Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Hiệu quả của các dạng phân đạm trên phát thải N₂O, bốc thoát NH₃ và năng suất trong canh tác lúa ở đồng bằng sông Cửu Long

.2.6 Phân tích hàm lượng đạm trong cây lúa Hàm lượng đạm tổng số trong rơm và trong hạt lúa được công phá bằng cách vô cơ hóa mẫu trong hỗn hợp acid sulfuric đậm đặc và H2O2. Xác định hàm lượng đạm tổng số trong mẫu phân tích bằng phương pháp chưng cất Kjeldahl. Mẫu cây lúa được phân tích tại Phòng Thí nghiệm Bộ môn Khoa học Đất - Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng - Trường Đại học Cần Thơ. 3.4.2.7 Phương pháp xử lý số liệu và phân tích thống kê Số liệu trong các nghiên cứu được xử lý tính toán bằng phần mềm Microsoft Excel. Phân tích phương sai dùng kiểm định Tukey so sánh khác biệt trung bình giữa các nghiệm thức trên phần mềm Minitab v16 theo hướng dẫn của Minitab (2010) và Lawal (2014). Số liệu năng suất lúa, lượng đạm trong rơm và trong hạt các thí nghiệm qua ba vụ canh tác được xử lý thống kê bằng cách combine (hợp nhất) dữ liệu của nhiều vụ theo các tài liệu của Gomez & Gomez (1984); Lal (2015) và Moore & Dixon (2015). 75 CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1 NGHIÊN CỨU 1: KHẢO SÁT SỰ HÒA TAN VÀ THỦY PHÂN CỦA CÁC DẠNG PHÂN ĐẠM 4.1.1 Sự hòa tan của các dạng phân đạm trong nước Mức độ hòa tan của các dạng phân đạm trong nước được xác định bằng tỷ lệ urê hòa tan trong nước. Trong đó, tỷ lệ urê hòa tan trong nước được tính bằng phần trăm hàm lượng urê hòa tan ở thời điểm khảo sát so với hàm lượng urê có trong phân bón. Kết quả urê hòa tan (%) của các dạng phân đạm theo thời gian được trình bày ở Hình 4.1. Tỷ lệ urê hòa tan của phân urê và urê-nBTPT cho thấy sự hòa tan trong nước hai loại phân này diễn ra rất nhanh, chỉ sau 1 giờ đã hòa tan hoàn toàn (100% lượng urê có trong phân bón). Phân NPK viên nén có sự hòa tan urê chậm hơn so phân urê thường và urê-nBTPT do trong bản thân viên nén được kết hợp với một số nguyên tố dinh dưỡng khác và nén lại thành viên. Tuy nhiên, tỷ lệ hòa tan của urê trong phân NPK viên nén chỉ trong vòng 1 ngày là đã hoàn toàn tan hết lượng urê-N chứa trong phân bón. Kết quả sự hòa tan trong nước của ba loại phân phân urê, urê-nBTPT và NPK viên nén cho thấy các loại phân đều rất dễ tan nên cần rất chú ý trong quá trình bảo quản và vận chuyển. Lượng urê hòa tan nhanh này sẽ thủy phân thành dạng NH4+ để cây trồng có thể sử dụng, hấp phụ trong đất hoặc bị mất đạm trực tiếp sau khi bón. Hình 4.1: Tỷ lệ urê hòa tan trong nước giữa các dạng phân đạm theo thời gian Ghi chú: IBDU: Isobutylidene diurea. nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 0 20 40 60 80 100 Ban đầu 1 giờ 2 giờ 1 ngày 15 ngày 1 tháng 2 tháng 3 tháng Urê Urê-nBTPT NPK viên nén NPK IBDU (N H 2 ) 2 C O -N ( % ) Thời gian sau khi ủ 76 Kết quả phân tích cho thấy phân NPK IBDU hòa tan rất chậm trong nước. Mặc dù sau khi được ngâm 3 tháng trong nước nhưng phân chỉ hòa tan 26,2% lượng urê-N. Sự phóng thích rất chậm lượng đạm vào trong nước do phân NPK IBDU được sản xuất bằng cách trùng ngưng urê và isobutyraldehyde hình thành cấu trúc hóa học dạng chuỗi polymer và sự hòa tan gắn liền với sự phân giải cấu trúc của IBDU (xem Hình 2.4). Ngoài ra, theo Sartain & Kruse (2001) và Trenkel (2010) trong thành phần IBDU dạng đạm khó tan chiếm đến 90% có thể đã làm cho tỷ lệ urê hòa tan trong nước ở mức thấp. Theo Trenkel (2010) và Varadachari & Goertz (2010) sự hòa tan phân IBDU phụ thuộc vào pH, nhiệt độ và ẩm độ đất. Trong điều kiện phòng thí nghiệm, phân được nghiên cứu chủ yếu trong môi trường nước cất, pH mẫu ủ gần trung tính do đó đã làm giảm tính hòa tan của IBDU. Trong điều kiện đồng ruộng pH thấp (pH = 4,5) có hiệu quả làm tăng tính hòa tan của phân IBDU biểu hiện qua việc cung cấp đạm tốt cho cây lúa, năng suất, hiệu quả nông học và hiệu quả thu hồi đạm đạt tương đương phân urê. 4.1.2 Sự thủy phân của các dạng phân đạm trong đất Mức độ thủy phân của các dạng phân đạm trong đất được xác định bằng tỷ lệ lượng urê-N thủy phân thành lượng NH4+-N trong đất. Cụ thể, tỷ lệ urê-N thủy phân trong đất ở các thời điểm khảo sát được tính bằng tỷ lệ phần trăm hàm lượng NH4+-N thủy phân so với hàm lượng urê-N ban đầu có trong phân bón. Hình 4.2 trình bày kết quả thủy phân (%) của các dạng phân đạm theo thời gian. Khi bón urê vào trong đất phân tử urê sẽ bị phá hủy thông qua quá trình thủy phân. Khi ủ phân urê trong dung dịch đất, tỷ lệ đạm NH4+ thủy phân sau 1 ngày là 49,3%, sau 2 ngày là 77,2% và sau 2 ngày là 83,2% (Hình 4.2). Sự thủy phân của phân urê tiếp tục ở các ngày tiếp sau và đến ngày thứ 8 sau khi ủ thì sự thủy phân urê hầu như hoàn toàn (95,5%). Vật liệu urê hạt dễ tan trong nước và đồng thời không có chất ức chế quá trình thủy phân nên tốc độ thủy phân rất nhanh dễ gây mất đạm. Kết quả thí nghiệm trình bày ở Hình 4.2 cho thấy tỷ lệ NH4+-N thủy phân của phân urê-nBTPT sau khi ủ 1 ngày là 39,6%, sau 2 ngày là 76,1%, sau 3 ngày là 81,5%. Trong quá trình thủy phân, tỷ lệ NH4+-N thủy phân từ phân urê- nBTPT ở thời điểm 1 ngày sau khi ủ thấp hơn so với urê thường (Hình 4.2). Kết quả NH4+ thủy phân từ phân urê-nBTPT cho thấy việc phối trộn chất nBTPT trong phân urê-nBTPT có tác dụng kém trong việc hạn chế sự thủy phân urê thành NH4+-N trong dung dịch đất. Ở các thời điểm tiếp sau (từ 2 đến 8 ngày sau khi ủ) tỷ lệ đạm NH4+ thủy phân từ urê-nBTPT tương tự so với urê. 77 Nghiên cứu của Phongpan & Byrnes (1990) khi bón phân urê có hàm lượng ammoniacal-N cao hơn so với bón phân urê-nBTPT cùng liều lượng trong vòng 5 ngày đầu sau khi bón. Kết quả của thí nghiệm khi bón urê-nBTPT cho thấy hiệu quả của chất ức chế nBTPT trong việc trong giảm thủy phân urê trong vòng 3 ngày sau ủ. Do đó có thể nghiên cứu liều lượng phối trộn chất nBTPT trong phân urê để tăng hiệu quả trong việc giảm thủy phân urê dùng trong thí nghiệm. Hình 4.2: Tỷ lệ NH4+-N thủy phân từ phân bón giữa các dạng phân đạm theo thời gian (%) Ghi chú: IBDU: Isobutylidene diurea. nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. Tỷ lệ NH4+-N thủy phân của phân NPK viên nén tương tự như phân urê do phân NPK viên nén dùng nguyên liệu là phân urê để nén. Ở thời điểm 1 ngày sau khi ủ, tỷ lệ NH4+-N thủy phân của nghiệm thức NPK viên nén đến 48,7% hàm lượng urê-N ban đầu chứa trong phân. Sau 2 ngày ủ, tỷ lệ NH4+ thủy phân của phân NPK viên nén ở mức 76,0%. Sau 3 ngày ủ, tỷ lệ NH4+ thủy phân của phân viên nén lên đến 81,0%. Ở các ngày tiếp sau (4 - 8 ngày sau khi ủ) sự thủy phân của phân NPK viên nén tiếp tục xảy ra và sự thủy phân NH4+ hầu như hoàn toàn (96,7%) tính đến ngày thứ 8 sau khi ủ. Tỷ lệ thủy phân NH4+-N của phân NPK viên nén ở các thời điểm khảo sát (1 - 8 ngày sau khi ủ) chưa khác biệt so với phân urê có thể do phân NPK viên được nén từ phân urê. Kết quả thủy phân nhanh của phân NPK viên nén chưa thấy hiệu quả trong việc hạn chế sự thủy phân trong điều kiện thí nghiệm trong phòng khi viên phân không được vùi sâu. Phân NPK IBDU trong dung dịch đất đã bắt đầu thủy phân ở thời điểm 1 ngày sau khi ủ. Tuy nhiên, tỷ lệ NH4+-N thủy phân trong dung dịch đất rất thấp 0 20 40 60 80 100 Ban đầu 1 ngày 2 ngày 3 ngày 4 ngày 6 ngày 8 ngày 12 ngày 1 tháng 2 tháng Urê Urê-nBTPT NPK viên nén NPK IBDUN H 4 + -N ( % ) Thời gian sau khi ủ 78 do cấu trúc chậm tan của IBDU nên lượng dinh dưỡng được giải phóng từ từ. Kết quả phân tích cho thấy phân NPK IBDU sau 1 ngày chỉ thủy phân 0,75%, sau 2 ngày 4,6%, sau 3 ngày 5,1%, sau 4 ngày 7,2%, sau 6 ngày 8,8%, sau 8 ngày 10,1%, sau 12 ngày 11,3%, sau 1 tháng 14,1% và sau 2 tháng 17,3% lượng NH4+-N so với lượng N ban đầu có trong phân do lượng hòa tan của phân IBDU thấp trong điều kiện thí nghiệm. Hiệu quả thủy phân có thể tăng khi độ hòa tan của phân IBDU tăng trong điều kiện đồng ruộng trong đất có pH thấp (pH = 4,5). Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy phân NPK IBDU có sự hòa tan chậm nhưng hàm lượng N hữu dụng vẫn đáp ứng theo nhu cầu sinh trưởng và phát triển của lúa (Shaviv & Mikkelsen, 1993; Carreres et al., 2003). Tóm lại, kết quả từ nghiên cứu 1 cho thấy các loại phân đạm urê thường, urê-nBTPT, NPK viên nén tan rất nhanh trong nước trừ phân NPK IBDU tan rất chậm. Sau 1 giờ urê thường và urê-nBTPT đã tan hoàn toàn 100% với hàm lượng urê, riêng phân NPK viên nén hòa tan hoàn toàn sau 1 ngày. Hiệu quả của chất ức chế men thủy phân urease có trong phân urê-nBTPT thể hiện rõ qua lượng NH4+-N thủy phân trong vòng 3 ngày sau khi ủ so với phân urê. Phân urê- nBTPT cần được nghiên cứu cách phối trộn với hợp chất nBTPT phù hợp hoặc các chất ức chế sự thủy phân urê khác để tăng hiệu quả trong việc làm giảm sự thủy phân urê. Phân NPK viên nén có hàm lượng đạm bị thủy phân chưa thấy sự khác biệt so với urê thường còn phân NPK IBDU thủy phân rất chậm trong điều kiện thí nghiệm. 79 4.2 NGHIÊN CỨU 2: KHẢO SÁT SỰ PHÂN BỐ ĐẠM TRONG ĐẤT VÀ LƯỢNG ĐẠM TRONG NƯỚC THEO THỜI GIAN Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng phân đạm đến sự phân bố đạm trong đất và lượng đạm trong nước theo thời gian được thực hiện ở điều kiện đồng ruộng trên lô trống không trồng lúa. Các lô trống được bố trí vào các lô của 2 thí nghiệm đồng ruộng tại 2 xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh (vụ đông xuân 2012/2013 và vụ hè thu 2013) và tại xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long (vụ đông xuân 2013/2014) trong nghiên cứu 4. 4.2.1 Ảnh hưởng của các dạng phân đạm đến pH và hàm lượng đạm trong nước ruộng 4.2.1.1 Ảnh hưởng của các dạng phân đạm đến pH nước ruộng a) Thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh Dưới sự xúc tác của men urease, khi được bón vào đất ngập nước urê [(NH2)2CO] sẽ chuyển thành (NH4)2CO3 rồi tiếp tục chuyển sang NH4OH. Khi mới bị thủy phân, urê có phản ứng kiềm nhưng không cao và chỉ thể hiện trong thời gian ngắn. Hình 4.3 ghi nhận pH nước ruộng ở thời điểm các ngày sau khi bón phân (NSKB) của các đợt bón phân. - Vụ đông xuân 2012/2013: Diễn biến pH nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh vụ đông xuân 2012/2013 được trình bày trong Hình 4.3a. Tại thời điểm 1 NSKB, pH của nghiệm thức urê (7,27 - 7,43) và nghiệm thức urê-nBTPT (7,05 - 7,19) có khuynh hướng đạt cao hơn so với nghiệm thức NPK viên nén (6,74 - 7,27). Khuynh hướng pH cao của nghiệm thức bón urê và urê-nBTPT có thể do sự hòa tan nhanh, sự thủy phân cao của hai dạng phân này. Kết quả từ thí nghiệm hòa tan và thủy phân của các dạng phân đạm cho thấy vào thời điểm 1 giờ sau ủ urê và urê-nBTPT đã tan hết (Hình 4.1) và lượng NH4+ thủy phân đến 49,3% và 39,6% lượng N theo thứ tự (Hình 4.2). Bón vùi phân NPK viên nén không làm tăng pH nước ruộng có thể do NH4+ được hấp phụ trong đất. Ở các ngày tiếp sau (2 - 5 NSKB) không có sự khác biệt rõ rệt về pH trong nước ruộng giữa các kỹ thuật bón. Nhìn chung, giá trị pH trong nước ruộng được ghi nhận gần bằng 7 tại thời điểm 1 NSKB và thấp hơn 7 trong các thời điểm còn lại của thí nghiệm. Thông thường trên đất phù sa ngọt, giá trị pH nước ruộng ở mức 7,0 sau khi bón urê pH sẽ tăng nhanh và đạt pH cao nhất (pH = 9) vào thời điểm 2 - 3 NSKB, sau đó pH giảm dần và ở giá trị thông thường (Ngô Ngọc Hưng, 2004). Theo kết 80 quả nghiên cứu của Ngô Ngọc Hưng (2009a) trên loại đất có OH2pH = 4,3 (Thapto-histic suhic Tropaquepts) có pH nước ruộng chỉ khoảng 6,0 ở điều kiện thông thường, sau khi bón phân urê pH sẽ tăng cao (7,0 - 8,0) vào thời điểm 2 - 3 NSKB, sau đó pH giảm dần và ổn định ở giá trị 6,0. Trong điều kiện thí nghiệm, giá trị pH nước ruộng của thí nghiệm không tăng cao sau khi bón có thể do pH đất ở mức chua nhiều ( OH2pH = 5,1) và điều kiện canh tác của thí nghiệm tiến hành trên đất ngập nước không liên tục, phải bơm nước tưới cho ruộng lúa đã hạn chế sự phát triển của tảo và các điều kiện khử của đất ngập liên tục. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Ferguson et al. (1984) cho thấy khi giữ pH nước ruộng thấp sẽ hạn chế được mất đạm dạng NH3. Hình 4.3: pH nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh a) vụ đông xuân 2012/2013. b) vụ hè thu 2013. Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. NSKB: Ngày sau khi bón phân. 5 6 7 8 1 2 3 5 1 2 3 5 1 2 3 5 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 p H Urê Urê-nBTPT NPK viên nén 5 6 7 8 1 2 3 5 1 2 3 5 1 2 3 5 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 p H Urê Urê-nBTPT NPK viên nén Bón vùi NSKB NSKB (b) (a) 81 - Vụ hè thu 2013: Diễn biến pH nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh vụ hè thu 2013 được trình bày trong Hình 4.3b. Trong vụ hè thu 2013 diễn biến pH nước ruộng ở đợt bón phân thứ nhất và thứ hai của các nghiệm thức thí nghiệm tương tự như diễn biến của pH trong thí nghiệm vụ đông xuân 2012/2013 biến động từ 6,10 - 7,31. Riêng sau đợt bón phân thứ 3, pH nước ruộng (6,65 - 7,83) cao hơn ở đầu vụ (đợt 1) có thể do cuối vụ có mưa. b) Thí nghiệm tại xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long Kết quả diễn biến pH nước ruộng sau các đợt bón phân của thí nghiệm tại xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long vụ đông xuân 2013/2014 được trình bày ở Hình 4.4. pH nước ruộng ở các ngày sau các đợt bón phân không có sự khác biệt rõ giữa các nghiệm thức. Giá trị pH trung bình ở đợt 1 là 7,2 và pH trung bình ở đợt 2 là 7,0 có thể do quản lý nước ngập không liên tục theo cách tưới của nông dân. Vào giai đoạn sau khi bón phân đợt 3, giá trị pH nước ruộng đo được trong khoảng 7,2 - 7,8. Hình 4.4: pH nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Mỹ Lộc huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long vụ đông xuân 2013/2014 Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. NSKB: Ngày sau khi bón phân. Tóm lại, qua kết quả pH ở 2 điểm thí nghiệm qua 3 vụ lúa cho thấy pH nước ruộng không tăng cao sau khi bón có thể do tính chất đất và điều kiện canh tác. Khi bón phân urê [(NH2)2CO] phản ứng thủy phân urê sinh ra NH4+ và CO2 trong dung dịch. Sự phóng thích CO2 và tiêu thụ H+ sau phản ứng thủy phân 5 6 7 8 1 2 3 1 2 3 1 2 3 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 p H Urê Urê-nBTPT NPK viên nén NSKB Bón vùi 82 làm tăng pH đất. Tuy nhiên, khả năng đệm của đất có thể chậm lại sự gia tăng pH đất sau các đợt bón phân. Bên cạnh đó, ruộng thí nghiệm phải bơm tưới nước, đất không ở trong trạng thái ngập nước liên tục có thể đã hạn chế sự phát triển của tảo và các điều kiện khử khi ngập liên tục để góp phần tăng pH. pH nước không tăng cao sau các đợt bón phân do pH trong nước bị ảnh hưởng quan trọng bởi sự phát triển của rong tảo và pH đất. Trong điều kiện thí nghiệm, pH đất ở mức thấp (Bảng 3.5 và Bảng 3.6) và sự phát triển của rong tảo kém do nông dân không để nước ngập liên tục, do đó pH nước không tăng cao. Hơn nữa, khi giữ pH nước ruộng thấp sẽ hạn chế được mất đạm dạng NH3. 4.2.1.2 Ảnh hưởng của các dạng phân đạm đến hàm lượng đạm NH4+ trong nước ruộng a) Thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh - Vụ đông xuân 2012/2013: Kết quả nghiên cứu trình bày ở Hình 4.5 cho thấy hàm lượng NH4+ đối với nghiệm thức urê, hàm lượng NH4+ hòa tan trong vòng 1 - 3 NSKB ở mức 13,44 - 21,32 mg/l và sau đó giảm dần theo thời gian, tại thời điểm 5 NSKB còn 2,83 - 7,5 mg/l. Nghiệm thức urê-nBTPT có hàm lượng NH4+ hòa tan trong lớp nước mặt tại thời điểm 1 - 3 NSKB trong khoảng 12,13 - 12,64 mg/l và giảm dần vào thời gian sau đó. Hàm lượng NH4+ của nghiệm thức NPK viên nén ghi nhận khá thấp và ổn định trong suốt mùa vụ (3,23 - 8,24 mg/l). Hình 4.5: Hàm lượng NH4+ trong nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Châu Điền vụ đông xuân 2012/2013 Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. 0 10 20 30 40 50 1 2 3 5 1 2 3 5 1 5 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 N H 4 + -N (m g /l ) Urê Urê-nBTPT NPK viên nén NSKB 83 Nhìn chung, hàm lượng đạm NH4+ cao trong nước ở nghiệm thức urê và urê-nBTPT; lượng NH4+ thấp ở nghiệm thức NPK viên nén. Điều này được giải thích là do sự hòa tan nhanh và thủy phân cao của phân urê bón khi bón vãi trên bề mặt ruộng. Ở thí nghiệm thủy phân NH4+-N trong đất cho thấy sự thủy phân nhanh của phân urê và urê-nBTPT, chỉ sau 3 ngày ủ lượng NH4+-N thủy phân của hai loại phân này lần lượt là 83,2% và 81,5% (xem Hình 4.2). Đối với phân NPK viên nén hàm lượng NH4+ hòa tan trong nước ruộng ở mức thấp do viên phân được vùi ở độ sâu 7 - 10 cm trong đất có thể đã tạo điều kiện thuận để đất hấp phụ lượng NH4+ thủy phân. Kết quả này phù hợp với kết quả của Phongpan & Byrnes (1990) khi sử dụng urê-nBTPT có lượng NH4+ tăng cao vào thời điểm 1 NSKB và tăng cao nhất vào thời điểm 3 NSKB. Phongpan & Byrnes (1990) cho biết thêm là phân urê-nBTPT vẫn xảy ra tình trạng mất đạm do chảy tràn nếu không kiểm soát lượng nước hay lượng mưa lớn. Hình 4.6: Hàm lượng NH4+ trong nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Châu Điền - huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh vụ hè thu 2013 Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. NSKB: Ngày sau khi bón phân. Kết quả thí nghiệm của Naznin et al. (2014) và Huda et al. (2016) cho thấy hàm lượng NH4+ trong nước ruộng của các nghiệm thức bón urê cao hơn nhiều so với bón viên siêu urê hay NPK viên nén; đặc biệt là vào thời điểm 2 NSKB, giảm sau đó và đến 6 NSKB thì hàm lượng NH4+-N của tất cả các nghiệm thức đều bằng nhau. Schnier et al. (1990) cho rằng phân đạm vùi sâu có NH3(aq) trong nước giảm đáng kể làm cho sự mất N thấp hơn so với phân bón vãi. 0 10 20 30 40 50 1 2 3 5 1 2 3 5 1 2 3 5 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 N H 4 + -N ( m g /l ) Urê Urê-nBTPT NPK viên nén NSKB 84 - Vụ hè thu 2013: Ở vụ hè thu 2013, hàm lượng đạm trong nước của các nghiệm thức cho kết quả tương tự như ở vụ đông xuân. Hàm lượng NH4+ hòa tan trong lớp nước mặt của các nghiệm thức urê và urê-nBTPT có khuynh hướng cao hơn đối với nghiệm thức NPK viên nén. Đối với nghiệm thức urê thường, hàm lượng NH4+ hòa tan trong vòng 1 - 3 NSKB ở mức 4,98 - 9,06 mg/l và sau đó giảm dần theo thời gian, thấp nhất tại thời điểm 5 NSKB (1,93 mg/l). Nghiệm thức urê-nBTPT có hàm lượng NH4+ hòa tan trong lớp nước mặt tại thời điểm 1 - 3 NSKB trong khoảng 6,60 - 11,17 mg/l và giảm dần vào thời gian sau đó. Hàm lượng NH4+ của nghiệm thức NPK viên nén ghi nhận khá thấp (1,51 - 6,43 mg/l) và ổn định trong suốt mùa vụ. b) Thí nghiệm tại xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long Kết quả nghiên cứu trình bày ở Hình 4.7 cho thấy hàm lượng NH4+ hòa tan trong nước ruộng của các nghiệm thức bón urê thường và urê-nBTPT cao hơn đối với nghiệm thức NPK viên nén. Đối với nghiệm thức urê và urê-nBTPT có hàm lượng NH4+ hòa tan trong vòng 1 - 2 NSKB trong khoảng 6,19 - 19,02 mg/l và 3,57 - 16,21 mg/l; lượng NH4+ sau đó giảm dần theo thời gian. Ở các giai đoạn thu mẫu, hàm lượng NH4+ của nghiệm thức NPK viên nén ghi nhận khá thấp và ổn định trong suốt mùa vụ (0,35 - 1,83 mg/l). Hình 4.7: Hàm lượng NH4+ trong nước ruộng sau các đợt bón phân thí nghiệm tại xã Mỹ Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long vụ đông xuân 2013/2014 Ghi chú: Thanh sai số biểu thị sai số chuẩn (±SE). nBTPT: N-(n-butyl) thiophosphoric triamide. NSKB: Ngày sau khi bón phân. Tóm lại, kết quả hàm lượng NH4+ hòa tan trong nước ruộng cho thấy urê và urê-nBTPT bón vãi trên bề mặt sẽ gây ra tập trung NH4+ cao trong nước trong vòng 1 - 3 NSKB và sau đó giảm thấp tại thời điểm 5 NSKB sau cùng đợt bón phân. Điều này có thể làm gia tăng sự phát thải N2O, bốc thoát NH3, rửa trôi, 0 10 20 30 40 50 1 2 3 1 2 3 1 2 3 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 N H 4 + -N ( m g /l ) Urê Urê-nBTPT NPK viên nén NSKB 85 chảy tràn. Ngược lại, NPK viên nén được vùi sâu trong đất nên sự tích lũy đạm ở dạng NH4+ hòa tan trong nước thường thấp hơn so với 2 loại phân còn lại và ổn định trong suốt mùa vụ. Sự mấ
File đính kèm:
luan_an_hieu_qua_cua_cac_dang_phan_dam_tren_phat_thai_no_boc.pdf
ThongtinLuanan-EN.doc
ThongtinLuanan-VN.doc
TomtatLuanan-EN.pdf
TomtatLuanan-VN.pdf