Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 1

Trang 1

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 2

Trang 2

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 3

Trang 3

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 4

Trang 4

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 5

Trang 5

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 6

Trang 6

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 7

Trang 7

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 8

Trang 8

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 9

Trang 9

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 189 trang nguyenduy 11/09/2024 190
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam

Luận án Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp cảng biển Việt Nam
96,72% năm 2018. 
Tóm lại, trong các nhóm cảng biển tỷ suất tự tài trợ bình quân của các cảng 
Miền Trung cao hơn nhiều so với Miền Bắc và Miền Nam cho thấy các doanh 
nghiệp cảng biển Miền Trung có khả năng tự chủ tài chính cao. Tuy nhiên tỷ suất 
tự tài trợ quá cao cũng cho thấy các cảng biển chưa sử dụng được lợi thế của đòn 
bẩy tài chính để gia tăng lợi nhuận. 
2.3.1.3. Tỷ trọng tài sản dài hạn so với tổng tài sản 
 Đây là chỉ tiêu nhằm đánh giá tình hình biến động tăng giảm của tài sản dài 
hạn so với tổng tài sản để xem xét mức độ phù hợp với ngành nghề cảng biển hay 
không qua đó sẽ biết được mức độ đầu tư vào tài sản dài hạn so với chiến lược 
phát triển của ngành và chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng khi phân tích đánh 
giá năng lực tài chính của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp cảng biển nói 
riêng. 
 77 
* Nhóm cảng Miền Bắc 
Tỷ trọng tài sản dài hạn so với tổng tài sản và mức bình quân của các doanh 
nghiệp cảng biển đại diện cho Miền Bắc được thể hiện qua Hình 2.4 (Phụ lục 7). 
Hình 2.4. Tỷ trọng tài sản dài hạn so với tổng tài sản của các doanh nghiệp 
cảng biển Miền Bắc qua các năm 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
* Nhóm cảng Miền Trung 
Tỷ trọng tài sản dài hạn so với tổng tài sản và mức bình quân của các doanh 
nghiệp cảng biển đại diện cho Miền Trung được thể hiện qua Hình 2.5 (Phụ lục 
8). 
Hình 2.5. Tỷ trọng tài sản dài hạn so với tổng tài sản của các doanh nghiệp 
cảng biển Miền Trung qua các năm 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
 78 
* Nhóm cảng Miền Nam 
Tỷ trọng tài sản dài hạn so với tổng tài sản và mức bình quân của các doanh 
nghiệp cảng biển đại diện cho Miền Nam được thể hiện qua Hình 2.6 (Phụ lục 9). 
Hình 2.6. Tỷ trọng tài sản dài hạn so với tổng tài sản của các doanh nghiệp 
cảng biển Miền Nam qua các năm 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Dựa vào hình 2.4, 2.5, 2.6, có thể nhận thấy tỷ trọng tài sản dài hạn so với 
tổng tài sản của các doanh nghiệp cảng biển chiếm tỷ trọng cao. Nguyên nhân là 
do các doanh nghiệp phải đầu tư lớn vào xây dựng cảng, mua sắm các thiết bị xếp 
dỡ giá trị lớn do hoạt động kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp là vận tải và 
xếp dỡ. Riêng đối với trường hợp cảng Đình Vũ năm 2011 là doanh nghiệp có tỷ 
trọng tài sản dài hạn trên tổng tài sản thấp nhất cả nước chỉ đạt 27,78%; nhưng 
trong giai đoạn 2012 – 2014, doanh nghiệp này đã tập trung nguồn lực đầu tư, 
nâng cấp hệ thống cảng để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác 
trong bối cảnh đang dư thừa cảng nhỏ chất lượng sơ sài trong khi đó cảng có chất 
lượng đón tàu lớn còn ít. Vì vậy, tỷ trọng tài sản dài hạn so với tổng tài sản của 
doanh nghiệp cảng này đã tăng trên 50% song vẫn có xu hướng giảm trong giai 
đoạn 2015 - 2018. 
 Nhìn chung, các doanh nghiệp cảng biển Miền Nam có tỷ suất tài sản dài 
hạn so với tổng tài sản lớn nhất cả nước; trong khi đó tỷ lệ tài sản dài hạn so với 
 79 
tổng tài sản ở các doanh nghiệp Miền Bắc và Miền Trung thấp hơn và tương đối 
tương đồng nhau. 
2.3.2. Đánh giá năng lực tài chính của các doanh nghiệp cảng biển Việt Nam 
thông qua nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán 
 Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp là đánh giá tính hợp lý về 
sự biến động các khoản phải thu và phải trả giúp doanh nghiệp có những nhận 
định chính xác hơn về thực trạng tài chính cũng như năng lực trả các khoản nợ 
đáo hạn của các loại tiền nợ. Thông qua nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh 
toán doanh nghiệp có thể thấy được những rủi ro về tài chính từ đó có các biện 
pháp hạn chế những rủi ro đó. 
2.3.2.1. Khả năng thanh toán ngắn hạn 
* Nhóm cảng Miền Bắc 
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán thông qua các hệ số thanh 
toán ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán tức thời của các doanh 
nghiệp cảng biển đại diện cho Miền Bắc được thể hiện qua Hình 2.7 (Phụ lục 10). 
Hình 2.7 . Khả năng thanh toán ngắn hạn của các doanh nghiệp cảng biển 
Miền Bắc qua các năm 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Trong giai đoạn 2008 – 2018, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của cảng 
Hải Phòng lớn hơn 1 và có xu hướng tăng lên nhờ việc công ty có các khoản tiền 
gửi ngân hàng ngắn hạn và dài hạn dồi dào trong khi các khoản nợ vay ngắn hạn 
 80 
giảm dần. Công ty liên tục giảm dư nợ vay dẫn đến hệ số thanh toán nợ ngắn hạn 
được cải thiện qua nhiều năm do công ty có lợi nhuận và dòng tiền thu về đều đặn 
hàng năm. 
Cảng Cái Lân trong giai đoạn 2011 – 2012, tỷ suất thanh toán nợ ngắn hạn 
giảm mạnh từ 4,46 % năm 2011 xuống 0,84% năm 2012. Nguyên nhân là do công 
ty triển khai xây dựng các cảng số 2, số 3 và số 4. Vì vậy các khoản tương đương 
tiền của công ty sụt giảm từ 795.808 triệu đồng xuống còn 340.966 triệu đồng 
cùng với sự gia tăng nhanh của các khoản vay ngắn hạn và phải trả người bán. 
Trong giai đoạn 2008 – 2018, hệ số thanh toán ngắn hạn của cảng Cái Lân giữ ổn 
định quanh ngưỡng 1 - ngưỡng vừa đủ để tài sản ngắn hạn bù đắp các khoản nợ 
ngắn hạn. 
Trong giai đoạn 2010 – 2018, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của cảng 
Đình Vũ có tỷ suất luôn lớn hơn 3 phản ánh công ty có khả năng thanh toán nợ 
ngắn hạn tốt. 
* Nhóm cảng Miền Trung 
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn của nhóm các doanh 
nghiệp cảng biển đại diện cho Miền Trung được thể hiện qua Hình 2.8 (Phụ lục 
11). 
Hình 2.8. Khả năng thanh toán ngắn hạn của các doanh nghiệp cảng biển 
Miền Trung qua các năm 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
 81 
Giai đoạn 2008 – 2018, các cảng Miền Trung có hệ số thanh toán ngắn hạn 
khá tốt. Trong đó, cảng Nha Trang có hệ số thanh toán ngắn hạn cao nhất. Hệ số 
thanh toán ngắn hạn của cảng Nha Trang có xu hướng tăng đều trong giai đoạn 
2008 – 2013. Tuy nhiên, hệ số này lại có xu hướng giảm trong các năm 2014 và 
năm 2015 (từ 5,89% năm 2014 giảm xuống 2,83% năm 2015). Nguyên nhân là 
do trong các năm này các khoản nợ ngắn hạn của công ty tăng nhanh do công ty 
mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh. 
* Nhóm cảng Miền Nam 
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn của nhóm các doanh 
nghiệp cảng biển đại diện cho Miền Nam được thể hiện qua Hình 2.9 (Phụ lục 
12). 
Hình 2.9. Khả năng thanh toán ngắn hạn của các doanh nghiệp cảng biển 
Miền Nam qua các năm 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Trong giai đoạn 2008 – 2018, hệ số thanh toán ngắn hạn của các cảng biển 
Miền Nam tương đối đồng đều. Đặc biệt trong đó hệ số thanh toán ngắn hạn của 
cảng Cát Lái có xu hướng tăng đột biến. Cụ thể hệ số thanh toán ngắn hạn của 
doanh nghiệp cảng này từ 0,68% năm 2014 lên 15,07 vào năm 2017, sau đó đến 
năm 2018 giảm nhẹ và đạt mức 13,25%. Nguyên nhân của sự tăng đột biến này 
là do tài sản ngắn hạn, tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của công ty 
tăng nhanh trong khi các khoản nợ ngắn hạn giảm mạnh. Từ năm 2014 đến năm 
2017, tài sản ngắn hạn tăng 253.527 triệu đồng tương ứng 609,7%; các khoản nợ 
 82 
ngắn hạn giảm 51.640 triệu đồng tương ứng 70,57%. Hệ số thanh toán ngắn hạn 
của cảng Cát Lái cao thể hiện khả năng thanh toán cao so với nghĩa vụ phải thanh 
toán. Tuy nhiên hệ số này tăng cao phản ánh doanh nghiệp chưa sử dụng hiệu quả 
nguồn vốn nhàn rỗi. Điều này còn được thể hiện qua chỉ tiêu doanh thu hoạt động 
tài chính của công ty (lãi Ngân hàng) tăng nhanh từ 587 triệu đồng năm 2014 lên 
7.668 triệu đồng vào năm 2017. 
Tóm lại, qua phân tích có thể thấy các doanh nghiệp cảng biển Miền Trung 
có hệ số thanh toán ngắn hạn cao nhất cả nước. Các doanh nghiệp cảng biển Miền 
Bắc và Miền Nam có hệ số thanh toán ngắn hạn thấp nhưng vẫn lớn hơn 1 - 
ngưỡng vừa đủ để tài sản ngắn hạn bù đắp các khoản nợ ngắn hạn. Bên cạnh đó, 
một số doanh nghiệp gặp phải khó khăn như đầu tư quá nhiều nguồn lực tài chính 
vào tài sản cố định nhưng chưa đạt được hiệu quả kinh doanh như trường hợp của 
cảng Cái Lân. Khi dự án xây dựng biển số 2, số 3, số 4 đã hoàn thành và đi vào 
khai thác nhưng hiệu quả đem lại chưa đáp ứng được kế hoạch đặt ra. Hoạt động 
kinh doanh của cảng Cái Lân liên tục lỗ làm gia tăng gánh nặng về tài chính với 
việc trả lãi và gốc cho khoản vốn vay lớn. Bên cạnh đó hầu hết các doanh nghiệp 
cảng biển Miền Trung có hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn cao cho thấy các 
doanh nghiệp cảng biển Miền Trung đầu tư quá mức vào tài sản ngắn hạn mà 
không mang lại hiệu quả kinh tế cao. 
2.3.2.2. Khả năng thanh toán nhanh 
Khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp được sử dụng như một thước 
đo để đánh giá khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn bằng việc chuyển 
hóa tài sản ngắn hạn thành tiền mà không cần phải bán đi hàng tồn kho. 
Tỷ lệ thay đổi giữa các hệ số thanh toán gồm: Hệ số thanh toán nhanh/Hệ 
số thanh toán ngắn hạn, Hệ số thanh toán tức thời/Hệ số thanh toán nhanh của các 
doanh nghiệp đại diện cho ba miền Bắc, Trung, Nam và bình quân cả nước được 
thể hiện qua hình 2.10, 2.11, 2.12 và 2.13 như sau: 
 83 
 Hình 2.40. Tỷ lệ thay đổi giữa các hệ số thanh toán của doanh nghiệp 
cảng biển Miền Bắc trong giai đoạn 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
 Hình 2.51. Tỷ lệ thay đổi giữa các hệ số thanh toán của doanh nghiệp 
cảng biển Miền Trung trong giai đoạn 2008 - 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Hình 2.62. Tỷ lệ thay đổi giữa các hệ số thanh toán của doanh nghiệp cảng 
biển Miền Nam trong giai đoạn 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
 84 
Hình 2.73. Tỷ lệ thay đổi giữa các hệ số thanh toán của doanh nghiệp cảng 
biển cả nước trong giai đoạn 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Trong giai đoạn 2008 - 2018, tỷ lệ thay đổi HSTTN/ HSTTNH ở cảng Hải 
Phòng lớn nhất so với các cảng Miền Bắc. Tương tự như thế, tỷ lệ này cao nhất là 
của cảng Quy Nhơn ở Miền Trung và cảng Sài Gòn ở Miền Nam. Tuy nhiên tỷ lệ 
này thay đổi không nhiều vì đặc thù của các doanh nghiệp cảng biển là hàng tồn 
kho chiếm tỷ trọng thấp so với tài sản ngắn hạn. 
Theo hình 2.16, hệ số thanh toán nhanh của các doanh nghiệp cảng biển 
Miền Trung cao nhất cả nước, tiếp sau đó là các doanh nghiệp cảng biển Miền 
Bắc và các doanh nghiệp cảng biển Miền Nam. Tuy nhiên mức bình quân vẫn lớn 
hơn 1- ngưỡng vừa đủ để tiền và các khoản tương đương tiền bù đắp các khoản 
nợ ngắn hạn. Mặt khác, hệ số thanh toán nhanh của các doanh nghiệp cảng biển 
Miền Trung quá cao cũng cho thấy cơ cấu vốn lưu động của các doanh nghiệp 
này chưa hợp lý. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp cảng biển này tập trung 
quá nhiều vốn bằng tiền vào chứng khoán ngắn hạn không hiệu quả. Vì vậy, các 
doanh nghiệp cảng biển Miền Trung nên điều chỉnh giảm hệ số này trong những 
năm tới để sử dụng vốn tốt hơn. 
2.3.2.3. Khả năng thanh toán tức thời 
Khả năng thanh toán tức thời phản ánh khả năng bù đắp nợ ngắn hạn bằng 
số tiền đang có của doanh nghiệp. Do tiền có tầm quan trọng đặc biệt quyết định 
 85 
tính thanh toán nên chỉ tiêu này được sử dụng nhằm đánh giá khắt khe khả năng 
thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp. 
 Theo kết quả phân tích ở hình 2.10, 2.11và 2.12 ở miền Bắc tỷ lệ thay đổi 
HSTTTT/HSTTN ở cảng Cái Lân lớn nhất; tỷ lệ này cao nhất là 89,71% vào năm 
2015 mặc dù khả năng thanh toán tức thời ở mức rất thấp chỉ đạt 0,1. Ở Miền 
Trung, cảng Quy nhơn có tỷ lệ thay đổi HSTTTT/HSTTN cao nhất vào năm 2013 
đạt 60,34%, hệ số thanh toán tức thời đạt 0,73. Ở Miền Nam, cảng Đồng Nai có 
tỷ lệ thay đổi HSTTTT/HSTTN cao nhất năm 2012 đạt tới 61,88%, khả năng 
thanh toán tức thời ở mức đạt 0,42. 
Tóm lại, một số doanh nghiệp như cảng Cái Lân, cảng Quy Nhơn hay các 
doanh nghiệp cảng biển Miền Nam có quy mô và tỷ trọng các khoản phải thu trên 
tổng tài sản khá lớn. Vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn các doanh nghiệp 
cảng biển cần phải cố gắng trong việc thu hồi nợ, giảm lượng vốn bị các đơn vị 
khác chiếm dụng. Kết quả phân tích cũng cho thấy các doanh nghiệp cảng biển 
Miền Trung có hệ số thanh toán tức thời cao nhất cả nước, tiếp sau đó là các doanh 
nghiệp cảng biển Miền Bắc và các doanh nghiệp cảng biển Miền Nam có hệ số 
khả năng thanh toán tức thời thấp. Mức bình quân thấp nhất về hệ số thanh toán 
tức thời của các doanh nghiệp Miền Nam là 0,35 vào năm 2012, nghĩa là số tiền 
hiện có của các doanh nghiệp cảng biển Miền Nam có khả năng bù đắp 35% nợ 
ngắn hạn. Đồ thị cũng cho thấy các doanh nghiệp cảng biển Miền Nam có tỷ lệ 
các khoản phải thu lớn hơn so với các doanh nghiệp cảng biển Miền Bắc và Miền 
Trung. Tỷ lệ các khoản phải thu tăng lên thể hiện vốn ứ đọng nhiều hơn trong 
khâu thanh toán, doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh cần phải có thêm 
nguồn vốn tài trợ. Tuy nhiên. hệ số thanh toán tức thời của các cảng biển Miền 
Bắc và Miền Trung quá cao (lớn hơn 1,32) sẽ làm tăng chi phí cơ hội và chi phí 
lưu trữ, bảo quản của việc nắm giữ tiền.Vì thế doanh nghiệp nên sử dụng tiền mặt 
tốt hơn để có thể mang lại lợi nhuận lớn nhất. 
 86 
2.3.3. Đánh giá năng lực tài chính của các doanh nghiệp cảng biển Việt Nam 
thông qua nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời 
 Khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cảng biển 
được tác giả lựa chọn để đánh giá qua hai chỉ tiêu: Tỷ suất sinh lời trên tổng tài 
sản (ROA) và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE). 
2.3.3.1. Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) 
 Chỉ tiêu tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản 
trong hoạt động kinh doanh. Đây là một chỉ tiêu khá toàn diện trong việc đánh giá 
hiệu quả kinh doanh, phản ánh mỗi đồng tài sản sử dụng trong hoạt động kinh 
doanh có thể mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Độ lớn của chỉ tiêu này thể hiện 
hiệu quả trong sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Tỉ suất sinh lời trên tài sản 
thường được coi là một chỉ tiêu đánh giá sự thành công trong hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp. 
* Nhóm cảng Miền Bắc 
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) của các doanh nghiệp cảng biển 
đại diện cho Miền Bắc được thể hiện qua Hình 2.14 (Phụ lục 13). 
Hình 2.84. Chỉ tiêu ROA của nhóm các doanh nghiệp cảng biển Miền Bắc 
trong giai đoạn 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Trong giai đoạn 2008 – 2018, chỉ tiêu ROA của Cảng Hải Phòng có sự biến 
động không rõ ràng; cụ thể chỉ tiêu ROA của năm 2010 so với năm 2009 giảm 
 87 
5,11%, hệ số biên lợi nhuận ròng giảm 9,99% nguyên nhân là do lợi nhuận ròng 
năm 2010 giảm 33,62% so với năm 2009 mặc dù doanh thu năm 2010 tăng 5,02% 
thực trạng này là do doanh nghiệp đã không kiểm soát tốt chi phí. Năm 2011, năm 
2012 chỉ tiêu ROA có sự biến động tăng theo chiều hướng tích cực. Năm 2013 
chỉ tiêu ROA của Cảng Hải Phòng tăng 6,48%, nguyên nhân là do hệ số biên lợi 
nhuận ròng năm 2013 tăng 10,92% so với năm 2012. Mặc dù doanh thu năm 2013 
có giảm so với năm 2012 nhưng do doanh nghiệp quản lý tốt chi phí nên lợi nhuận 
ròng năm 2013 tăng 147.245 triệu đồng so với năm 2012. Năm 2014 chỉ tiêu ROA 
chỉ đạt 4,26%, hệ số biên lợi nhuận ròng tăng 4,39% nhưng hệ số vòng quay tài 
sản lại giảm mạnh từ 62,21% năm 2013 xuống còn 18,57% năm 2014. Nguyên 
nhân là do cảng Hải Phòng đã vay nợ dài hạn để tập trung mua nhiều tài sản nhưng 
các tài sản này lại có hiệu quả sinh lời thấp, ngoài ra cũng do sản lượng hàng 
thông qua của cảng Hải Phòng so với sản lượng khu vực Hải Phòng năm 2014 
giảm so với năm 2013. Nhưng đến năm 2015, năm 2016 chỉ tiêu ROA có chiều 
hướng biến động tăng lên lần lượt là 10,95% và 11,67%. Hệ số biên lợi nhuận 
ròng tăng và giữ mức độ ổn định, hệ số vòng quay tài sản đạt 44,17% năm 2015 
và tăng lên 46,83% vào năm 2016 cho thấy cảng Hải Phòng đã gia tăng sản lượng, 
bước đầu kiểm soát tốt chi phí, nâng cao hiệu suất sử dụng của những tài sản sẵn 
có. Năm 2017 chỉ tiêu ROA giảm 2,47% so với năm 2016, hệ số biên lợi nhuận 
ròng giảm 1,62% là do tổng doanh thu năm 2017 giảm chỉ đạt 80,52% so với năm 
2016. Hệ số vòng quay tài sản giảm 7,32% là do doanh nghiệp đã đầu tư mua sắm 
tài sản phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhưng chưa đem lại hiệu quả như mục 
tiêu đã đặt ra. Tuy nhiên đến năm 2018 chỉ tiêu ROA cũng có phần được cải thiện 
đạt ở mức 9,44%, cao hơn 0,23% so với năm 2017. 
Chỉ tiêu ROA của cảng Đình Vũ từ năm 2008 đến năm 2018 có sự biến 
động theo chiều hướng tích cực và luôn giữ ở mức ổn định. Năm 2008 và năm 
2009 chỉ tiêu ROA lần lượt đạt 12,33% và 18,41%, hệ số biên lợi nhuận ròng tăng 
từ 26,82% năm 2008 lên 32,09% năm 2009; hệ số vòng quay tài sản cũng tăng 
lên 11,38% so với năm 2008. Đáng chú ý năm 2010 chỉ tiêu ROA đạt 28,08% 
 88 
tăng 9,67% so với năm 2009; hệ số vòng quay tài sản và hệ số biên lợi nhuận ròng 
đều tăng lần lượt là 7,63% và 11,11% so với năm 2009 điều này chứng tỏ doanh 
nghiệp đã có phương hướng hoạt động kinh doanh hiệu quả khi gia tăng doanh 
thu, kiểm soát được chi phí thể hiện qua chỉ tiêu lợi nhuận ròng năm 2010 đạt 
141.580 triệu đồng tăng 66,84% so với năm 2009, tăng đầu tư tài sản (tổng tài 
sản năm 2010 tăng 9,63% so với năm 2009), giảm nợ phải trả (nợ phải trả năm 
2010 giảm 31,54 % so với năm 2009). Tuy nhiên đến năm 2011 chỉ tiêu ROA của 
cảng Đình Vũ giảm 6,39% so với năm 2010. Nguyên nhân là do cảng Đình Vũ 
huy động nguồn tài chính bằng việc tăng cường vay nợ để đẩy mạnh hoạt động 
sản xuất kinh doanh vì thế đầu tư tài chính ngắn hạn tăng từ 96 tỷ đồng lên 158 tỷ 
đồng; đầu tư dài hạn cũng tăng lên khoảng 15 tỷ đồng dẫn đến chi phí tăng nhưng 
chưa đem lại hiệu quả. Từ năm 2012 đến năm 2018, chỉ tiêu ROA có sự biến động 
theo chiều hướng tích cực nhờ sản lượng hàng hóa liên tục tăng mặc dù cước phí 
giảm nhẹ. Với cấu trúc vốn khá ổn định và lành mạnh tăng dần qua các năm cùng 
tốc độ tăng trưởng tài sản cố định, doanh thu và lợi nhuận cho thấy cảng Đình Vũ 
đang bước vào giai đoạn tăng trưởng trong chu kỳ kinh doanh. 
Trong giai đoạn 2008 – 2018, hoạt động kinh doanh của cảng Cái Lân 
không hiệu quả mà còn biến động theo chiều hướng tiêu cực. Đặc biệt giai đoạn 
năm 2008 và năm 2009 khi mà chỉ tiêu ROA của doanh nghiệp sụt giảm từ 10,89% 
năm 2008 xuống còn (-1,07%) năm 2009 do hệ số biên lợi nhuận ròng giảm từ 
847,46% xuống còn (-20,00%) mặc dù tổng doanh thu tăng mạnh chứng tỏ doanh 
nghiệp không kiểm soát được chi phí. Tuy nhiên hiệu quả sinh lời của tài sản đã 
được cải thiện thể hiện qua chỉ tiêu hệ số vòng quay tài sản năm 2009 đạt 5,36% 
tăng 4,07% so với năm 2008. Từ năm 2009 đến năm 2015 doanh nghiệp bị lỗ 
trong nhiều năm làm cho chỉ tiêu ROA của cảng Cái Lân luôn trong tình trạng âm 
và chiều hướng tăng dần xét về giá trị tuyệt đối. Năm 2016 và năm 2017 chỉ tiêu 
ROA có sự cải thiện hơn khi đạt lần lượt là (-2,36%) và 1,74%. Nguyên nhân là 
do cảng Cái Lân có các khoản vốn vay của dự án chiếm tỷ lệ cao – 67,82% trong 
tổng số vốn đầu tư. Năm 2012, cảng Cái Lân phải trả hơn 4,4 triệu USD lãi vay; 
 89 
năm 2013 là gần 9,5 triệu USD và năm 2014 là gần 13,6 triệu USD cả gốc và lãi. 
Mặt khác doanh thu và sản lượng xếp dỡ của cảng Cái Lân quá thấp nên không 
đủ cân đối cho trả nợ và lãi vay ngay trong điều kiện bình thường. 
* Nhóm cảng Miền Trung 
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) của các doanh nghiệp cảng biển 
đại diện cho Miền Trung được thể hiện qua Hình 2.15 (Phụ lục 14). 
Hình 2.95. Chỉ tiêu ROA của nhóm các doanh nghiệp cảng biển Miền 
Trung trong giai đoạn 2008 – 2018 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Trong các cảng biển Miền Trung, cảng Đà Nẵng có chỉ tiêu ROA cao nhất 
và có xu hướng ngày càng tăng theo thời gian. Năm 2008, năm 2009 chỉ tiêu ROA 
đạt lần lượt là 2,03% và 1,98% giảm 0,05% là do hệ số vòng quay tài sản giảm từ 
54,93% xuống còn 53,65%; hệ số biên lợi nhuận ròng vẫn giữ ở mức độ ổn định 
3,70%. Hệ số biên lợi nhuận ròng năm 2010 tăng từ 3,70% lên 23,05% vào năm 
2016 phản ánh dấu hiệu tích cực doanh nghiệp đã biết tạo ra lợi nhuận trên doanh 
thu nhiều hơn. Năm 2014, chỉ tiêu ROA chỉ đạt 5,52%; nguyên nhân là do hệ số 
vòng quay tài sản của cảng Đà Nẵng đã giảm 27,16% (từ 52,08% năm 2013 xuống 
24,93% vào năm 2014). Năm 2015, chỉ tiêu ROA của doanh nghiệp 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_giai_phap_nang_cao_nang_luc_tai_chinh_cua_doanh_nghi.pdf
  • pdfTom tat Luan an Hoang Thi Phuong Lan.pdf
  • pdfThong tin luan an tien si Hoàng Thị Phương Lan.pdf