Luận án Giải pháp kinh tế và quản lý môi trường cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản các huyện phía Nam Thành phố Hà Nội

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Giải pháp kinh tế và quản lý môi trường cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản các huyện phía Nam Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Giải pháp kinh tế và quản lý môi trường cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản các huyện phía Nam Thành phố Hà Nội

ượt quá ngưỡng cho phép chủ yếu vào tháng 1 và 3, tập trung vào hộ nuôi thuộc các huyện Thanh Trì, Ứng Hoà, Thanh Oai) (Biểu đồ 3.1, phụ lục). Tuy nhiên, sự tiêu hao oxy trong ao nuôi tại các hộ tiến hành thu mẫu vẫn diễn ra với tốc độ tương đối cao (thể 78 hiện qua chỉ số BOD). Trên 40% các hộ nuôi đều có hàm lượng BOD cao hơn giới hạn cho phép, đặc biệt là tháng 9, có 96,7% các hộ có chỉ số BOD vượt quá giới hạn cho phép. Như vậy các ao có độ ôxy hóa cao đều có có hàm lượng chất hữu cơ trong nước cao có nguy cơ gây ÔNMT (Biểu đồ 3.2, phụ lục). ĐVT: % Biều đồ 3.1. Tỷ lệ hộ đạt tiêu chuẩn ôxy hòa tan trong nước (DO) theo tháng trong năm 2011 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của Chi cục thủy sản, 2011 - Các khí độc (NH3, H2S) Hầu hết các hộ NTTS trên địa bàn tiến hành thu mẫu đều có hàm lượng các khí độc vượt quá giới hạn cho phép từ 1,2 - 2,7 lần. Điều đó cho thấy MT ao nuôi của các hộ nuôi trên địa bàn các huyện phía Nam thành phố Hà Nội đang có nguy cơ suy thoái MT (đặc biệt là vào giữa và cuối vụ nuôi). Hàm lượng các khí độc cao là chỉ số quan trọng cho thấy sự xuống cấp của MT nuôi, đồng thời nó là nguyên nhân gây lên hiện tượng cá chết hàng loạt gây thiệt hại không nhỏ tới người NTTS và cả ngành nói chung. - Tảo, tảo độc Hầu hết các ao nuôi được tiến hành thu mẫu đều thấy có mật độ tảo cao và xuất hiện tảo độc, loài tảo độc xuất hiện chủ yếu là tảo Lam thuộc chi Mycrocystis. Có rất ít hộ nuôi không thấy xuất hiện tảo độc trong quá trình nuôi. Từ tháng 1 đến tháng 6 mật độ tảo độc tuy xuất hiện trong ao ở hầu hết các hộ nuôi nhưng với mật độ không cao nên chưa gây ảnh hưởng đến chất lượng nước nuôi cũng như chưa gây ảnh hưởng trực tiếp đến cá. Nhưng từ tháng 7 đến tháng 12 thì sự xuất hiện tảo 79 độc (Mycrocystis) trong ao nuôi của các hộ nuôi tăng lên rất nhanh. Sự gia tăng mật độ tảo độc (tảo Lam) trong ao nuôi là nguyên nhân gây nên hiện tượng nổi váng trên mặt ao, gây ÔNMT nước ao đồng thời cản trở sự khuyếch tán của oxy từ không khí vào nước và làm cho sự tích tụ các khí độc (NH3, H2S) trong ao nuôi tăng lên (Biểu đồ 3.3, phụ lục). Ngoài ra, các ao, hồ NTTS vùng phía Nam Hà Nội cũng bị ô nhiễm do kim loại nặng. Mùa khô bị ô nhiễm cao hơn mùa mưa. So với tiêu chuẩn qui định thì một số kim loại như chì (Pb), Crôm (Cr) và Niken (Ni) trong ao nuôi bị ô nhiễm hơn cả (Trịnh Bảo Ngọc và cộng sự, 2012). 3.2.2. Đánh giá môi trường nước ở cấp hộ Đại đa số các mô hình NTTS vẫn phải sử dụng một lượng nước lớn. Ô nhiễm nguồn nước cũng làm tăng mâu thuẫn giữa các ngành sản xuất khác nhau, thậm chí ngay trong ngành NTTS. Trên thực tế, người NTTS cho rằng chất thải từ các ao nuôi đã gây ra suy thoái MT nước và gây chết cho cá. Bên cạnh ô nhiễm nguồn nước, sử dụng bất hợp lý nguồn nuớc cũng có tác động tiêu cực đến MT và các đối tượng sử dụng tài nguyên khác. Chúng tôi cũng khảo sát sự đánh giá về MT nước NTTS của hộ. Các hộ được khảo sát không có thiết bị kiểm tra môi trường nước, nên những đánh giá của hộ về mức độ ô nhiễm nước chỉ dựa trên kinh nghiệm của hộ đối với nước dùng cho NTTS. Theo kết quả điều tra, có 18% số hộ đánh giá MT nước rất ô nhiễm, 48% ô nhiễm, gần 31% bình thường và khá tốt 3,11%. Theo hình thức nuôi, có trên 62% số hộ nuôi thâm canh cho rằng môi trường nước trong ao nuôi của họ ở mức độ ô nhiễm, rất ô nhiễm gần 14%, còn lại là mức bình thường. Đối với nhóm hộ nuôi bán thâm canh thì 44% số hộ cho rằng nước ở mức độ ô nhiễm, mức rất ô nhiễm gần 20% và 1/3 là bình thường. Nếu phân theo quy mô nuôi, mức độ ô nhiễm nguồn nước cao nhất được đánh giả bởi nhóm hộ nuôi có quy mô nhỏ dưới 1 ha (Bảng 3.8). Số nông dân huyện Thanh Trì cho rằng nước NTTS của họ bị ô nhiễm nhiều nhất (Bảng 3.15, phụ lục). Có rất ít hộ (khoảng 3%) cho rằng nước trong ao, hồ nuôi TS của họ ở mức khá tốt. Điều này cho thấy sự mong muốn của hộ đối với nước (hoặc nguồn nước) NTTS có chất lượng và đáp ứng tiêu chuẩn NTTS. 80 Bảng 3.8. Ý kiến của các hộ về môi trường nước NTTS năm 20116 ĐVT: % số hộ Ý kiến của hộ Hình thức nuôi Quy mô nuôi Tính chung Bán thâm canh Thâm canh Dưới 1ha Từ 1- 3ha Trên 3ha Rất ô nhiễm 19,54 13,73 17,14 23,21 11,54 18,22 Ô nhiễm 43,68 62,75 54,29 45,54 48,72 48,00 Bình thường 33,33 21,57 28,57 26,79 37,18 30,67 Khá tốt 3,45 1,95 0,00 4,46 2,56 3,11 Ghi chú: Không có hộ nào đánh giá môi trường nước NTTS ở mức rất tốt. 3.2.3. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến nuôi trồng thủy sản của các hộ 3.2.3.1. Ảnh hưởng tới kết quả nuôi trồng thủy sản Trong nội dung này sẽ trình bày ảnh hưởng của ÔNMT đến NTTS thông qua các chỉ tiêu kết quả NTTS. Mức độ ô nhiễm đối với nguồn nước sử dụng trong NTTS dựa vào kinh nghiệm của hộ đối với nguồn nước NTTS và nước trong ao, hồ NTTS. Hộ cũng phản ánh trong quá trình NTTS thì họ đã từng bị thiệt hại, rủi ro hay chưa, mức độ thiệt hại như thế nào. Kết quả được trình bày trong Bảng 3.9. Trong mẫu điều tra, có 28,5% số hộ (64 hộ) trả lời là đã từng bị thiệt hại, họ có năng suất, sản lượng NTTS thấp hơn hẳn những hộ chưa từng bị thiệt hại. Trong đó, số hộ nông dân NTTS huyện Chương Mỹ cho rằng họ bị thiệt hại nhiều nhất (56,7% số hộ). Hai huyện ít bị thiệt hại nhất (và thậm chí không bị thiệt hại) là Thanh Trì và Thường Tín. Điều này cho thấy thiệt hại trong NTTS chủ yếu là do dịch bệnh và dịch bệnh xuất hiện theo vùng. Bình quân mỗi hộ trong vùng nghiên cứu bị thiệt hại 43,44 triệu đồng, trong đó huyện Chương Mỹ bị thiệt hại nặng nhất, bình quân 85,3 triệu đồng/hộ. Cá biệt có hộ ông Trịnh Bá Khiêm, xã Trường Yên (Chương Mỹ) với 8,5 ha nuôi cá cho rằng do dịch bệnh nên gia đình đã bị thiệt hại tới 366 triệu đồng. 6 Có 5 mức đánh giá bao gồm (i) Rất ô nhiễm, (ii) ô nhiễm; (iii) bình thường, (iv) khá tốt, và (v) rất tốt. 81 Bảng 3.9. Mối quan hệ giữa kết quả NTTS và mức độ ô nhiễm (theo đánh giá của hộ) Đánh giá của nhóm hộ Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (tấn) Chi phí/ha (tr đ) Thu nhập/ha (tr đ) Mức độ thiệt hại (tr đ) 1. Rất ô nhiễm (n=41) 5,32 11,57 148,78 63,95 20,93 2. Ô nhiễm (n=108) 10,63 27,75 225,92 162,03 14,06 3. Bình thường (n=69) 7,49 21,07 131,76 109,61 5,84 4. Khá tốt (n=7) 7,51 18,71 166,75 135,86 0,00 Hộ đã từng thiệt hại nặng nề do dịch bệnh hay chưa? + Đã từng (n=64) 6,58 12,58 142,30 51,78 43,44 + Chưa từng (n=161) 9,41 26,41 196,58 157,28 0 Kết qủa cũng cho thấy những hộ cho rằng nước trong ao, hồ NTTS của họ bị ô nhiễm lại có kết quả sản xuất NTTS cao hơn. Điều này có thể lý giải hộ NTTS chỉ cho rằng ô nhiễm nước trong ao, hồ là do quá trình NTTS là chính, chứ chưa phải phần chính là do nguồn nước. Cho nên trong vùng các hộ NTTS chủ yếu chỉ sử dụng 2 biện pháp xử lý ô nhiễm nguồn nước là sử dụng kênh lấy nước riêng và xử lý bằng hóa chất (chủ yếu là vôi bột, sunfat đồng và pencolit). Nguyên nhân nữa là những hộ này thường đầu tư thâm canh cao nên họ cho rằng nước bị ô nhiễm, nhưng kết quả NTTS do thâm canh mang lại vẫn cao. Hoặc cũng có thể do các nguồn thông tin khác nhau mà họ cho rằng bị ô nhiễm nhưng thực tế có thể chưa đến mức như vậy. Để phân tích các yếu tố, bao gồm cả ÔNMT, ảnh hưởng tới năng suất NTTS của các hộ tại vùng nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hàm sản xuất (như trình bày trong mục 2.2.5). Tại 4 huyện điều tra hầu hết các hộ đều nuôi cá. Biến phụ thuộc được xác định là năng suất cá của các hộ thu được trong năm 2011 (tấn/ha). Các yếu tố đưa vào phân tích trong mô hình bao gồm diện tích nuôi cá của hộ, chi phí giống, chi phí thức ăn tươi, chi phí mua thức ăn công nghiệp, chi phí thuê lao động, hình thức nuôi, và ứng xử của hộ đối với công tác BVMT trong NTTS (có kênh lấy nước riêng hoặc xử lý hóa chất ao nuôi). Đề tài không có điều kiện đo các chỉ tiêu kỹ 82 thuật về MT và ô nhiễm. Các chỉ tiêu kỹ thuật trình bày ở trên (mục 3.2.1) là của vùng và không trùng với mẫu khảo sát của luận án. Do đó, đề tài sử dụng các chỉ tiêu như sử dụng kênh lấy nước riêng và xử lý hóa chất trong ao nuôi. Đây là biện pháp BVMT trong NTTS của hộ. Kết quả ước lượng được trình bày trong Bảng 3.10. Kết quả mô hình cho thấy, mô hình xây dựng phù hợp với thực tế số liệu vùng nghiên cứu (giá trị F = 31,2889 và có ý nghĩa thống kê tại mức 1%, hệ số xác định điều chỉnh đạt 0,55). Mặc dù không có chỉ tiêu trực tiếp phản ánh ô nhiễm, chúng tôi sử dụng biến kênh lấy nước riêng và sử dụng hóa chất trong ao nuôi của hộ để phản ánh biện pháp BVMT hay làm giảm ô nhiễm. Nếu hộ sử dụng kênh lấy nước riêng hoặc hóa chất thì chứng tỏ những hộ này sẽ ít bị ô nhiễm hơn những hộ khác không sử dụng 2 biện pháp này. Kết quả mô hình cho thấy, các hộ có sử dụng kênh lấy nước riêng hay dùng hóa chất xử lý ao nuôi (chủ yếu dùng pencolit để khử trùng hay sunfat đồng xử lý ao) thì năng suất đều cao hơn, tương ứng gần 0,28 và 0,12%. Trong vùng có rất ít hộ sử dụng các chế phẩm sinh học để xử lý ao nuôi (nhất là đáy ao), nên ảnh hưởng của yếu tố sử dụng kênh lấy nước riêng của hộ tương đối mạnh hơn so với dùng hóa chất xử lý ao nuôi. Trong tương lai cần khuyến cáo các hộ nên sử dụng các chế phẩm mới (đã được khuyến cáo của Bộ NN và PTNT) như EMC. Kết quả này cho thấy 2 biện pháp BVMT của hộ có ảnh hưởng tới năng suất NTTS. Nó cũng phản ánh các hộ bước đầu đã biết ứng xử với công tác BVMT trong NTTS. Người NTTS (nông dân) cố gắng để có thể có được nguồn nước sạch trong NTTS. Đối với hình thức nuôi, kết quả cho thấy hình thức nuôi thâm canh có năng suất cao hơn (gần 0,27%) so với các hình thức nuôi bán thâm canh. Trong các yếu tố thì chi phí giống và chi phí thuê lao động không có ý nghĩa thống kê. Như vậy 2 yếu tố này chưa chắc có tương quan với năng suất trong vùng nghiên cứu. Lí do với yếu tố giống, các hộ thường do kinh nghiệm và trao đổi với nhau để đầu tư nên trên 1 đơn vị diện tích (1 ha) các hộ đầu tư thả giống không khác nhau nhiều. Với chi phí lao động thuê thì có sự khác nhau quá lớn giữa các hộ ở 4 huyện (ví dụ huyện Phú Xuyên, Thường Tín rất ít hộ thuê lao động, nếu có thuê thì số lượng ít, trong khi tại huyện Thanh Trì thì các hộ lại thuê nhiều lao động). 83 Bảng 3.10. Kết quả ước lượng hàm sản xuất của các hộ NTTS các huyện phía Nam thành phố Hà Nội Các biến Hệ số Sai số chuẩn t kiểm định Hệ số tự do (C) 1,8098*** 0,0965 18,7602 LnX1 (Diện tích) -0,2008*** 0,0426 -4,7122 LnX2 (Giống) -0,0058 ns 0,0265 -0,2198 LnX3 (Thức ăn tươi) 0,0516*** 0,0085 6,0550 LnX4 (Thức ăn công nghiệp) 0,0356*** 0,0097 3,6573 LnX5 (Chi thuê lao động) 0,0060 ns 0,0135 0,4446 D1 (Nuôi thâm canh) 0,2668*** 0,0985 2,7071 D2 (Kênh lấy nước riêng) 0,2798*** 0,0997 2,8075 D3 (Dùng hóa chất xử lý ao nuôi) 0,1175* 0,0678 1,7339 R2 0,5634 R2 điều chỉnh 0,5454 Số quan sát 202 F – Statistic 31,2889*** Ghi chú: *, **, *** có ý nghĩa tương ứng tại mức 10%, 5%, 1%; ns là không có ý nghĩa thống kê. Chi phí thức ăn nhiều (cả thức ăn tươi và thức ăn công nghiệp) thì năng suất của các hộ đều có xu hướng cao hơn (tương ứng 0,05 và 0,04%). Kết quả này phù hợp với nhận xét các hộ nuôi theo hình thức thâm canh thường có năng suất cao hơn. Diện tích của hộ có ảnh hưởng ngược chiều đối với năng suất (hệ số -0,2). Điều này có nghĩa trong vùng nghiên cứu, ngành NTTS đang có hiệu quả theo qui mô giảm dần, những hộ có nhiều diện tích thì năng suất thấp hơn. Kết quả này phản ánh mức độ quản lý của hộ còn thấp nên khi diện tích nhiều, kết quả sản xuất của hộ thường không cao. Một nguyên nhân nữa là những hộ diện tích nhiều thường là diện tích đấu thầu hay đi thuê, thời hạn ngắn, nên mức độ đầu tư cải tạo chưa cao. Mục tiêu của những hộ này chủ yếu hướng sang tận dụng diện tích. 3.2.3.2. Ảnh hưởng tới rủi ro và thiệt hại trong nuôi trồng thuỷ sản Để ước lượng các nhân tố ảnh hưởng đến thiệt hại của hộ NTTS, chúng tôi sử dụng mô hình Logit. Biến phụ thuộc là hộ bị thiệt hại NTTS trong thời gian nuôi hay trong những năm nuôi TS ít nhất đã có năm (hoặc vụ) hộ đã bị dịch bệnh hay thiệt hại trong NTTS (do ÔNMT) (Y=1). Các biến độc lập có tương quan (hay ảnh 84 hưởng) đến thiệt hại của hộ bao gồm Kinh nghiệm NTTS của hộ (X1), Trình độ học vấn của chủ hộ (X2), Diện tích nuôi của hộ (X3), Mức độ ÔNMT nước (X4), và Hình thức nuôi (thâm canh hay không, D1) (Mục 2.2.6, Chương 2). Kết quả ước lượng được trình bày trong Bảng 3.11. Kết quả cho thấy kiểm định tỷ lệ hợp lý của mô hình (Likelihood Ratio Test Statistic) là 50,958 với mức ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả này cho phép ta không thể bác bỏ giả thuyết H1, giả thuyết không phải tất cả các hệ số hồi quy riêng bằng 0. Như vậy mô hình đưa ra là hợp lý và phù hợp với số liệu vùng nghiên cứu. Điều này phản ánh, mô hình logit có ý nghĩa trong việc đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thiệt hại của hộ, nhất là với vùng nghiên cứu. Khả năng dự đoán đúng của mô hình là khá tốt, tỷ lệ dự đoán đúng về hộ chưa từng bị thiệt hại đạt 84,0% trong khi thực tế là 71,6% (Bảng 3.16, phụ lục). Bảng 3.11. Kết quả ước lượng hàm Logit Các biến Hệ số Hiệu ứng biên (Marginal effect) Hệ số tự do (β0) - 5,5366*** -1,0073 Kinh nghiệm NTTS của chủ hộ (X1) 0,0658** 0,0120 Trình độ học vấn của chủ hộ (X2) - 0,0561 ns -0,0102 Diện tích nuôi (X3) - 0,0549ns -0,0010 Mức độ ô nhiễm (X4) 1,1629*** 0,2116 Hình thức nuôi (D1) - 0,9878** -0,1545 Likelihood ratio test statistic (Kiểm định thống kê tỷ lệ Likelihood) 50,9580*** Ghi chú: *, **, và *** có ý nghĩa tương ứng tại mức 10%, 5%, và 1%; ns là không có ý nghĩa thống kê. Đơn vị tính và định nghĩa các biến được trình bày trong Chương 2 (mục 2.2.6). Với hàm logit, hệ số và mức độ ý nghĩa thống kê chỉ cho biết tương quan giữa biến độc lập và phụ thuộc, trong khi độ lớn (ảnh hưởng) được phản ánh thông qua hiệu ứng biên (marginal efects). Kết quả ước lượng cho thấy: Trong số các yếu tố nêu trên thì kinh nghiệm NTTS của chủ hộ (X1), Mức độ ÔNMT nước của hộ (X4), Hình thức nuôi thâm canh của hộ (D1) là các nhân tố có ảnh hưởng đến thiệt 85 hại của hộ, trong khi các biến khác như Trình độ học vấn của chủ hộ (X2) và Diện tích nuôi (X3) không có có tương quan với thiệt hại của hộ trong vùng nghiên cứu. Mức độ ÔNMT nước trong NTTS của hộ được chia ra 4 mức theo thực tế (i) Khá tốt, (ii) Bình thường, (iii) Ô nhiễm, (iv) Rất ô nhiễm. Mức ô nhiễm càng cao thì mức độ thiệt hại của hộ (cả dịch bệnh) dễ dàng xảy ra (ở mức 21,16% với mức ý nghĩa thống kê 1%). Diện tích NTTS của hộ và trình độ học vấn của chủ hộ không có tương quan với sự thiệt hại trong NTTS của hộ. Kết quả cho thấy hộ NTTS chủ yếu học hỏi kinh nghiệm từ họ hàng hay hàng xóm và tích lũy kinh nghiệm thực tế trong những năm NTTS trước đây. Trong vùng nghiên cứu, sự xuất hiện của rủi ro ở những hộ có diện tích nuôi nhiều và ít không có sự khác biệt. Những hộ nuôi theo hình thức thâm canh thì tần suất xảy ra thiệt hại giảm (15,45%). Điều này phù hợp với thực tiễn NTTS của hộ tại điểm nghiên cứu. Kết quả có điều bất ngờ là nếu hộ có kinh nghiệm NTTS thì xác suất rủi ro lại tăng. Theo phỏng vấn nhanh của chúng tôi, hơn 90% các hộ được hỏi trả lời, hầu hết các hộ học hỏi kinh nghiệm NTTS với nhau. Thời gian nuôi thuỷ sản kéo dài sẽ xuất hiện dịch bệnh, nên hộ có kinh nghiệm do nuôi nhiều năm thường gặp rủi ro, thiệt hại. Qua điều tra, những hộ có kinh nghiệp NTTS đều chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của mình, ít coi trọng dự báo và kỹ thuật. Trong khi những năm gần đây do ảnh hưởng của việc biến đổi khí hậu, thời tiết diễn biến thất thường không theo quy luật như trước đây. Vì vậy, nhưng hộ này lại bị thiêt hại cao. 3.2.4. Nguyên nhân ô nhiễm môi trường nuôi trồng thủy sản Nguyên nhân ÔNMT NTTS có thể có nhiều nhưng tập trung lại thuộc các nhóm: chất lượng nguồn cung cấp nước cho NTTS (nước mặt và nước ngầm), chất thải từ các ngành khác trong vùng NTTS và từ bản thân ngành NTTS. 3.2.4.1. Chất lượng nguồn nước cho nuôi trồng thuỷ sản Các sông chính chảy qua các huyện phía Nam thành phố Hà Nội bao gồm: sông Hồng, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Tô Lịch. Đây là các sông chính cung cấp nước cho NTTS của vùng. Song, tình trạng ô nhiễm hữu cơ đã xuất hiện, đặc biệt sông Nhuệ và sông Đáy (khu vực cầu Mai Lĩnh). 86 Kết quả tính toán chỉ số chất lượng nước cho các sông chính của Hà Nội cho thấy: Sông Nhuệ và sông Đáy nước đã bị ô nhiễm nghiêm trọng phía huyện Thanh Trì. (Chỉ số WQI nằm trong khoảng (0-25) phản ánh nước bị ô nhiễm nặng). Chất lượng nước cũng có xu hướng không ổn định qua các năm (Biểu đồ 3.2). Biểu đồ 3.2. Chỉ số chất lượng nước các sông chính của Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010 Nguồn: Trung tâm Quan trắc môi trường - TCMT,2011 Xét theo thông số BOD5, tại sông Đáy giá trị này vượt QCVN 08:2008/BTNMT loại B1, thậm chí trong một số trường hợp còn vượt loại B2 (Biểu đồ 3.3). Biểu đồ 3.3. Diễn biến thông số BOD5 tại các sông qua các năm Nguồn: Trung tâm Quan trắc và phân tích tài nguyên môi trường Hà Nội– Sở TNvà MT Hà Nội Trung tâm khoa học và kỹ thuật môi trường; Trung tâm Quan trắc môi trường - TCMT,2011 Tại sông Đáy (khu vực Cầu Mai Lĩnh) thông số COD vượt không nhiều QCVN 08:2008/BTNMT loại B1. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng nước được trình bày bổ sung trong các biểu đồ 3.4 - 3.8, phần phụ lục. Kết quả cho thấy nguồn nước từ các sông đều có một số chỉ tiêu đã bị ô nhiễm và là nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng đến MT NTTS của vùng nghiên cứu. 87 3.2.4.2. Chất lượng nước ngầm vùng nghiên cứu Nguồn tài nguyên nước ngầm tại Hà Nội khá dồi dào, chủ yếu là hai tầng chứa nước Halocen (ký hiệu Qh) và tầng Pleitocen (ký hiệu Qp), với trữ lượng tiềm năng khoảng 5.914.000m3/ngày-đêm. Đến nay, nước ngầm vẫn là nguồn cung cấp quan trọng cho sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp, trong đó có NTTS. Bảng 3.12. Hàm lượng các yếu tố nhiễm bẩn trong nước ngầm tầng Qh theo mùa tại vùng phía Nam sông Hồng Mùa NH4 + NO3 - NO2 - PO4 3- Asen Nhiều năm 2010 Nhiều năm 2010 Nhiều năm 2010 Nhiều năm 2010 2010 Khô 9,39 12,53 3,15 1,74 0,16 0,038 0,8 1,05 0,004 Mưa 12,95 12,92 2,14 1,59 0,091 0,06 0,9 1,11 0,042 Nguồn: Trung tâm Quan trắc và Phân tích TNMT Hà Nội, Sở TN và MT Hà Nội, 2011 * Diễn biến ô nhiễm nước ngầm vùng Nam sông Hồng Kết quả quan trắc tại 10 trạm đo lún bề mặt đất do thay đổi mực nước ngầm bề mặt đất Thành phố hàng năm có sụt lún nhưng không đồng đều. Hiện tượng này đã tạo nên trên bề mặt những phễu lún phân bố rải rác ở nội thành và các vùng ven. Trong đó, Thanh Trì có độ lún lớn nhất (max = 20mm/năm) (theo Viện Khoa học công nghệ và Kinh tế xây dựng Hà Nội, 2008). Vùng bị nhiễm bẩn nặng phân bổ chủ yếu ở phía Nam, thuộc huyện Thanh Trì. Hàm lượng Amoni của cả hai tầng chứa nước có xu hướng tăng dần theo thời gian khẳng định nước ngầm đã và đang bị ô nhiễm. Hàm lượng NH4 + tầng chứa nước qh thay đổi mạnh theo mùa do phụ thuộc trực tiếp các nguồn gây bẩn và yếu tố khí tượng thuỷ văn, còn tầng qp sự thay đổi theo mùa ít hơn (Bảng 3.12). Việc khai thác nguồn tài nguyên nước ngầm với cường độ lớn đã, đang và sẽ dẫn đến tình trạng nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, đồng thời gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Qua các năm, tầng nước ngầm đang có xu hướng thấp dần. 3.2.4.3. Sử dụng nước thải trong vùng nuôi trồng thủy sản Trong vùng chưa có nhiều các khu công nghiệp tập trung, nhưng có nhiều các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Các cơ sở sản xuất này hầu như đều không có trạm xử lý nước thải. 88 Vùng phía Nam Hà Nội vẫn là vùng tập trung sản xuất nông nghiệp. Đây là ngành sử dụng nhiều nước nhất, chủ yếu để phục vụ tưới cho cây trồng, lúa và hoa màu (tới 84%, Biểu đồ 3.4). Vì vậy tính trong tổng lượng nước thải chảy ra nguồn nước mặt các sông thì lưu lượng nước thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể. Lượng nước thải này từ hoạt độn
File đính kèm:
luan_an_giai_phap_kinh_te_va_quan_ly_moi_truong_cho_phat_tri.pdf
KTPT - TTLA - Nguyen Thi Quynh Anh.pdf
TTT - Nguyen Thi Quynh Anh.pdf