết các văn bản trong đó thể hệ các cam kết trả nợ) luôn tồn tại khả năng xảy ra RRTD. Hai đặc điểm trên gắn với thời gian vay vốn dài làm cho nguy cơ phát sinh rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tàu container là rất lớn. Trong quan hệ tín dụng, khi xảy ra rủi ro tín dụng Bên cho vay là chủ thể trực tiếp chịu tổn thất từ rủi ro này (không thu được tiền gốc, lãi) do đó việc làm cách nào để giảm thiểu và hạn chế rủi ro tín dụng luôn là sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức tín dụng. Vì tính chất không chắc chắn và tính thời điểm về khả năng trả nợ của người vay ở tương lai nên bản chất của hoạt động đánh giá, nhận định khả năng thu hồi vốn chính là thực hiện công tác dự báo RRTD. Công tác dự báo RRTD được thực hiện trước khi cấp tín dụng càng chính xác, tin cậy càng giúp cho các tổ chức tín dụng hạn chế được rủi ro này. Nếu dự báo về một khoản vay mà trong tương lai có nguy cơ cao không có khả năng trả nợ Bên cho vay sẽ không cấp tín dụng ngược lại nếu dự báo về một khoản cấp tín dụng dự kiến có nguy cơ rủi ro thấp thì Bên cho vay sẽ quyết định cấp tín dụng. * Dự báo rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tàu container Trong bối cảnh kinh tế đa dạng và nhiều lĩnh vực như hiện nay việc dự báo rủi ro tín dụng của các TCTD gặp nhiều khó khăn do mỗi lĩnh vực có những đặc thù riêng, vì vậy để góp phần tạo ra một cơ sở tin cậy về việc nhận định rủi ro tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư phát triển đội tàu container để các tổ chức tín dụng tham khảo trước khi ra quyết định tín dụng tác giả tập trung nghiên cứu về dự báo RRTD trong cho vay đầu tư phát triển đội tàu Container của Việt Nam. Mở rộng khái niệm dự báo rủi 76 ro tín dụng, tác giả xác định “Dự báo rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tàu container là việc dự đoán trước khả năng không thực hiện đúng cam kết của Bên vay trong quan hệ tín dụng đầu tư tàu container dẫn tới tổn thất về tài chính đối với Bên cấp tín dụng”. Từ khái niệm này tác giả làm rõ và khẳng định đối tượng dự báo là rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tàu container, phạm vi dự báo là đứng trên góc độ của tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng cho lĩnh vực đầu tư tàu container. * Tiêu chuẩn dự báo rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tàu container Với ý nghĩa quan trọng giúp các tổ chức tín dụng có cơ sở để ra quyết định cấp tín dụng cho vay đầu tư tàu nên công tác dự báo RRTD trong cho vay đầu tư tàu container cần đảm bảo độ tin cậy càng cao càng tốt. Để đáp ứng yêu cầu này, công tác dự báo RRTD trong cho vay đầu tư tàu container phải thỏa mãn các tiêu chuẩn sau: Tính khoa học: các dự đoán về khả năng phát sinh RRTD trong đầu tư tàu container được đưa ra phải dựa trên cơ sở khoa học, đặc biệt là cơ sở lý luận của khoa học dự báo; Tính khách quan, minh bạch: Đối tượng dự báo là khả năng phát sinh RRTD trong quan hệ giữa Bên vay và Bên cho vay, vì vậy việc đưa ra dự báo cần đảm bảo không thiên vị về bất kỳ Bên nào. Tiêu chuẩn khách quan đòi hỏi công tác dự báo được thực hiện trung thực tránh lợi ích nhóm cũng như việc áp đặt ý chí chủ quan cá nhân của người làm công tác dự báo; Tiêu chuẩn này còn yêu cầu việc đưa ra dự báo RRTD trong đầu tư tàu container cần được thực hiện thông qua những báo cáo cụ thể rõ ràng, tránh đưa ra những nhận định chung chung, cảm tính. 77 2.3.2. Phân loại nợ và tiêu chuẩn nợ xác định rủi ro tín dụng Để dự báo được RRTD, phải có tiêu chuẩn để lượng hóa xác định khi nào có rủi ro tín dụng. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam[52], quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng có quy định rõ và phân loại khoản nợ theo các nhóm sau: Bảng 2.2: Phân loại nhóm nợ của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam Nhóm nợ Trạng thái nợ Việc trả nợ theo lịch trả nợ Nhóm 1 Nợ đủ tiêu chuẩn Các khoản nợ trong hạn có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Nhóm 2 Nợ cần chú ý Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày. Nhóm 3 Nợ dưới tiêu chuẩn Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày. Nhóm 4 Nợ Nghi nghờ mất vốn Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày. Nhóm 5 Nợ có khả năng mất vốn Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày. Nguồn: Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005[52] Theo bảng phân loại nợ trên một khoản nợ vay được xác định là xảy ra RRTD khi thuộc nhóm nợ 3 trở lên. Như vậy trong nghiên cứu của tác giả về dự bảo RRTD trong đầu tư phát triển đội tàu Container của Việt Nam là việc tiên đoán xác suất một khoản vay vốn đầu tư tàu Container có khả năng phát sinh nhóm nợ từ nhóm 3 trở lên trong thời gian vay vốn. 78 Trong thời gian vay vốn sẽ có các thời điểm mà Bên cho vay và Bên vay vốn cùng thống nhất sẽ hoàn trả một khoản gốc và lãi nhất định cho ngân hàng các thời điểm này thường được gọi là lịch trả nợ. Xét theo bảng phân loại nợ như trên, tại mỗi thời điểm đến hạn trả nợ nếu Bên vay không trả được khoản nợ đã cam kết thì vẫn chưa xảy ra RRTD. Lúc này mặc dù thực tế đã sai cam kết trả nợ đúng hạn song khả năng thu hồi vốn vẫn còn nên chưa xẩy ra tổn thất mất vốn. Trong thực tế vì những lý do bất khả kháng có một số thời điểm Bên vay không thể trả nợ đúng và đầy đủ các cam kết tuy nhiên nó không phải là sự cố ý và cũng không phải là Bên vay không có khả năng trả nợ. Chính vì vậy, để loại bỏ những sự kiện bất khả kháng, tạo điệu kiện cho Bên vay có thời gian khắc phục tình trạng khó khăn tức thời với thời gian 90 ngày như quy định của Ngân hàng nhà nước hiện nay là hợp lý. 79 Kết luận chương 2: Với việc tìm hiểu, nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận về Dự báo, rủi ro tín dụng và dự báo rủi ro tín dụng tác giả đã trang bị cho bản thân những kiến thức nền tảng gắn liền với nội dung luận án, đây chính là cơ sở vững chắc giúp việc thực hiện mục tiêu luận án của tác giả có ý nghĩa khoa học. Tại Chương này trên cơ sở kế thừa những kiến thức lý luận về dự báo và rủi ro tín dụng tác giả đã bổ sung khái niệm mới chuyên sâu về “rủi ro tín dụng trong đầu tư tàu container” và khái niệm mới về phạm trù “Dự báo rủi ro tín dụng” đóng góp vào tính đa dạng và chuyên sâu cho khoa học dự báo. Bên cạnh đó tác giả cũng nêu ra những đặc thù về RRTD trong đầu tư phát triển đội tàu container của nước ta. Đây là điểm mới về lý luận mà tác giả đóng góp vào sự đa dạng của khoa học dự báo, với đóng góp này khoa học dự báo của Việt Nam sẽ có thêm một lĩnh vực chuyên sâu là “Dự báo rủi ro tín dụng” bên cạnh những lĩnh vực dự báo truyền thống. 80 CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DỰ BÁO RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ĐỘI TÀU CONTAINER CỦA VIỆT NAM 3.1. Thực trạng đầu tư phát triển đội tàu Container 3.1.1. Khái quát quá trình đầu tư phát triển đội tàu Container * Giai đoạn từ 1988 đến 2006 Mặc dù là quốc gia có đường bờ biển dài, song hoạt động vận tải biển của nước ta trong giai đoạn đất nước tiến hành đổi mới từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường còn lạc hậu, chưa nắm bắt kịp xu hướng vận tải của thời đại đó là xu hướng container hóa trong vận chuyển đường biển. Với nhu cầu cần hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế thế giới thì Việt Nam không thể tiếp tục đứng ngoài cuộc. Vào năm 1988, một liên doanh giữa phía Việt Nam (Tổng công ty Hàng hải Việt Nam) và Pháp (CGM-Company General Maritime) thành lập Gemartrans (General Maritime Transportation Company), đây là liên doanh vận chuyển Container đầu tiên nhưng do loại hình dịch vụ mới, các chủ hàng chưa quen cũng như điều kiện kinh tế lúc bấy giờ nên sản lượng không đáng kể. Năm 1990 xuất hiện liên doanh sản xuất vỏ container của Hàn Quốc với UBND quận 10 TP. HCM. Như vậy đến cuối thập niên 80 của thế kỷ 20 loại hình vận tải container mới xuất hiện tại Việt Nam muộn hơn thế giới khoảng 30 năm. Cùng với việc liên doanh thành lập doanh nghiệp vận tải Container đầu tiên tại Việt Nam, giai đoạn này đánh dấu nhiều thay đổi quan trọng trong tổ chức ngành Hàng hải. Trước hết, Tổng công ty Hàng hải tập trung phát triển các loại tàu chuyên dụng mà đội tàu trước đây chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường như tàu chở hàng rời, tàu chở dầu thô, dầu sản phẩm và đặc biệt là đã có sự quan tâm đầu tư vào phát triển đội tàu container cụ thể: 81 Từ năm 1997 - 2000, đội tàu container được Tổng công ty trực tiếp đầu tư phát triển, gồm 9 chiếc với tổng trọng tải 6.106 TEU, hoạt động chủ yếu thu gom và trả hàng xuất nhập khẩu hàng nội địa dọc theo các cảng chính của Việt Nam (Hải Phòng – Đà Nẵng – Quy Nhơn – TP HCM – Cần Thơ) và giữa Việt Nam với Singapore, Hồng Kông, Nam Triều Tiên, Philipine, Malaisia, (Feeder Service) để từ đó các tàu của các hãng nướcngoài vận chuyển tiếp đi các nơi khác như tuyến châu Âu, Đông Bắc Á Những năm tiếp theo, các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam nói chung và Tổng công ty Hàng hải nói riêng đã có nhiều nỗ lực trong việc phát triển đội tàu container. Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 2001 - 2004 chúng ta đã đầu tư cho 8 tàu container loại 800-1.200 TEU. Mặc dù vậy thị phần đội tàu container của nước ta đến năm 2006 vẫn còn rất thấp với tỷ trọng chỉ chiếm 1.74% về số lượng và 7.35% về trọng tải[24, tr.71-72]. * Giai đoạn từ năm 2006- 2019 Trong giai đoạn này mặc dù thị trường vận tải gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế song đội tàu trong nước vẫn có sự phát triển nhờ những đơn đặt hàng từ trước. Mặt khác thị trường vận tải biển suy thoái cũng tác động lớn đến việc thay đổi cơ cấu đội tàu Việt Nam trong thời gian này theo xu thế, một số tàu có độ tuổi quá cao hoạt động không hiệu quả bị loại khỏi kế hoạch khai thác đồng thời giá tàu đi xuống là cơ hội cho một số chủ tàu đầu tư phương tiện mới. Theo số liệu do UNCTAD cung cấp năm 2019 đội tàu Việt Nam xếp thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á sau các nước Singapore, Indonesia, Malaysia và xếp hạng 30 trên thế giới với số lượng trên 1.568 chiếc có năng lực vận chuyển khoảng 7.8 triệu DWT chiếm tỷ trọng 2% về số lượng và 0.45% về năng lực vận chuyển của đội tàu trên toàn thế giới 82 [67]. Đội tàu của Việt Nam có sự chuyển biến tích cực về tuổi tàu khi tuổi tàu bình quân của đội tàu Việt Nam hiện là 15,6 tuổi trẻ hơn 5,2 tuổi so với thế giới (20,8 tuổi)[66]. Cơ cấu đội tàu biển Việt Nam cũng phát triển theo hướng chuyên dụng hóa. Đặc biệt, đội tàu container Việt Nam tăng trưởng khá tốt (bình quân 20%/năm) với số lượng tàu tăng từ 19 tàu lên 39 tàu[66]. Như vậy với hơn 50 năm hình thành và phát triển đội tàu Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, số lượng và năng lực vận chuyển của đội tàu Việt Nam (trọng tải) không ngừng tăng. 3.1.2. Tỷ trọng đội tàu Container trong cơ cấu đội tàu Việt Nam Mặc dù đội tàu Container có sự phát triển tuy nhiên số lượng tàu container trong cơ cấu đội tầu Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với cơ cấu trung bình của thế giới. Tỷ trọng tàu container của Việt Nam trong cơ cấu đội tàu nước ta so sánh với tỷ trọng tàu container trong cơ cấu đội tàu của thế giới được thể hiện như sau: 87% 96% 13% 4% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% Đội tàu Thế giới Đội tàu Việt Nam Tỷ trọng tàu container Tỷ trọng các loại tàu khác Hình 3.1: Tỷ trọng đội tàu Container trong cơ cấu đội tàu Việt Nam (Nguồn: Nguyễn Thị Quỳnh Nga -Tạp chí Tài chính[67]) 83 Hình 3.1 trên cho thấy tỷ trọng đội tàu Container của nước ta còn rất thấp do đó yêu cầu về đầu tư phát triển đội tàu Container ngay tại thời điểm hiện tại để phù hợp với xu thế của thế giới là rất lớn. Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam tại năm 2019 đội tàu nước ta có 1.568 tàu. Như vậy để phát triển đội tàu container theo xu thế của thế giới thì đội tàu Container cần có 200 tàu, như vậy trừ đi số hiện có là 39 tầu cần đầu tư thêm 162 tàu tức gấp gần bốn lần số lượng tàu Container của Việt Nam hiện nay. Thực trạng về cơ cấu đội tàu container của Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng khi phân tích nhu cầu vận chuyển hàng hóa theo phương thức container. Nước ta có vị trí địa lý quan trọng trong mạng lưới vận chuyển hàng hóa bằng đường biển của khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, với hơn 3.260km bờ biển, nước ta có tiềm năng to lớn trong việc phát triển vận tải biển nói chung và phương thức vận tải biển container nói riêng. Theo các chuyên gia về kinh tế, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ. Đồng thời, nước ta đã và sẽ tiếp tục đón nhận làn sóng đầu tư nước ngoài khi các hãng sản xuất dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc. Lúc đó, Việt Nam sẽ là địa điểm nhập khẩu nguyên vật liệu sản suất ra thành phẩm và xuất bán trên toàn thế giới. Do đó, tiềm năng vận chuyển container đường biển từ Việt Nam đi các nước và ngược lại sẽ rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay tỷ trọng tàu container trong cơ cấu đội tàu Việt Nam còn thấp mới chiếm 3,6% tổng trọng tải (tỷ lệ trên của thế giới là 12,8% tổng trọng tải). Đội tàu container Việt Nam cũng mới chỉ đáp ứng được nhu cầu vận tải nội địa và vận tải hàng feeder tại một số nước trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, chưa tăng được thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu". Điều này cho thấy nhu cần về vận 84 tải biển theo phương thức Container của nước ta sẽ tiếp tục tăng lên trong tương lai. Nhu cầu vận chuyển hàng hóa theo phương thức Container được thể hiện rõ tại bảng 3.1 sau: Bảng 3.1: Lượng hàng qua cảng biển Việt Nam giai đoạn 2003 -2019 và dự kiến đến 2030 Năm Khối lượng theo (Triệu tấn) Khối lượng theo (Triệu TEU) Tỷ lệ tăng trưởng theo TEU (%) Dự kiến đến 2030 640 40 210 2019 194,2 19,4 6 2018 181,5 18,1 11 2017 165,7 14,4 11 2016 148,0 12,9 13 2015 126,3 11,5 10 2014 176 10,2 20 2013 326 8,50 7 2012 294 7,98 12 2011 286 7,10 9 2010 259 6,50 18 2009 198 5,52 -1 2008 196 5,60 25 2007 181 4,48 31 2006 154 3,42 18 2005 138 2,90 21 85 2004 127 2,40 18 2003 125 2,04 Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam Qua bảng trên chúng ta thấy rằng khối lượng vận chuyển hàng hóa qua hệ thống cảng biển Việt Nam không ngừng tăng và trong vòng 15 năm từ 2003-2019 lượng hàng qua hệ thống cảng biển đã tăng gần 10 lần từ 2,04 triệu TEU lên 19,35 triệu TEU. Cùng với sự gia tăng tổng lượng hàng qua cảng, số lượng hàng container qua cảng cũng tăng đặc biệt từ năm 2010 đến nay quy mô lượng hàng container tăng cao so với các năm trước. Sự tăng trưởng lượng hàng qua cảng được minh họa tại Hình 3.2: Hình số 3.2. Sản lượng hàng Container qua cảng giai đoạn 2003-2018 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Với hoạt động Logistics có sự cải thiện tích cực (chỉ số Logistics quốc gia của Việt Nam năm 2018 tăng 25 bậc lên vị trí 39/160 quốc gia so 86 với năm 2016[50, tr.52]) lượng container qua cảng đều có sự tăng trưởng rất mạnh mẽ trong 15 năm gần đây, và càng về gần đây tốc độ tăng trưởng cành nhanh. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế container hóa hiện nay và đây chính là điều kiện rất thuận lợi để đội tàu container của Việt Nam tiếp tục phát triển trong tương lai. 3.1.3. Thực trạng cấp tín dụng trong cho vay đầu tư tầu Container * Hình thức cấp tín dụng trong đầu tư tàu Container Xét theo quan điểm tài chính, trong đầu tư tàu nói chung và tàu Container nói riêng, việc cấp tín dụng cho người sử dụng vốn tồn tại hai hình thức chủ yếu: Một là, cho vay (tổ chức tín dụng cấp vốn cho người sử dụng vốn tự đầu tư tàu theo nhu cầu); Hai là hình thức cho thuê tài chính (tổ chức tín dụng cấp vốn thông qua tài sản – là tàu phù hợp với nhu cầu sử dụng khai thác của người thuê tài chính). Xét theo phương thức đầu tư tàu, mặc dù có một số phương thức đầu tư như đóng mới, mua lại, liên doanh, điều chuyển [17, tr.20], tuy nhiên trên góc độ tài trợ vốn để phát triển đội tàu Container có hai hình thức cấp tín dụng chính trong đầu tư tàu Container là: Cấp tín dụng đầu tư đóng mới - việc hình thành nên tàu phải qua các công đoạn đóng tầu; Cấp tín dụng đầu tư mua lại tàu cũ - tàu đã hình thành sẵn. Kết hợp hai tiêu chí phân loại trên trong thực tế trong hoạt động cho vay của các tổ chức tại Việt Nam có bốn hình thức cấp tín dụng (cho vay đầu tư mới; cho vay mua lại; cho thuê tài chính đóng mới; cho thuê tài chính mua lại) để đầu tư phát triển đội tàu Container. Mặc dù có những đặc điểm khác nhau về hình thức sở hữu và sử dụng đối tượng đầu tư là 87 tàu container song đứng trên góc độ quản lý rủi ro tín dụng của Bên cho vay (chủ thể chịu rủi ro tín dụng) việc cấp tín dụng theo bốn hình thức trên đều giống nhau về cách thức quản lý RRTD đó là người cấp tín dụng phân kỳ khoản cấp vốn thành nhiều giai đoạn (theo tháng/quý/năm) để thu hồi dần. Hay nói cách khác là trong cả bốn hình thức cấp tín dụng đầu tư trên đều phải tuân thủ 2 nguyên tắc cơ bản của tín dụng là: Hoàn trả đầy đủ gốc và lãi vay; Thanh toán đúng hạn theo lịch trả nợ đã cam kết. Người sử dụng vốn có nghĩa vụ khai thác tàu được hình thành từ nguồn tín dụng tài trợ tạo ra nguồn lực tài chính để thực hiện hai nguyên tắc trên. Vì sự đồng nhất trên nên các yếu tố ảnh hưởng tới RRTD tới các hình thức cấp tín dụng trên là như nhau do đó trong nghiên cứu của luận án về dự báo RRTD được áp dụng chung cho các hình thức cấp tín dụng đầu tư tàu container nêu trên. * Quy mô vốn tín dụng đầu tư phát triển đội tàu Container Tổng hợp số liệu vốn cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các chủ đầu tư tầu container của Việt Nam giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2019 được thể hiện tại bảng sau: Bảng 3.2: Vốn cho vay đầu tư tàu container giai đoạn 1997-2019 Đơn vị tính: Triệu đồng STT Bên vay vốn Vốn cho vay 1 Công ty CP thương mại và vận tải biển Đại Tây Dương 94.500 2 Công ty TNHH MTV vận tải Biển Đông 2.106.000 3 Công ty TNHH MTV vận tải viễn dương VINASHIN 540.000 4 Công ty CP vận tải biển Việt Nam (VOSCO) 182.000 5 Công ty CP vận tải và xếp dỡ Hải An 328.370 88 6 Công ty cổ phần đầu tư phát triển Hàng hải Việt Nam 40.000 7 Công ty TNHH MTV tổng công ty công nghiệp tàu thủy Nam Triệu 630.000 8 Công ty CP GEMADEPT 64.000 9 Công ty TNHH dịch vụ tiếp vận Toàn Cầu 214.200 10 Công ty cổ phần vận tải biển Tân Cảng 329.000 11 Công ty TNHH MTV vận tải biển Chu Lai-Trường Hải 67.500 12 Công ty CP Nhật Việt 77.800 13 Công ty CP vận tải biển VINAFCO 85.500 14 Tổng công ty Hàng hải Việt Nam 1.503.000 15 Công ty CP Hàng hải và Đầu tư Công nghiệp Việt Nam (VSICO) 163.800 16 Công ty CP Hàng hải Đông Đô 394.350 17 Công ty CP vận tải biển VISHIP 315.000 18 Công ty CP MHC 180.100 19 Công ty CP liên vận quốc tế S.A 42.000 Tổng cộng 7.315.120 Nguồn: Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia và tổng hợp của NCS[68] Số liệu tổng hợp trên cho thấy trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2019 các tổ chức tín dụn
File đính kèm:
- luan_an_du_bao_rui_ro_tin_dung_trong_dau_tu_phat_trien_doi_t.pdf
- Mục lục luan an.TQH.pdf
- PHỤ LỤC LUAN AN.TQH.pdf
- tom tat luan an.pdf
- Trang thon tin LV.English.pdf
- Trang thong tin LV. TV.pdf