Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 199 trang nguyenduy 10/10/2025 90
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long
.2.6 Phân tích hàm lượng đạm trong cây lúa 
Hàm lượng đạm tổng số trong rơm và trong hạt lúa được công phá bằng 
cách vô cơ hóa mẫu trong hỗn hợp acid sulfuric đậm đặc và H2O2. Xác định 
hàm lượng đạm tổng số trong mẫu phân tích bằng phương pháp chưng cất 
Kjeldahl. Mẫu cây lúa được phân tích tại Phòng Thí nghiệm Bộ môn Khoa học 
Đất - Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng - Trường Đại học Cần Thơ. 
3.4.2.7 Phương pháp xử lý số liệu và phân tích thống kê 
Số liệu trong các nghiên cứu được xử lý tính toán bằng phần mềm 
Microsoft Excel. Phân tích phương sai dùng kiểm định Tukey so sánh khác biệt 
trung bình giữa các nghiệm thức trên phần mềm Minitab v16 theo hướng dẫn 
của Minitab (2010) và Lawal (2014). Số liệu năng suất lúa, lượng đạm trong 
rơm và trong hạt các thí nghiệm qua ba vụ canh tác được xử lý thống kê bằng 
cách combine (hợp nhất) dữ liệu của nhiều vụ theo các tài liệu của Gomez & 
Gomez (1984); Lal (2015) và Moore & Dixon (2015). 
 75 
CHƯƠNG 4 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
4.1 NGHIÊN CỨU 1: KHẢO SÁT SỰ HÒA TAN VÀ THỦY PHÂN 
CỦA CÁC DẠNG PHÂN ĐẠM 
4.1.1 Sự hòa tan của các dạng phân đạm trong nước 
Mức độ hòa tan của các dạng phân đạm trong nước được xác định bằng tỷ 
lệ urê hòa tan trong nước. Trong đó, tỷ lệ urê hòa tan trong nước được tính bằng 
phần trăm hàm lượng urê hòa tan ở thời điểm khảo sát so với hàm lượng urê có 
trong phân bón. Kết quả urê hòa tan (%) của các dạng phân đạm theo thời gian 
được trình bày ở Hình 4.1. 
Tỷ lệ urê hòa tan của phân urê và urê-nBTPT cho thấy sự hòa tan trong 
nước hai loại phân này diễn ra rất nhanh, chỉ sau 1 giờ đã hòa tan hoàn toàn 
(100% lượng urê có trong phân bón). Phân NPK viên nén có sự hòa tan urê 
chậm hơn so phân urê thường và urê-nBTPT do trong bản thân viên nén được 
kết hợp với một số nguyên tố dinh dưỡng khác và nén lại thành viên. Tuy nhiên, 
tỷ lệ hòa tan của urê trong phân NPK viên nén chỉ trong vòng 1 ngày là đã hoàn 
toàn tan hết lượng urê-N chứa trong phân bón. 
Kết quả sự hòa tan trong nước của ba loại phân phân urê, urê-nBTPT và 
NPK viên nén cho thấy các loại phân đều rất dễ tan nên cần rất chú ý trong quá 
trình bảo quản và vận chuyển. Lượng urê hòa tan nhanh này sẽ thủy phân thành 
dạng NH4+ để cây trồng có thể sử dụng, hấp phụ trong đất hoặc bị mất đạm trực 
tiếp sau khi bón. 
 Hình 4.1: Tỷ lệ urê hòa tan trong nước giữa các dạng phân đạm theo thời gian 
Ghi chú: IBDU: Isobutylidene diurea. nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 
0
20
40
60
80
100
Ban đầu 1 giờ 2 giờ 1 ngày 15 ngày 1 tháng 2 tháng 3 tháng
Urê
Urê-nBTPT
NPK viên nén
NPK IBDU
(N
H
2
) 2
C
O
-N
 (
%
) 
Thời gian sau khi ủ 
 76 
Kết quả phân tích cho thấy phân NPK IBDU hòa tan rất chậm trong nước. 
Mặc dù sau khi được ngâm 3 tháng trong nước nhưng phân chỉ hòa tan 26,2% 
lượng urê-N. Sự phóng thích rất chậm lượng đạm vào trong nước do phân NPK 
IBDU được sản xuất bằng cách trùng ngưng urê và isobutyraldehyde hình thành 
cấu trúc hóa học dạng chuỗi polymer và sự hòa tan gắn liền với sự phân giải cấu 
trúc của IBDU (xem Hình 2.4). Ngoài ra, theo Sartain & Kruse (2001) và 
Trenkel (2010) trong thành phần IBDU dạng đạm khó tan chiếm đến 90% có 
thể đã làm cho tỷ lệ urê hòa tan trong nước ở mức thấp. 
Theo Trenkel (2010) và Varadachari & Goertz (2010) sự hòa tan phân 
IBDU phụ thuộc vào pH, nhiệt độ và ẩm độ đất. Trong điều kiện phòng thí 
nghiệm, phân được nghiên cứu chủ yếu trong môi trường nước cất, pH mẫu ủ 
gần trung tính do đó đã làm giảm tính hòa tan của IBDU. Trong điều kiện đồng 
ruộng pH thấp (pH = 4,5) có hiệu quả làm tăng tính hòa tan của phân IBDU biểu 
hiện qua việc cung cấp đạm tốt cho cây lúa, năng suất, hiệu quả nông học và 
hiệu quả thu hồi đạm đạt tương đương phân urê. 
4.1.2 Sự thủy phân của các dạng phân đạm trong đất 
Mức độ thủy phân của các dạng phân đạm trong đất được xác định bằng 
tỷ lệ lượng urê-N thủy phân thành lượng NH4+-N trong đất. Cụ thể, tỷ lệ urê-N 
thủy phân trong đất ở các thời điểm khảo sát được tính bằng tỷ lệ phần trăm 
hàm lượng NH4+-N thủy phân so với hàm lượng urê-N ban đầu có trong phân 
bón. Hình 4.2 trình bày kết quả thủy phân (%) của các dạng phân đạm theo thời 
gian. 
Khi bón urê vào trong đất phân tử urê sẽ bị phá hủy thông qua quá trình 
thủy phân. Khi ủ phân urê trong dung dịch đất, tỷ lệ đạm NH4+ thủy phân sau 1 
ngày là 49,3%, sau 2 ngày là 77,2% và sau 2 ngày là 83,2% (Hình 4.2). Sự thủy 
phân của phân urê tiếp tục ở các ngày tiếp sau và đến ngày thứ 8 sau khi ủ thì 
sự thủy phân urê hầu như hoàn toàn (95,5%). Vật liệu urê hạt dễ tan trong nước 
và đồng thời không có chất ức chế quá trình thủy phân nên tốc độ thủy phân rất 
nhanh dễ gây mất đạm. 
Kết quả thí nghiệm trình bày ở Hình 4.2 cho thấy tỷ lệ NH4+-N thủy phân 
của phân urê-nBTPT sau khi ủ 1 ngày là 39,6%, sau 2 ngày là 76,1%, sau 3 ngày 
là 81,5%. Trong quá trình thủy phân, tỷ lệ NH4+-N thủy phân từ phân urê-
nBTPT ở thời điểm 1 ngày sau khi ủ thấp hơn so với urê thường (Hình 4.2). Kết 
quả NH4+ thủy phân từ phân urê-nBTPT cho thấy việc phối trộn chất nBTPT 
trong phân urê-nBTPT có tác dụng kém trong việc hạn chế sự thủy phân urê 
thành NH4+-N trong dung dịch đất. Ở các thời điểm tiếp sau (từ 2 đến 8 ngày 
sau khi ủ) tỷ lệ đạm NH4+ thủy phân từ urê-nBTPT tương tự so với urê. 
 77 
Nghiên cứu của Phongpan & Byrnes (1990) khi bón phân urê có hàm 
lượng ammoniacal-N cao hơn so với bón phân urê-nBTPT cùng liều lượng trong 
vòng 5 ngày đầu sau khi bón. Kết quả của thí nghiệm khi bón urê-nBTPT cho 
thấy hiệu quả của chất ức chế nBTPT trong việc trong giảm thủy phân urê trong 
vòng 3 ngày sau ủ. Do đó có thể nghiên cứu liều lượng phối trộn chất nBTPT 
trong phân urê để tăng hiệu quả trong việc giảm thủy phân urê dùng trong thí 
nghiệm. 
Hình 4.2: Tỷ lệ NH4+-N thủy phân từ phân bón giữa các dạng phân đạm 
theo thời gian (%) 
Ghi chú: IBDU: Isobutylidene diurea. nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 
Tỷ lệ NH4+-N thủy phân của phân NPK viên nén tương tự như phân urê 
do phân NPK viên nén dùng nguyên liệu là phân urê để nén. Ở thời điểm 1 ngày 
sau khi ủ, tỷ lệ NH4+-N thủy phân của nghiệm thức NPK viên nén đến 48,7% 
hàm lượng urê-N ban đầu chứa trong phân. Sau 2 ngày ủ, tỷ lệ NH4+ thủy phân 
của phân NPK viên nén ở mức 76,0%. Sau 3 ngày ủ, tỷ lệ NH4+ thủy phân của 
phân viên nén lên đến 81,0%. Ở các ngày tiếp sau (4 - 8 ngày sau khi ủ) sự thủy 
phân của phân NPK viên nén tiếp tục xảy ra và sự thủy phân NH4+ hầu như hoàn 
toàn (96,7%) tính đến ngày thứ 8 sau khi ủ. Tỷ lệ thủy phân NH4+-N của phân 
NPK viên nén ở các thời điểm khảo sát (1 - 8 ngày sau khi ủ) chưa khác biệt so 
với phân urê có thể do phân NPK viên được nén từ phân urê. Kết quả thủy phân 
nhanh của phân NPK viên nén chưa thấy hiệu quả trong việc hạn chế sự thủy 
phân trong điều kiện thí nghiệm trong phòng khi viên phân không được vùi sâu. 
Phân NPK IBDU trong dung dịch đất đã bắt đầu thủy phân ở thời điểm 1 
ngày sau khi ủ. Tuy nhiên, tỷ lệ NH4+-N thủy phân trong dung dịch đất rất thấp 
0
20
40
60
80
100
Ban đầu 1 ngày 2 ngày 3 ngày 4 ngày 6 ngày 8 ngày 12 ngày 1 tháng 2 tháng
Urê
Urê-nBTPT
NPK viên nén
NPK IBDUN
H
4
+
-N
 (
%
) 
Thời gian sau khi ủ 
 78 
do cấu trúc chậm tan của IBDU nên lượng dinh dưỡng được giải phóng từ từ. 
Kết quả phân tích cho thấy phân NPK IBDU sau 1 ngày chỉ thủy phân 0,75%, 
sau 2 ngày 4,6%, sau 3 ngày 5,1%, sau 4 ngày 7,2%, sau 6 ngày 8,8%, sau 8 
ngày 10,1%, sau 12 ngày 11,3%, sau 1 tháng 14,1% và sau 2 tháng 17,3% lượng 
NH4+-N so với lượng N ban đầu có trong phân do lượng hòa tan của phân IBDU 
thấp trong điều kiện thí nghiệm. Hiệu quả thủy phân có thể tăng khi độ hòa tan 
của phân IBDU tăng trong điều kiện đồng ruộng trong đất có pH thấp (pH = 
4,5). Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy phân NPK IBDU có sự hòa tan chậm 
nhưng hàm lượng N hữu dụng vẫn đáp ứng theo nhu cầu sinh trưởng và phát 
triển của lúa (Shaviv & Mikkelsen, 1993; Carreres et al., 2003). 
Tóm lại, kết quả từ nghiên cứu 1 cho thấy các loại phân đạm urê thường, 
urê-nBTPT, NPK viên nén tan rất nhanh trong nước trừ phân NPK IBDU tan 
rất chậm. Sau 1 giờ urê thường và urê-nBTPT đã tan hoàn toàn 100% với hàm 
lượng urê, riêng phân NPK viên nén hòa tan hoàn toàn sau 1 ngày. Hiệu quả của 
chất ức chế men thủy phân urease có trong phân urê-nBTPT thể hiện rõ qua 
lượng NH4+-N thủy phân trong vòng 3 ngày sau khi ủ so với phân urê. Phân urê-
nBTPT cần được nghiên cứu cách phối trộn với hợp chất nBTPT phù hợp hoặc 
các chất ức chế sự thủy phân urê khác để tăng hiệu quả trong việc làm giảm sự 
thủy phân urê. Phân NPK viên nén có hàm lượng đạm bị thủy phân chưa thấy 
sự khác biệt so với urê thường còn phân NPK IBDU thủy phân rất chậm trong 
điều kiện thí nghiệm. 
 79 
4.2 NGHIÊN CỨU 2: KHẢO SÁT SỰ PHÂN BỐ ĐẠM TRONG ĐẤT 
VÀ LƯỢNG ĐẠM TRONG NƯỚC THEO THỜI GIAN 
Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng phân đạm đến sự phân bố đạm trong 
đất và lượng đạm trong nước theo thời gian được thực hiện ở điều kiện đồng 
ruộng trên lô trống không trồng lúa. Các lô trống được bố trí vào các lô của 2 
thí nghiệm đồng ruộng tại 2 xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh (vụ 
đông xuân 2012/2013 và vụ hè thu 2013) và tại xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - 
tỉnh Vĩnh Long (vụ đông xuân 2013/2014) trong nghiên cứu 4. 
4.2.1 Ảnh hưởng của các dạng phân đạm đến pH và hàm lượng đạm trong 
nước ruộng 
4.2.1.1 Ảnh hưởng của các dạng phân đạm đến pH nước ruộng 
a) Thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh 
Dưới sự xúc tác của men urease, khi được bón vào đất ngập nước urê 
[(NH2)2CO] sẽ chuyển thành (NH4)2CO3 rồi tiếp tục chuyển sang NH4OH. Khi 
mới bị thủy phân, urê có phản ứng kiềm nhưng không cao và chỉ thể hiện trong 
thời gian ngắn. Hình 4.3 ghi nhận pH nước ruộng ở thời điểm các ngày sau khi 
bón phân (NSKB) của các đợt bón phân. 
- Vụ đông xuân 2012/2013: 
Diễn biến pH nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Châu 
Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh vụ đông xuân 2012/2013 được trình bày 
trong Hình 4.3a. 
Tại thời điểm 1 NSKB, pH của nghiệm thức urê (7,27 - 7,43) và nghiệm 
thức urê-nBTPT (7,05 - 7,19) có khuynh hướng đạt cao hơn so với nghiệm thức 
NPK viên nén (6,74 - 7,27). Khuynh hướng pH cao của nghiệm thức bón urê và 
urê-nBTPT có thể do sự hòa tan nhanh, sự thủy phân cao của hai dạng phân này. 
Kết quả từ thí nghiệm hòa tan và thủy phân của các dạng phân đạm cho thấy 
vào thời điểm 1 giờ sau ủ urê và urê-nBTPT đã tan hết (Hình 4.1) và lượng NH4+ 
thủy phân đến 49,3% và 39,6% lượng N theo thứ tự (Hình 4.2). Bón vùi phân 
NPK viên nén không làm tăng pH nước ruộng có thể do NH4+ được hấp phụ 
trong đất. Ở các ngày tiếp sau (2 - 5 NSKB) không có sự khác biệt rõ rệt về pH 
trong nước ruộng giữa các kỹ thuật bón. 
Nhìn chung, giá trị pH trong nước ruộng được ghi nhận gần bằng 7 tại thời 
điểm 1 NSKB và thấp hơn 7 trong các thời điểm còn lại của thí nghiệm. Thông 
thường trên đất phù sa ngọt, giá trị pH nước ruộng ở mức 7,0 sau khi bón urê 
pH sẽ tăng nhanh và đạt pH cao nhất (pH = 9) vào thời điểm 2 - 3 NSKB, sau 
đó pH giảm dần và ở giá trị thông thường (Ngô Ngọc Hưng, 2004). Theo kết 
 80 
quả nghiên cứu của Ngô Ngọc Hưng (2009a) trên loại đất có OH2pH = 4,3 
(Thapto-histic suhic Tropaquepts) có pH nước ruộng chỉ khoảng 6,0 ở điều kiện 
thông thường, sau khi bón phân urê pH sẽ tăng cao (7,0 - 8,0) vào thời điểm 2 - 
3 NSKB, sau đó pH giảm dần và ổn định ở giá trị 6,0. Trong điều kiện thí 
nghiệm, giá trị pH nước ruộng của thí nghiệm không tăng cao sau khi bón có 
thể do pH đất ở mức chua nhiều ( OH2pH = 5,1) và điều kiện canh tác của thí 
nghiệm tiến hành trên đất ngập nước không liên tục, phải bơm nước tưới cho 
ruộng lúa đã hạn chế sự phát triển của tảo và các điều kiện khử của đất ngập 
liên tục. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Ferguson et al. (1984) cho thấy khi giữ 
pH nước ruộng thấp sẽ hạn chế được mất đạm dạng NH3. 
Hình 4.3: pH nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Châu Điền 
- huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh 
a) vụ đông xuân 2012/2013. b) vụ hè thu 2013. 
Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 
NSKB: Ngày sau khi bón phân. 
5
6
7
8
1 2 3 5 1 2 3 5 1 2 3 5
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
p
H
Urê Urê-nBTPT NPK viên nén
5
6
7
8
1 2 3 5 1 2 3 5 1 2 3 5
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
p
H
Urê Urê-nBTPT NPK viên nén
Bón vùi 
NSKB 
NSKB 
(b) 
(a) 
 81 
- Vụ hè thu 2013: 
Diễn biến pH nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Châu 
Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh vụ hè thu 2013 được trình bày trong Hình 
4.3b. Trong vụ hè thu 2013 diễn biến pH nước ruộng ở đợt bón phân thứ nhất 
và thứ hai của các nghiệm thức thí nghiệm tương tự như diễn biến của pH trong 
thí nghiệm vụ đông xuân 2012/2013 biến động từ 6,10 - 7,31. Riêng sau đợt bón 
phân thứ 3, pH nước ruộng (6,65 - 7,83) cao hơn ở đầu vụ (đợt 1) có thể do cuối 
vụ có mưa. 
b) Thí nghiệm tại xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long 
Kết quả diễn biến pH nước ruộng sau các đợt bón phân của thí nghiệm tại 
xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long vụ đông xuân 2013/2014 được 
trình bày ở Hình 4.4. pH nước ruộng ở các ngày sau các đợt bón phân không có 
sự khác biệt rõ giữa các nghiệm thức. Giá trị pH trung bình ở đợt 1 là 7,2 và pH 
trung bình ở đợt 2 là 7,0 có thể do quản lý nước ngập không liên tục theo cách 
tưới của nông dân. Vào giai đoạn sau khi bón phân đợt 3, giá trị pH nước ruộng 
đo được trong khoảng 7,2 - 7,8. 
Hình 4.4: pH nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Mỹ Lộc 
huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long vụ đông xuân 2013/2014 
Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 
NSKB: Ngày sau khi bón phân. 
Tóm lại, qua kết quả pH ở 2 điểm thí nghiệm qua 3 vụ lúa cho thấy pH 
nước ruộng không tăng cao sau khi bón có thể do tính chất đất và điều kiện canh 
tác. Khi bón phân urê [(NH2)2CO] phản ứng thủy phân urê sinh ra NH4+ và CO2 
trong dung dịch. Sự phóng thích CO2 và tiêu thụ H+ sau phản ứng thủy phân 
5
6
7
8
1 2 3 1 2 3 1 2 3
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
p
H
 Urê
Urê-nBTPT
NPK viên nén
NSKB 
Bón vùi 
 82 
làm tăng pH đất. Tuy nhiên, khả năng đệm của đất có thể chậm lại sự gia tăng 
pH đất sau các đợt bón phân. Bên cạnh đó, ruộng thí nghiệm phải bơm tưới 
nước, đất không ở trong trạng thái ngập nước liên tục có thể đã hạn chế sự phát 
triển của tảo và các điều kiện khử khi ngập liên tục để góp phần tăng pH. pH 
nước không tăng cao sau các đợt bón phân do pH trong nước bị ảnh hưởng quan 
trọng bởi sự phát triển của rong tảo và pH đất. Trong điều kiện thí nghiệm, pH 
đất ở mức thấp (Bảng 3.5 và Bảng 3.6) và sự phát triển của rong tảo kém do 
nông dân không để nước ngập liên tục, do đó pH nước không tăng cao. Hơn 
nữa, khi giữ pH nước ruộng thấp sẽ hạn chế được mất đạm dạng NH3. 
4.2.1.2 Ảnh hưởng của các dạng phân đạm đến hàm lượng đạm NH4+ trong 
nước ruộng 
a) Thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh 
- Vụ đông xuân 2012/2013: 
Kết quả nghiên cứu trình bày ở Hình 4.5 cho thấy hàm lượng NH4+ đối với 
nghiệm thức urê, hàm lượng NH4+ hòa tan trong vòng 1 - 3 NSKB ở mức 13,44 
- 21,32 mg/l và sau đó giảm dần theo thời gian, tại thời điểm 5 NSKB còn 2,83 
- 7,5 mg/l. Nghiệm thức urê-nBTPT có hàm lượng NH4+ hòa tan trong lớp nước 
mặt tại thời điểm 1 - 3 NSKB trong khoảng 12,13 - 12,64 mg/l và giảm dần vào 
thời gian sau đó. Hàm lượng NH4+ của nghiệm thức NPK viên nén ghi nhận khá 
thấp và ổn định trong suốt mùa vụ (3,23 - 8,24 mg/l). 
 Hình 4.5: Hàm lượng NH4+ trong nước ruộng sau các đợt bón phân 
thí nghiệm tại xã Châu Điền vụ đông xuân 2012/2013 
Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 
0
10
20
30
40
50
1 2 3 5 1 2 3 5 1 5
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
N
H
4
+
-N
(m
g
/l
)
Urê
Urê-nBTPT
NPK viên nén
NSKB 
 83 
Nhìn chung, hàm lượng đạm NH4+ cao trong nước ở nghiệm thức urê và 
urê-nBTPT; lượng NH4+ thấp ở nghiệm thức NPK viên nén. Điều này được giải 
thích là do sự hòa tan nhanh và thủy phân cao của phân urê bón khi bón vãi trên 
bề mặt ruộng. Ở thí nghiệm thủy phân NH4+-N trong đất cho thấy sự thủy phân 
nhanh của phân urê và urê-nBTPT, chỉ sau 3 ngày ủ lượng NH4+-N thủy phân 
của hai loại phân này lần lượt là 83,2% và 81,5% (xem Hình 4.2). Đối với phân 
NPK viên nén hàm lượng NH4+ hòa tan trong nước ruộng ở mức thấp do viên 
phân được vùi ở độ sâu 7 - 10 cm trong đất có thể đã tạo điều kiện thuận để đất 
hấp phụ lượng NH4+ thủy phân. 
Kết quả này phù hợp với kết quả của Phongpan & Byrnes (1990) khi sử 
dụng urê-nBTPT có lượng NH4+ tăng cao vào thời điểm 1 NSKB và tăng cao 
nhất vào thời điểm 3 NSKB. Phongpan & Byrnes (1990) cho biết thêm là phân 
urê-nBTPT vẫn xảy ra tình trạng mất đạm do chảy tràn nếu không kiểm soát 
lượng nước hay lượng mưa lớn. 
Hình 4.6: Hàm lượng NH4+ trong nước ruộng sau các đợt bón phân 
thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh vụ hè thu 2013 
Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 
NSKB: Ngày sau khi bón phân. 
Kết quả thí nghiệm của Naznin et al. (2014) và Huda et al. (2016) cho thấy 
hàm lượng NH4+ trong nước ruộng của các nghiệm thức bón urê cao hơn nhiều 
so với bón viên siêu urê hay NPK viên nén; đặc biệt là vào thời điểm 2 NSKB, 
giảm sau đó và đến 6 NSKB thì hàm lượng NH4+-N của tất cả các nghiệm thức 
đều bằng nhau. Schnier et al. (1990) cho rằng phân đạm vùi sâu có NH3(aq) 
trong nước giảm đáng kể làm cho sự mất N thấp hơn so với phân bón vãi. 
0
10
20
30
40
50
1 2 3 5 1 2 3 5 1 2 3 5
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
N
H
4
+
-N
 (
m
g
/l
)
Urê
Urê-nBTPT
NPK viên nén
NSKB 
 84 
- Vụ hè thu 2013: 
Ở vụ hè thu 2013, hàm lượng đạm trong nước của các nghiệm thức cho 
kết quả tương tự như ở vụ đông xuân. Hàm lượng NH4+ hòa tan trong lớp nước 
mặt của các nghiệm thức urê và urê-nBTPT có khuynh hướng cao hơn đối với 
nghiệm thức NPK viên nén. Đối với nghiệm thức urê thường, hàm lượng NH4+ 
hòa tan trong vòng 1 - 3 NSKB ở mức 4,98 - 9,06 mg/l và sau đó giảm dần theo 
thời gian, thấp nhất tại thời điểm 5 NSKB (1,93 mg/l). Nghiệm thức urê-nBTPT 
có hàm lượng NH4+ hòa tan trong lớp nước mặt tại thời điểm 1 - 3 NSKB trong 
khoảng 6,60 - 11,17 mg/l và giảm dần vào thời gian sau đó. Hàm lượng NH4+ 
của nghiệm thức NPK viên nén ghi nhận khá thấp (1,51 - 6,43 mg/l) và ổn định 
trong suốt mùa vụ. 
b) Thí nghiệm tại xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long 
Kết quả nghiên cứu trình bày ở Hình 4.7 cho thấy hàm lượng NH4+ hòa tan 
trong nước ruộng của các nghiệm thức bón urê thường và urê-nBTPT cao hơn 
đối với nghiệm thức NPK viên nén. Đối với nghiệm thức urê và urê-nBTPT có 
hàm lượng NH4+ hòa tan trong vòng 1 - 2 NSKB trong khoảng 6,19 - 19,02 mg/l 
và 3,57 - 16,21 mg/l; lượng NH4+ sau đó giảm dần theo thời gian. Ở các giai 
đoạn thu mẫu, hàm lượng NH4+ của nghiệm thức NPK viên nén ghi nhận khá 
thấp và ổn định trong suốt mùa vụ (0,35 - 1,83 mg/l). 
Hình 4.7: Hàm lượng NH4+ trong nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Mỹ 
Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long vụ đông xuân 2013/2014 
Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 
NSKB: Ngày sau khi bón phân. 
Tóm lại, kết quả hàm lượng NH4+ hòa tan trong nước ruộng cho thấy urê 
và urê-nBTPT bón vãi trên bề mặt sẽ gây ra tập trung NH4+ cao trong nước trong 
vòng 1 - 3 NSKB và sau đó giảm thấp tại thời điểm 5 NSKB sau cùng đợt bón 
phân. Điều này có thể làm gia tăng sự phát thải N2O, bốc thoát NH3, rửa trôi, 
0
10
20
30
40
50
1 2 3 1 2 3 1 2 3
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
N
H
4
+
-N
 (
m
g
/l
)
Urê
Urê-nBTPT
NPK viên nén
NSKB 
 85 
chảy tràn. Ngược lại, NPK viên nén được vùi sâu trong đất nên sự tích lũy đạm 
ở dạng NH4+ hòa tan trong nước thường thấp hơn so với 2 loại phân còn lại và 
ổn định trong suốt mùa vụ. Sự mấ

File đính kèm:

  • pdfluan_an_hieu_qua_cua_cac_dang_phan_dam_tren_phat_thai_no_boc.pdf
  • docThongtinLuanan-EN.doc
  • docThongtinLuanan-VN.doc
  • pdfTomtatLuanan-EN.pdf
  • pdfTomtatLuanan-VN.pdf