Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa của nông hộ ở Thành phố Cần Thơ

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa của nông hộ ở Thành phố Cần Thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa của nông hộ ở Thành phố Cần Thơ

cho ngƣời tiêu dùng (không thông qua trung gian), đồng thời nông hộ ít tốn chi phí vận chuyển vì những ngƣời tiêu dùng này ở cùng địa phƣơng. Bên cạnh đó, giá trị nhận đƣợc của nông hộ cũng khá cao trong các kênh nhƣ kênh 5B, 5A, 4, 2B và 3B với tỷ lệ lợi ích của nông hộ tƣơng ứng lần lƣợt là 55,7%, 55,3%, 54,3%, 52,0% và 51,9%. Kênh Tác nhân 1 1 A Nông hộ Thƣơng lái Cơ sở xay xát Hộ bán lẻ Ngƣời tiêu dùng 1B Công ty lƣơng thực 2 2 A Nông hộ Thƣơng lái Hộ bán lẻ Ngƣời tiêu dùng 2B Công ty lƣơng thực 3 3 A Nông hộ Cơ sở xay xát Hộ bán lẻ Ngƣời tiêu dùng 3B Công ty lƣơng thực 4 4 Nông hộ Cơ sở xay xát Ngƣời tiêu dùng 5 5 A Nông hộ Hộ bán lẻ Ngƣời tiêu dùng 5B Công ty lƣơng thực 5 6 Nông hộ Ngƣời tiêu dùng Nguồn: Nguyễn Quốc Nghi, 2011. Biểu đồ 4.2. Kênh phân phối lúa gạo ở TP. Cần Thơ Lợi ích của thƣơng lái trong kênh 2 hiệu quả hơn kênh 1, với lợi ích nhận đƣợc trong kênh 2 là 22,5% (kênh 2A), 22,8% (kênh 2B) và giá trị nhận đƣợc trong kênh 1 là 15,0% (kênh 1A) và 15,8% (kênh 1B). Đó là vì ở kênh 2A và 2B, thƣơng lái bán trực tiếp cho ngƣời bán lẻ và công ty lƣơng thực mà không phải qua cơ sở xay xát nên nhận đƣợc giá trị cao hơn. Cơ sở xay xát hoạt động rất hiệu quả trong kênh 4, chiếm 45,7% lợi ích của kênh, kế tiếp đó là kênh 3, với lợi ích nhận đƣợc là 22,7% (kênh 3A) và 23,6% (kênh 3B). Ở kênh 1, do phải mua lúa từ thƣơng lái nên hiệu quả của các cơ sở xay xát không cao, với lợi ích đƣợc hƣởng là 16,7% (kênh 1A) và 17,3% (kênh 1B). Tuy mua với sản lƣợng không lớn nhƣ thƣơng lái, cơ sở xay 67 xát và công ty lƣơng thực nhƣng nhìn chung lợi ích mà ngƣời bán lẻ nhận đƣợc trong các kênh cao hơn những đối tƣợng khác (trừ nông hộ), trung bình chiếm hơn 25% lợi ích của kênh và cao nhất là 44,7% trong kênh 5A. Lợi ích nhận đƣợc của công ty lƣơng thực trong các kênh 1B, 2B, 3B, 5B lần lƣợt là 20,6%, 25,2%, 24,5% và 44,3%. Trong kênh 5B, lợi ích của công ty lƣơng thực cao hơn các kênh còn lại là do công ty thu gom lúa trực tiếp từ nông hộ. Nguyên nhân dẫn đến giá trị nhận đƣợc của nông hộ còn thấp trong hệ thống phân phối nhƣ sau: (i) quy mô sản xuất của nông hộ là nhỏ lẻ và manh mún; (ii) hệ thống phân phối lúa gạo chƣa hoàn thiện, thị trƣờng đầu ra của nông hộ không ổn định; (iii) nông hộ thiếu thông tin về thị trƣờng và các chính sách hỗ trợ của Chính phủ; (iv) mối quan hệ mờ nhạt giữa nông hộ và các tác nhân trong hệ thống phân phối, đặc biệt là công ty lƣơng thực; (v) nông hộ bị hạn chế về nguồn lực sản xuất, đặc biệt là nguồn vốn đầu tƣ và khoa học k thuật và (vi) hệ thống tổ chức sản xuất lúa gạo hiện nay còn nhiều bất cập. Hệ thống phân phối lúa gạo ở TP. Cần Thơ cho thấy, mặc dù nông hộ là những ngƣời tạo ra hạt lúa nhƣng với lợi ích nhận đƣợc chỉ đứng thứ 4 trong 5 tác nhân của hệ thống phân phối (nông hộ, thƣơng lái, cơ sở xay xát, ngƣời bán lẻ và doanh nghiệp). Một trong những nguyên nhân của hiện tƣợng trên là do sự hỗ trợ đầu ra cho nông hộ còn hạn chế. Thật vậy, 30,9% nông hộ đƣợc hỗ trợ tiếp cận thị trƣờng đầu ra. Điều đó chứng tỏ hiệu quả sản xuất của nông hộ chƣa tƣơng xứng với những gì mà họ đã đầu tƣ, làm ảnh hƣởng đến khả năng phát triển bền vững của ngành hàng lúa gạo. Vì thế, vấn đề cấp thiết đặt ra là nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa cho nông hộ. 4.4.3. Rủi ro trong sản xuất lúa của nông hộ ở TP. Cần Thơ Sản xuất lúa của nông hộ cũng giống nhƣ sản xuất nông nghiệp, nhìn từ quan điểm của nông hộ, thƣờng có các loại rủi ro sau: rủi ro sản xuất (đó là rủi ro do thời tiết, do thảm họa thiên nhiên, do ô nhiễm), rủi ro giá (do biến động của thị trƣờng), rủi ro chính sách (do thể chế chính sách không phù hợp), rủi ro kỹ thuật (tiến bộ của khoa học k thuật). Những rủi ro này có thể ảnh hƣởng đến toàn bộ các tác nhân tham gia trong chuỗi sản xuất lúa gạo với các mức độ khác nhau. Trong đó, ảnh hƣởng của nó đối với nông hộ lại là nghiêm trọng nhất bởi sản xuất lúa - nguồn thu nhập chính của nông hộ - bị lệ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan (kinh tế, xã hội lẫn tự nhiên). Thứ nhất là rủi ro sản xuất, đối với sản xuất lúa gạo, số lƣợng và chất lƣợng sản phẩm do yếu tố đầu vào tạo ra hoàn toàn không thể biết trƣớc một cách chắc chắn. Sự không chắc chắn đó xuất phát từ việc các yếu tố không thể 68 kiểm soát (thời tiết, khí hậu và dịch bệnh) đóng vai trò quyết định trong sản xuất bởi chu kỳ sinh trƣởng của cây lúa kéo dài. Trên nguyên tắc, thời gian càng dài, biến động càng lớn và càng khó dự báo. Rủi ro về thời tiết ảnh hƣởng ở mức trung bình và cao đối với tất cả các tác nhân trong ngành hàng, tuy nhiên các rủi ro này chỉ đƣợc quản lý ở mức trung bình (trừ thƣơng lái). Rủi ro về sinh học và môi trƣờng đƣợc các tác nhân đánh giá ảnh hƣởng ở mức độ thấp và chƣa có cách quản lý đáng kể. Lý do là nông hộ chƣa nhận thức rõ tác động của ô nhiễm môi trƣờng đến việc trồng lúa và chất lƣợng cũng nhƣ an toàn lúa gạo. Hơn nữa, các chính sách chƣa thực hiện triệt để việc chế tài nên việc mọi ngƣời quan tâm vẫn còn hạn chế. Ngay cả khi gieo trồng và chăm sóc thuận lợi thì ảnh hƣởng thời tiết rất lớn trong khâu thu hoạch, phơi khô cũng nhƣ điều kiện bảo quản, đó cũng là lý do vì sao nông hộ bán 80% lúa ƣớt tại đồng (Nguyễn Quốc Nghi, 2011). Thứ hai là rủi ro giá, do đặc tính sinh học của đối tƣợng sản xuất nông nghiệp (cây trồng và vật nuôi) nên quyết định sản xuất phải đƣợc hình thành từ khá lâu trƣớc khi có sản phẩm. Khi đó, giá sản phẩm gần nhƣ không thể dự báo đƣợc vào thời điểm tiến hành sản xuất nên nông hộ sẽ gặp rủi ro giá. Rủi ro giá là hệ quả của biến động trong nhu cầu đối với lúa gạo thậm chí có thể bắt nguồn từ thị trƣờng thế giới. Bên cạnh đó, rủi ro sản xuất dẫn đến số cung lúa gạo không ổn định, cộng với việc nhu cầu đối với lúa gạo kém co giãn, lại càng làm cho giá biến động mạnh. Rủi ro về thị trƣờng đặc biệt ảnh hƣởng lớn đến tất cả các tác nhân (giá cả và yêu cầu về số lƣợng và chất lƣợng). Tuy nhiên, chỉ có công ty và ngƣời bán sỉ/lẻ là quản lý tƣơng đối khá về rủi ro này vì họ có kho dự trữ nhƣng gạo để lâu sẽ bị sâu mọt cũng nhƣ không thể quản lý nếu giá thị trƣờng thay đổi thƣờng xuyên. Thứ ba là trong dài hạn, nông hộ còn phải đối mặt với rủi ro k thuật sản sinh từ các tiến bộ khoa học - k thuật, khiến cho k thuật mà nông hộ đang áp dụng trở nên lạc hậu và lúa gạo thiếu sức cạnh tranh. Tính ngẫu nhiên của tiến bộ khoa học - k thuật ảnh hƣởng đến mọi ngành và lĩnh vực sản xuất. Song, vấn đề này cần phải đƣợc quan tâm hơn ở lĩnh vực trồng lúa tiến bộ, bởi k thuật là sản phẩm của các nghiên cứu hầu nhƣ biệt lập với nông hộ và nông hộ chỉ biết đến khi đƣợc chuyển giao. Khi đó, nông hộ hoàn toàn bị động và không kịp ứng phó để kịp thời chuyển sang áp dụng k thuật mới, nhất là khi bị thiếu vốn. Thứ tƣ là rủi ro chính sách cũng ảnh hƣởng đến sản xuất lúa gạo. Chính sách kinh tế ảnh hƣởng đến nhiều lĩnh vực sản xuất thông qua thuế, lãi suất, tỷ giá, luật lệ, dịch vụ công, v.v. Song, sản xuất lúa gạo chịu tác động mạnh của 69 chính sách can thiệp của Chính phủ mà chính sách can thiệp này lại thƣờng xuyên điều chỉnh cho phù hợp với thực tế (nhất là môi trƣờng kinh tế thế giới). Chính yêu cầu điều chỉnh này mang đến rủi ro cho nông hộ, nhất là trong các quyết định đầu tƣ dài hạn. Nông hộ bị tác động lớn nhất bởi chính sách thủy lợi và khuyến nông. Còn nhiều rủi ro liên quan đến sản xuất lúa gạo, mỗi tác nhân có cách đáp ứng và quản lý rủi ro khác nhau. Trong đó, rủi ro về mặt thị trƣờng (chủ yếu là giá cả) là tác động lớn nhất đến tất cả tác nhân trong ngành hàng. Rủi ro này đƣợc quản lý tốt hơn đối với các DN so với các tác nhân khác trong chuỗi, đặc biệt là nông hộ. Rủi ro làm cho kết quả sản xuất của nông hộ trở nên bấp bênh, làm ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh tế của họ. Để nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nông hộ trồng lúa, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành hàng các nhà quản lý và nông hộ cần phải tìm ra giải pháp để khắc phục. 70 Chƣơng 5 ẢNH HƢỞNG CỦA C C ẾU T ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG SẢN UẤT A CỦA N NG H Ở TH NH PH CẦN THƠ 5.1. Mô tả mẫu khảo sát 5.1.1. Đặc điểm chung Mục tiêu của phần này là mô tả các đặc điểm chung của mẫu khảo sát đối với 815 nông hộ sản xuất lúa ở TP. Cần Thơ. Số nhân khẩu bình quân của các nông hộ đƣợc khảo sát là 4,7 ngƣời, trong đó số lao động tham gia trồng lúa chỉ là 2,2 ngƣời (46,8%). Đây là hệ quả của hiện tƣợng thanh niên nông thôn nói chung và TP. Cần Thơ nói riêng có xu hƣớng rời bỏ nông thôn ra thành thị để sinh sống (nhƣ vừa đề cập ở Chƣơng 4). Do lao động trẻ nông thôn di cƣ ra thành thị tìm việc nên tình trạng thiếu lao động ở nông thôn là tất yếu và ngày một gay gắt. Thực tế đó làm cho giá lao động thời vụ ở nông thôn tăng cao, trong khi năng suất lao động lại giảm (do ngƣời làm thuê phần nhiều lớn tuổi), chất lƣợng và giá lúa thấp (do không đủ lao động để thu hoạch kịp thời vụ và nhất là khi giá tốt) nên chi phí tăng và thu nhập giảm. Hiện tƣợng này tạo nên vòng xoáy kích thích lao động trẻ ở nông thôn đổ xô ra thành thị tìm việc. Do đó, chiến lƣợc xây dựng nông thôn mới và ổn định thu nhập là lối thoát không chỉ cho nông hộ nói chung, nông hộ trồng lúa nói riêng mà còn đối với sự phát triển hài hòa và ổn định xã hội. Trình độ học vấn của chủ hộ là khá thấp, với số năm đi học bình quân là 6,9. Trong đó, chỉ có 21,4% chủ hộ tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên. Nguyên nhân của tình trạng trên là do tỷ lệ học sinh ở các huyện nông thôn của TP. Cần Thơ theo học đến các cấp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học khá ít nên trình độ học vấn của lao động nói chung và chủ hộ nói riêng nơi đây thấp.32 Trình độ học vấn thấp nên ngƣời dân nông thôn dễ nhận thức lệch lạc về các hiện tƣợng kinh tế - xã hội bề nổi (nhất là về đời sống vật chất và thu 32 Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở và trung hoc phổ thông ở các huyện lần lƣợt là Vĩnh Thạnh 30,27% và 14,03%, Thới Lai 33,16% và 9,54%, Cờ Đỏ 33,90% và 11,19%, Phong Điền 32,63% và 14,20% (Nguồn: Niên giám thống kê TP. Cần Thơ, 2013). 71 nhập ở đô thị), từ đó nảy sinh tâm lý không gắn bó với nông thôn và sản xuất nông nghiệp bởi sợ “chân lấm tay bùn”. Hệ quả là sự chuyển dịch lao động nông thôn (phần lớn là trẻ) ra thành thị diễn ra nhanh, mặc dù chƣa đƣợc trang bị đầy đủ kiến thức, k năng sống và làm việc ở môi trƣờng mới, do đó công việc không ổn định (chủ yếu là lao động giản đơn và thời vụ), thu nhập thấp và ít có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp. Học vấn thấp khiến cho nông hộ khó nắm bắt và xử lý thông tin thị trƣờng một cách đầy đủ nên chủ yếu sản xuất theo phong trào mà thiếu tầm nhìn chiến lƣợc dài hạn và chịu sự chi phối của thƣơng lái cũng nhƣ đại lý vật tƣ nông nghiệp về giống và loại đầu vào sử dụng. Do đó, cũng giống nhƣ các địa phƣơng khác trong Vùng, sản xuất lúa của phần lớn nông hộ ở TP. Cần Thơ còn kém hiệu quả. Tuổi bình quân của chủ hộ là 53,1. Chủ hộ là nam chiếm đến 87,2% số chủ hộ đƣợc khảo sát. Kinh nghiệm trồng lúa bình quân của các chủ hộ là 27,4 năm, cho thấy phần lớn chủ hộ có nhiều kinh nghiệm trong canh tác lúa nên có thể ứng phó các biến động của thị trƣờng và tự nhiên, đặc biệt là biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, ƣu thế này khó phát huy tác dụng do trình độ học vấn thấp cản trở việc ứng dụng các tiến bộ k thuật vào sản xuất lúa của nông hộ nơi đây, nhƣ đƣợc phân tích bởi Bagi (1982), Bagi & Huang (1983), Ali & Flinn (1989) và Huỳnh Trƣờng Huy (2007). Trong thời gian qua, các cơ quan khuyến nông (ngƣ) của TP. Cần Thơ đã mở nhiều lớp tập huấn, điểm trình diễn và các buổi tham quan hội thảo đầu bờ về k thuật trồng trọt, chăn nuôi và bảo vệ thực vật nhƣng các hoạt động này có hiệu quả không cao và ít nhiều mang tính hình thức. Học vấn của lao động nông thôn (kể cả chủ hộ) khá thấp, khả năng ghi chép và nắm bắt có hạn nên sau các lớp tập huấn, các buổi hội thảo hay tham quan, nông hộ lại trở về với các phƣơng thức canh tác truyền thống, bởi không có cán bộ chuyên môn đi cùng để hƣớng dẫn và kèm cặp. Cơ giới hóa đƣợc xem là xu hƣớng tất yếu góp phần đảm bảo chất lƣợng nông sản và giá thành sản xuất có tính cạnh tranh cao, nhƣng tỷ lệ cơ giới hóa ở nhiều khâu (nhƣ gieo trồng, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch) còn rất thấp và vẫn chƣa có tiến bộ so với quá khứ. Nhƣ vừa phân tích, cung cách quản lý cũ nên không khuyến khích sự hình thành một thị trƣờng KH - CN có thể hỗ trợ cho việc phát triển ngành sản xuất công cụ lao động tiên tiến phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó, do giá máy công cụ nhập từ nƣớc ngoài về rất đắt và không phù hợp với đồng ruộng Việt Nam nên đa số công đoạn trong sản xuất lúa của nông hộ ở Cần 72 Thơ đều là lao động thủ công, làm tăng chi phí sản xuất và giảm hiệu quả kinh tế. Diện tích canh tác lúa bình quân của các nông hộ đƣợc khảo sát là 1,45 ha, nhƣng 17,2% nông hộ có diện tích trồng lúa từ 0,5 ha trở xuống. Diện tích canh tác nhỏ và manh mún nên rất khó để nông hộ ứng dụng khoa học - k thuật vào sản xuất, cũng nhƣ khó lựa chọn k thuật canh tác đạt năng suất cao, tiết kiệm chi phí nh m gia tăng hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nông hộ. Kết quả khảo sát này phù hợp với ghi nhận của Cục thống kê TP. Cần Thơ vào năm 2013 cho thấy, đất đai manh mún chính là nguyên nhân của nghèo và sự kém hiệu quả của kinh tế nông hộ nói chung và nông hộ trồng lúa nói riêng ở TP. Cần Thơ. Hiện nay, toàn thành phố có 292.903 hộ gia đình, trong đó có 143.416 nông hộ. Về quy mô đất nông nghiệp, có 41,62% nông hộ sở hữu diện tích dƣới 0,5 ha; 28,90% có từ 0,5 ha đến dƣới 1 ha; 20,40% có từ 1 ha đến dƣới 2 ha; 20,40% có từ 2 ha đến dƣới 3 ha và 7,76% có từ 3 dƣới 5 ha. Đặc biệt, chỉ có 0,062% hộ có từ 5 ha đất nông nghiệp trở lên. Cá biệt, có 49.969 (chiếm 34,84% tổng số nông hộ của toàn thành phố) nông hộ nông thôn không có đất sản xuất. Bảng 5.1. Quy mô đất nông nghiệp của nông hộ ở TP. Cần Thơ (2013) Địa phƣơng Số hộ Dƣới 0,5ha Từ 0,5 đến dƣới 1 ha Từ 1 đến dƣới 2 ha Từ 2 đến dƣới 3 ha Từ 3 đến dƣới 5 ha Từ 5 ha trở lên Ninh Kiều 454 317 97 37 3 0 0 Ô Môn 7.520 3.132 2.845 1.354 153 33 7.523 Bình Thủy 5.337 3.364 1.493 439 34 6 5.338 Cái Răng 5.425 3.530 1.395 459 34 7 6.732 Thốt Nốt 10.286 4.638 3.227 1.829 399 134 59 Vĩnh Thạnh 13.867 2.811 3.213 4.683 1.902 1.043 215 Cờ Đỏ 431 121 125 122 46 12 5 Phong Điền 1.379 425 477 303 113 50 11 Thới Lai 815 200 200 228 103 65 19 Thành phố 93.447 38.897 25.134 19.060 7.215 2.556 585 Nguồn: Niên giám thống kê TP. Cần Thơ, 2013. 73 Diện tích đất sản xuất ít và ngày càng thu hẹp là do mở rộng đô thị, khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, khu dân cƣ, hệ thống kết cấu hạ tầng và khu vui chơi - giải trí không chỉ ảnh hƣởng đến an ninh lƣơng thực, đời sống của nông hộ mà còn cả môi trƣờng tự nhiên. Trên phƣơng diện xã hội, việc thu hồi đất nông nghiệp (đôi khi khá tùy tiện) cho các mục đích khác làm xuất hiện một nhóm ngƣời hƣởng lợi (đặc quyền) và một nhóm ngƣời bị thiệt, do đó làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các nhóm này. Một khi xã hội bị chia rẽ thì các chính sách của Chính phủ cần sự đồng thuận của nhiều ngƣời (nhƣ ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trƣờng tự nhiên) sẽ rất khó triển khai, càng làm cho các nông hộ dễ bị tổn thƣơng trƣớc sự thay đổi của môi trƣờng tự nhiên và thị trƣờng (Tan & cộng sự, 2010; Hoang & Yabe. 2012; Linh, 2012). Vốn sản xuất là một trong những yếu tố then chốt trong sản xuất lúa của nông hộ, bởi vốn rất cần để mua vật tƣ, giống, máy móc, thuê mƣớn lao động, v.v. nh m đảm bảo tính thời vụ và phòng ngừa rủi ro bắt nguồn từ sự thất thƣờng của thị trƣờng, thời tiết và dịch bệnh. Tuy nhiên, số tiền tiết kiệm trung bình của nông hộ sản xuất lúa ở TP. Cần Thơ khá thấp (6,60 triệu đồng/năm). Do đó, 88,80% nông hộ có vay vốn. Lƣợng vốn vay trung bình 63,84 triệu đồng/hộ. Trong đó, chỉ có 36,60% nông hộ vay vốn từ các nguồn chính thức. Do thủ tục vay vốn phức tạp và nông hộ thiếu tài sản thế chấp nên lƣợng tiền vay bình quân của nông hộ từ nguồn chính thức chỉ khoảng 14,95 triệu đồng (chiếm 23,40% tổng lƣợng tiền vay trong năm của hộ). Có đến 63,40% nông hộ vay vốn chủ yếu từ nguồn phi chính thức (nhƣ đại lý vật tƣ nông nghiệp, ngƣời cho vay chuyên nghiệp, ngƣời thân hay bạn bè), với lƣợng tiền vay trung bình là 48,01 triệu đồng (chiếm 75,20%) ở lãi suất khá cao (lãi suất cho vay của đại lý vật tƣ và ngƣời cho vay chuyên nghiệp lần lƣợt là 18,40% và 36,40%) (Bảng 5.2). Bảng 5.2. Lƣợng vốn vay bình quân của nông hộ sản xuất lúa ở TP. Cần Thơ Nguồn vay Số tiền (triệu đồng/hộ) Tỷ trọng (%) Phi chính thức 48,01 75,20 Chính thức 14,95 23,40 Bán chính thức 0,88 1,40 Tổng cộng 63,84 100,0 Nguồn: Kết quả phân tích số liệu tự khảo sát năm 2013. 74 Nông hộ ở ĐBSCL nói chung và ở TP. Cần Thơ nói riêng “khát” vốn do khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức. Nguyên nhân là do bị ảnh hƣởng bởi thông tin bất đối xứng, chi phí giao dịch và rủi ro nên các TCTD chỉ cung cấp một lƣợng vốn hạn chế cho các nông hộ và bỏ ngỏ thị trƣờng tín dụng nông thôn - đặc biệt là ở những vùng xa xôi - cho tín dụng phi chính thức vận hành bởi những ngƣời cho vay phi chính thức, các đại lý vật tƣ nông nghiệp (mua bán chịu) và các đầu nậu hụi (hội). Tín dụng phi chính thức, nhờ vào ƣu thế là ở ngay cạnh nông hộ nên thông tin đầy đủ, chi phí giao dịch thấp và rất linh hoạt nên đã thu hút khá đông nông hộ tham gia. Mặc dù, một số loại hình của tín dụng phi chính thức (nhƣ hụi) tiềm ẩn những rủi ro nhất định nhƣng vì tính tiện lợi và hữu ích của nó nên ngƣời tham gia cố tình phớt lờ, mặc dù các cơ quan quản lý cũng nhƣ các nhà nghiên cứu đã cảnh báo. Do thiếu vốn nên sản xuất lúa ở TP. Cần Thơ tuy đã đạt đƣợc một số thành tựu đáng kể, nhƣng vẫn còn nhiều hạn chế nhƣ quy mô nhỏ, manh mún, sản phẩm thiếu đồng nhất, chất lƣợng không cao và công nghệ lạc hậu. Do vậy, hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa của nông hộ vẫn thấp và chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mong đợi. Thị trƣờng tín dụng ở nông thôn TP. Cần Thơ mặc dù đã có những đóng góp nhất định vào sản xuất nông nghiệp nhƣng trong thực tế cũng còn nhiều vấn đề không dễ khắc phục. Trong khi đó, do khả năng tự tích lũy thấp nên nông hộ ở TP. Cần Thơ rất cần vay tín dụng chính thức. Để mở rộng cơ hội tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ, Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách ƣu đãi. Tuy nhiên, các chính sách này chƣa phát huy tác dụng nhƣ mong đợi do làm tăng rủi ro cho các TCTD (Lê Khƣơng Ninh, 2013; Lê Khƣơng Ninh & cộng sự, 2013; Lê Khƣơng Ninh, 2014). 5.1.2. Kết quả sản xuất lúa của nông hộ Số liệu khảo sát cho thấy, có đến 88,5% nông hộ ở TP. Cần Thơ sản xuất lúa 3 vụ, vì vậy trên đồng ruộng lúc nào cũng có lúa. Do đó, theo Nguyễn Thị Hai (2011), Chu Văn Hách (2012), lúa rất dễ bị sâu bệnh nên cần phải sử dụng thuốc nông dƣợc liên tục, ảnh hƣởng rất lớn đến môi trƣờng và chất lƣợng hạt lúa. Mặt khác, để đảm bảo thu nhập, các nông hộ phải tăng cƣờng sử dụng phân bón để tăng năng suất. Hiện tƣợng này, cộng với chất thải từ các khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và khu dân cƣ, làm cho môi trƣờng tự nhiên ô nhiễm trầm trọng thêm, ảnh hƣởng tiêu cực đến thu nhập và hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa của nông hộ. Vụ Đông xuân thƣờng xuống giống từ tháng 10 năm này và đến tháng 2 năm sau thì thu hoạch. Diện tích và lợi nhuận của vụ này thƣờng cao hơn vụ Hè thu và Thu đông, do thời tiết thuận lợi nên tiết kiệm đƣợc chi phí và năng 75 suất cao. Đối với vụ Hè thu, nông hộ thƣờng xuống giống từ tháng 2 đến tháng 3 và thu hoạch vào tháng 6. Diện tích vụ này đang giảm dần, bởi giá lúa Hè thu thấp nhƣng chi phí sản xuất lại cao, làm giảm lợi nhuận. Đối với vụ Thu đông, nông hộ xuống giống vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 và thu h
File đính kèm:
luan_an_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_kinh_te_trong_san_xuat_l.pdf
TS01-NTDung_luana_trangthongtin.doc
TS01-NTDung_luana_trangthongtin.pdf
TS01-NTDung_luanan_tomtat.pdf
TS01-NTDung_luanan_tomtat_tienganh.pdf
TS01-NTDung_luanan_trangthongtin_tienganh.pdf