Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada

trình bày ở Bảng 3.1. và Hình 3.1. Bò đực Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Red Angus nhập khẩu từ Australia đều có khả năng sinh trưởng tốt, khối lượng tăng đều qua các mốc tuổi. Khối lượng lúc 48 tháng tuổi đạt trung bình 1.011,90 kg với bò Brahman và 906.33 kg với bò Red Angus. Giữa hai đàn bò đực giống thì bò đực giống Brahman luôn có khối lượng cao hơn bò đực giống Red Angus ở tất cả các mốc tuổi, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Khối lượng bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ qua các mốc tuổi cao hơn so với tiêu chuẩn theo Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN đối với bò đực Brahman giống gốc sản xuất tinh đông lạnh, lúc sơ sinh là 22 – 28 kg, lúc 12 tháng tuổi từ 210 – 230 kg và lúc 24 tháng tuổi từ 330 – 370 kg (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2014). Đồng thời cao hơn so với tiêu chuẩn nhập khẩu bò đực giống Brahman hậu bị theo Quyết định số 423/QĐ-CN-GSL, lúc 24 tháng tuổi ≥ 650 kg (Cục Chăn nuôi, 2015). Như vậy đàn bò đã được chọn lọc tốt trước khi nhập khẩu về Việt Nam. 58 Bảng 3.1. Khối lượng bò đực giống tại các mốc tuổi ĐVT: kg Mốc tuổi Brahman Red Angus n Mean SE n Mean SE Sơ sinh 10 36,10a 0,95 9 30,66b 0,28 Cai sữa (205 ngày) 10 256,70 a 4,59 9 233,44 b 2,76 12 tháng 10 412,80 a 5,76 9 366,66 b 6,94 18 tháng 10 567,60 a 7,87 9 477,66 b 11,25 24 tháng 10 670,00 a 8,66 9 576,00 b 9,92 36 tháng 10 850,30 a 9,32 9 749,77 b 8,85 48 tháng 10 1.011,90 a 17,82 9 906,33 b 8,06 Ghi chú: Trong cùng hàng, những giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Đinh Văn Cải và cs. (2005) cho biết: Bò Brahman có nguồn gốc Cuba được sinh ra, nuôi tại Việt Nam có khối lượng sơ sinh đạt 23,68 kg, 12 tháng tuổi chỉ đạt 207,69 kg, 18 tháng tuổi chỉ đạt 286,02 kg. Theo Hoàng Văn Trường và Nguyễn Tiến Vởn (2008), đàn bò Brahman ở Bình Định có khối lượng lúc sơ sinh 25,8 kg, lúc 12 tháng tuổi 199,1 kg. Bò Brahman có nguồn gốc Australia được sinh ra ở Thành phố Hồ Chí Minh lúc sơ sinh 22,59 kg, 6 tháng tuổi 144,3 kg, lúc 12 tháng tuổi 195,2 kg, lúc 18 tháng tuổi 289,0 và 24 tháng tuôi 324,3 kg (Đinh Văn Tuyền và cs., 2008). Lê Văn Thông và cs. (2013) cho biết, bò đực giống Brahman (có nguồn gốc Cuba và Australia) có khối lượng trung bình: sơ sinh 30,40 kg, 12 tháng tuổi 232,44 kg, 18 tháng tuổi 321,21 kg, 24 tháng tuổi 438,07 kg, 36 tháng tuổi 585,74 kg và trưởng thành 752,60 kg. Như vậy, khối lượng của bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ trong nghiên cứu của chúng tôi đều cao hơn bò Brahman nhập khẩu từ Australia, 59 Cuba và cao hơn bò Brahman được sinh ra tại Việt Nam (có nguồn gốc Australia, Cuba). Nguyên nhân có thể do sự khác nhau về nguồn gốc giống. Khối lượng bò đực giống Red Angus nhập khẩu năm 2015 từ Australia qua các mốc tuổi theo nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với tiêu chuẩn của Văn bản số 829/CN-GSL quy định với bò đực giống Red Angus, lúc 12 tháng tuổi ≥ 270 kg, 18 tháng tuổi ≥ 370 kg (Cục chăn nuôi, 2006). Đồng thời cao hơn so với nghiên cứu của Lê Văn Thông và cs. (2013), bò đực giống Red Angus nhập khẩu Australia từ năm 2007 nuôi tại Moncada có khối lượng trung bình tại các mốc tuổi: sơ sinh 30,25 kg, 12 tháng tuổi 311 kg, 18 tháng tuổi 435,75 kg, 24 tháng tuổi 545,75 kg, 36 tháng tuổi 677 kg và trưởng thành 855,25 kg. Nguyên nhân có thể do sự khác nhau về thời điểm nhập khẩu, khoảng cách hai lần nhập khẩu là 8 năm và sự chọn lọc giữa hai lần nhập khẩu là khác nhau. Theo Browning và cs. (1995), bò Brahman nuôi tại Hoa Kỳ có khối lượng bê đực lúc sơ sinh 32,4 kg; khối lượng cai sữa lúc 7 tháng tuổi là 210,2 kg. Jasmine Dillon và David Riley (2012), nghiên cứu khối lượng sơ sinh của bò Brahman, Angus tại bang Texas – Hoa Kỳ cho biết khối lượng sơ sinh trung bình của bò Brahman 33,11 kg và của bò Angus 31,3 kg. Keith và cs. (1993), nghiên cứu chọn lọc bê đực giống ở Hoa Kỳ trong giai đoạn từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi cho biết: Khối lượng bê đực giống Angus lúc sơ sinh là 33,29 kg; lúc 12 tháng tuổi đạt 362,8 kg. Theo Colliera và cs. (2015), nghiên cứu tại New Zealand, khối lượng bò đực giống Angus tại đây lúc 400 ngày tuổi (13 tháng tuổi) đạt 397 kg; lúc 600 ngày tuổi (20 tháng tuổi) đạt 473 kg. Khối lượng tại các mốc tuổi của hai đàn bò đực giống nghiên cứu theo kết quả của chúng tôi tương đương và có phần cao hơn ở một số mốc tuổi so với công bố của Browning và cs. (1995), Jasmine Dillon và David Riley (2012), Keith và cs. (1993). Điều này chứng tỏ bò đực giống 60 Brahman và Red Angus nhập nội đã được chọn lọc, chăm sóc nuôi dưỡng tốt và có khả năng thích nghi với khí hậu nước ta tại Moncada. Đồ thị biểu diễn sinh trưởng tích lũy của bò đực giống Brahman và Red Angus gần giống với đường cong sinh trưởng lý thuyết. Đường biểu diễn sinh trưởng tích lũy của bò đực Brahman luôn nằm trên và cách xa đường sinh trưởng của bò đực Red Angus, thể hiện khối lượng của bò Brahman lớn hơn bò Red Angus. Hình 3.1. Đồ thị biểu diễn sinh trưởng tích lũy của bò đực Brahman và Red Angus qua các mốc tuổi 3.1.2. Sinh trưởng tuyệt đối Sinh trưởng tuyệt đối là một chỉ tiêu quan trọng đối với chăn nuôi nói chung và chăn nuôi bò thịt nói riêng. Thông qua chỉ tiêu sinh trưởng tuyệt đối có thể đánh giá khả năng sinh trưởng, hiệu quả của phương thức nuôi dưỡng cũng như tiềm năng cho thịt của giống. Sinh trưởng tuyệt đối tuân theo quy luật sinh trưởng theo giai đoạn (Nguyễn Đức Hưng và cs., 2008). Kết quả tốc độ sinh trưởng của hai đàn bò đực giống nghiên cứu qua từng giai đoạn tuổi được trình bày tại bảng 3.2. và hình 3.2. 61 Bảng 3.2 Tốc độ sinh trưởng của bò đực giống ở các giai đoạn tuổi ĐVT: gam/con/ngày Giai đoạn tuổi Brahman Red Angus n Mean SE n Mean SE Sơ sinh - Cai sữa 10 1076,10a 21,93 9 989,16b 14,12 Cai sữa - 12 tháng 10 975,63a 10,05 9 832,64b 40,64 12 - 18 tháng 10 859,99 a 25,59 9 616,66 b 44,89 18 - 24 tháng 10 568,89 44,24 9 546,29 49,32 24 - 36 tháng 10 493,72 20,01 9 476,10 20,32 36 - 48 tháng 10 442,74 31,45 9 428,92 17,54 Ghi chú: Trong cùng hàng, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê P < 0,05. Sinh trưởng tuyệt đối hay tốc độ sinh trưởng (gam/con/ngày) của bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ và bò đực giống Red Angus nhập khẩu từ Australia đạt cao nhất ở các giai đoạn từ sơ sinh – cai sữa và cai sữa – 12 tháng tuổi, sau đó giảm dần ở các giai đoạn tiếp theo. Sự thay đổi của tốc độ sinh trưởng như trên hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh trưởng phát triển theo giai đoạn của gia súc. Giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa là giai đoạn gia súc non có quá trình sinh trưởng mạnh, nguồn thức ăn được cung cấp chủ yếu từ sữa mẹ có hàm lượng dinh dưỡng cao và tốt nhất. Ở giai đoạn cai sữa – 12 tháng tuổi là giai đoạn sau cai sữa, thường gia súc bị stress ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng nhưng kết quả sinh trưởng của cả hai đàn bò ở giai đoạn này đều rất tốt (bảng 3.2) chứng tỏ ở nước sở tại chúng được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, đồng thời cũng có thể do chúng được bú sữa dài ngày (205 ngày), cai sữa muộn đã tạo lực tốt cho giai đoạn sau cai sữa. Khi phân tích phương sai để so sánh tốc độ sinh trưởng giữa hai nhóm bò thì ở ba giai đoạn đầu (sơ sinh – cai sữa, cai sữa – 12 tháng và 12 62 – 18 tháng) tốc độ sinh trưởng của bò đực Brahman đều cao hơn bò đực Red Angus, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Ở ba giai đoạn tiếp theo (18 – 24 tháng, 24 – 36 tháng và 36 – 48 tháng) tốc độ sinh trưởng của bò Brahman cao hơn không đáng kể so với bò đực Red Angus, sự sai khác không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Ở ba giai đoạn sau, tốc độ sinh trưởng của hai đàn bò đều ổn định và ở mức thấp hơn là do đàn bò được cho ăn theo chế độ dinh dưỡng của bò đực giống sản xuất tinh duy trì thể trạng săn chắc, không quá béo để cho khả năng nhảy giá khai thác tinh tốt nhất. Kết quả tốc độ sinh trưởng của hai nhóm bò ở nghiên cứu này thấp hơn không đáng kể so với kết quả của Lunstra và Cundiff (2003), nghiên cứu khả năng sinh trưởng của các bò đực giống tại Hoa Kỳ cho kết quả tốc độ sinh trưởng của bò đực Brahman từ sơ sinh đến cai sữa 1,06 kg/ngày, từ cai sữa đến 12 tháng tuổi 1,08 kg/ngày. Tốc độ sinh trưởng của bò đực Angus từ sơ sinh đến cai sữa 1,06 kg/ngày, từ cai sữa đến 12 tháng tuổi 1,33 kg/ngày. Tuy nhiên, cao hơn so với các kết quả nghiên cứu của Holloway và cs. (2002) trên bò Brahman tại bang Texas – Hoa Kỳ trên diện rộng từ năm 1992 – 1995 cho biết: Tốc độ sinh trưởng trong giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa chỉ đạt 0,78 kg/ngày. Bò Angus New Zealand ở giai đoạn 13 – 20 tháng tuổi, tốc độ sinh trưởng 0,61 kg/ngày (Colliera và cs., 2015). Như vậy, tốc độ sinh trưởng của hai nhóm bò đực nghiên cứu đạt mức khá cao so với một số nghiên cứu trên thế giới. Tốc độ sinh trưởng của hai đàn bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Red Angus nhập khẩu từ Australia nuôi tại Moncada cao hơn nhiều so với bò Brahman được sinh ra ở Bình Định có tốc độ sinh trưởng ở giai đoạn sơ sinh – 6 tháng 624 g/ngày; 6 – 12 tháng 385 g/ngày; 12 – 18 tháng 434 g/ngày (Đinh Văn Cải và cs., 2005). Đồng thời cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Lê Văn Thông và cs. (2013), tốc độ sinh trưởng của 63 bò đực giống Brahman từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi là 538,83 g/ngày, từ 6 – 12 tháng là 572,38 g/ngày, từ 12 – 18 tháng 493,17 g/ngày, từ 18 – 24 tháng tuổi 649,22 g/ngày, từ 24 – 36 tháng 404,58 g/ngày; của bò đực giống Red Angus trong giai đoạn sơ sinh đến 6 tháng tuổi là 784,15 g/ngày, từ 6 – 12 tháng là 750 g/ngày, từ 12 – 18 tháng 693,06 g/ngày, từ 18 – 24 tháng tuổi 611,11 g/ngày, từ 24 – 36 tháng 359,59 g/ngày. Nguyên nhân có thể do nguồn gốc giống khác nhau, chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau và do thời điểm nhập khẩu khác nhau. Hình 3.2 Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối của bò đực Brahman và Red Angus qua các giai đoạn tuổi Tốc độ sinh trưởng của hai đàn bò đực giống nghiên cứu tuân theo quy luật sinh trưởng không đồng đều qua các giai đoạn tuổi. Ở giai đoạn bú sữa, bê có tốc độ sinh trưởng cao nhất do có được nguồn dinh dưỡng từ sữa mẹ, sau đó giảm dần ở các giai đoạn tiếp theo. Ở giai đoạn từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi (giai đoạn sinh trưởng), đỉnh cột biểu thị tốc độ sinh trưởng của bò đực Brahman cao hơn và cách xa của bò Red Angus, cho thấy bò đực Brahman có tốc độ sinh trưởng cao hơn trong giai đoạn này. Giai đoạn 64 từ 18 - 24 tháng tuổi trở đi, hai cột tốc độ sinh trưởng cùng hạ thấp, khoảng cách hai đỉnh cột thu hẹp, sát vào nhau, điều này có thể do từ 18 - 24 tháng trở đi cả hai đàn bò bước vào thời kỳ huấn luyện khai thác tinh dịch (thời kỳ sản xuất cho sản phẩm) nên tốc độ sinh trưởng thấp hơn và không có sự chênh lệch lớn giữa hai nhóm bò (hình 3.2). 3.1.3. Sinh trưởng tương đối Sinh trưởng tương đối là một chỉ tiêu phản ánh quá trình sinh trưởng của gia súc. Sinh trưởng tương đối tuân theo quy luật sinh trưởng không đồng đều và quy luật sinh trưởng phát dục theo giai đoạn (Trần Đình Miên và cs., 1992). Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng tương đối của hai đàn bò đực giống Brahman và Red Angus nhập nội nuôi tại Moncada qua các giai đoạn tuổi được trình bày tại bảng 3.3 và hình 3.3. Bảng 3.3. Sinh trưởng tương đối của bò đực giống ở các giai đoạn tuổi ĐVT: % Giai đoạn tuổi Brahman Red Angus n Mean SE n Mean SE Sơ sinh - Cai sữa 10 150,64 1,20 9 153,51 0,74 Cai sữa - 12 tháng 10 46,68 0,49 9 44,29 1,76 12 - 18 tháng 10 31,57 a 0,84 9 26,19 b 1,76 18 - 24 tháng 10 16,55 1,29 9 18,76 1,84 24 - 36 tháng 10 23,73 0,97 9 26,27 1,23 36 - 48 tháng 10 17,27 1,03 9 18,93 0,81 Ghi chú: Trung cùng hàng, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê P < 0,05. Sinh trưởng tương đối của hai đàn bò đực đạt cao nhất ở giai đoạn sơ sinh – cai sữa: 150,64% với bò Brahman và 153,51% với bò Red Angus. Đến giai đoạn từ cai sữa đến 12 tháng tuổi sinh trưởng tương đối giảm chỉ còn 46,68% với bò Brahman và 44,29 % với bò Red Angus. Ở giai đoạn 18 65 – 24 tháng tuổi sinh trưởng tương đối của cả hai nhóm bò thấp hơn giai đoạn từ 24 – 36 tháng tuổi; nguyên nhân là do khoảng cách của giai đoạn 18 – 24 tháng là 6 tháng, trong khi khoảng cách ở giai đoạn 24 – 36 tháng là 12 tháng. Khi phân tích phương sai để so sánh kết quả sinh trưởng tương đối trung bình ở các giai đoạn tuổi của hai nhóm bò đực giống chúng tôi thấy ở hầu hết các giai đoạn đều không có sự sai khác (P > 0,05), ngoại trừ giai đoạn từ 12 – 18 tháng tuổi. Sinh trưởng tương đối ở giai đoạn 12 – 18 tháng của bò Brahman cao hơn bò Red Angus, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Kết quả này cũng phù hợp với chỉ tiêu tốc độ sinh trưởng trong giai đoạn 12 – 18 tháng với bò Red Angus chỉ đạt 616,66 g/con/ngày thấp hơn nhiều so với bò Brahman 859,99 g/con/ngày (bảng 3.2). Nguyên nhân của sự sai khác này có thể do sự khác nhau về giống. Mặt khác, đàn bò Red Angus được nhập về nước ta có độ tuổi trung bình 15 tháng, nằm trong giai đoạn tuổi này và vào mùa hè nên bị ảnh hưởng bởi stress nhiệt; với đàn bò Brahman khi nhập về Việt Nam có độ tuổi trung bình 21 tháng nên không ảnh hưởng đến sinh trưởng ở giai đoạn này. Hình 3.3. Đồ thị sinh trưởng tương đối của bò đực Brahman và Red Angus qua các giai đoạn tuổi 66 Đồ thị sinh trưởng tương đối của bò đực giống Brahman và Red Angus là đường cong có dạng đường tiệm cận Hyperbol, giống với đường cong sinh trưởng lý thuyết. Điều đó chứng tỏ hai đàn bò đực giống nghiên cứu có quá trình sinh trưởng bình thường, tuân theo quy luật sinh trưởng phát triển của gia súc. Qua kết quả về sinh trưởng tích lũy, sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng tương đối của bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Red Angus nhập khẩu từ Australia nuôi tại Moncada cho thấy, cả hai đàn bò đều có khả năng sinh trưởng tốt, tuân theo quy luật sinh trưởng phát triển chung của gia súc. Khối lượng tại các mốc tuổi của hai đàn bò đều tương đương với một số kết quả nghiên cứu trên thế giới và cao hơn so với tiêu chuẩn giống gốc với bò Brahman theo Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2014), tiêu chuẩn bò đực giống Red Angus theo Văn bản số 829/CN-GSL (Cục Chăn nuôi, 2006). Hai đàn bò đực giống đều có khối lượng lớn, có tốc độ sinh trưởng cao hơn so với bò đực giống Brahman và Red Angus nhập khẩu từ Australia, Cuba (Lê Văn Thông và cs., 2013). Đây là những nguồn gen quý cho công tác cải tạo nâng cao tầm vóc và khả năng sản xuất thịt của đàn bò Việt Nam thông qua kỹ thuật Thụ tinh nhân tạo. 3.2. KHẢ NĂNG SẢN XUẤT TINH CỦA BÒ ĐỰC GIỐNG BRAHMAN VÀ RED ANGUS Khả năng sản xuất tinh của bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Red Angus nhập khẩu từ Australia được chúng tôi đánh giá thông qua các chỉ tiêu chính: Lượng xuất tinh, hoạt lực tinh trùng, nồng độ tinh trùng, tổng số tinh trùng hoạt động tiến thẳng, tỷ lệ tinh trùng kỳ hình, tỷ lệ tinh trùng sống, hoạt lực tinh trùng sau giải đông, số lượng tinh cọng rạ sản xuất đạt tiêu chuẩn/lần khai thác và số lượng tinh cọng rạ sản xuất đạt tiêu chuẩn/đực giống/năm. 67 3.2.1. Lượng xuất tinh Trong các chỉ tiêu chính đánh giá tinh dịch của bò đực giống thì lượng xuất tinh (V) là chỉ tiêu đầu tiên. Lượng xuất tinh liên quan chặt chẽ với các yếu tố như: Giống, cá thể, tuổi, chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc, kỹ thuật khai thác tinh... Trong sản xuất, căn cứ vào lượng xuất tinh kết hợp với hoạt lực tinh trùng, nồng độ tinh trùng của tinh dịch, người ta xác định được lượng môi trường và số liều tinh dự kiến sản xuất được trong một lần khai thác. Kết quả nghiên cứu lượng xuất tinh của bò đực giống Brahman và Red Angus tại Moncada được thể hiện qua bảng 3.4. Qua hai năm nghiên cứu – hai năm đầu sản xuất của đàn bò, lượng xuất tinh trung bình của tất cả các lần khai thác (V các lần khai thác) của bò Brahman là 6,16 ml, của bò Red Angus là 6,04 ml. V các lần khai thác của bò Brahman cao hơn của bò Red Angus, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Sự sai khác này chúng tôi cho rằng, nguyên nhân là do sự khác nhau về giống và di truyền. Bảng 3.4. Lượng xuất tinh trung bình/lần khai thác qua hai năm xản xuất ĐVT: ml Giống V các lần khai thác V các lần đạt tiêu chuẩn Tỷ lệ đạt tiêu chuẩn (%) n Mean ± SE n Mean ± SE Brahman 1215 6,16 a ± 0,043 1190 6,23 ± 0,042 97,94 Red Angus 1073 6,04 b ± 0,042 1044 6,13 ± 0,039 97,30 Ghi chú: Trong cùng cột, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Hiroshi (1992), lượng xuất tinh của bò dao động từ 2 đến 10 ml. Phù hợp với kết quả của Phùng Thế Hải (2013), nghiên cứu trên bò Brahman nhập khẩu từ Australia tại Moncada có lượng xuất tinh đạt 6,02 ml. 68 Lượng xuất tinh khai thác của bò Brahman và Red Angus theo nghiên cứu này đạt 6,16 ml và 6,04 ml thấp hơn nghiên cứu của tác giả Brito và cs. (2002b), nghiên cứu trên bò đực giống ở Brazil cho biết: Lượng xuất tinh của bò đực giống Bos taurus là 6,9 ml, của bò đực giống Bos indicus là 6,6 ml. Thấp hơn kết quả của Lê Văn Thông và cs. (2013), lượng xuất tinh bò Red Angus là 6,47 ml. Nguyên nhân có thể do các giống bò khác nhau cho lượng xuất tinh khác nhau, sự khác nhau về nguồn gốc giống và yếu tố di truyền (Asad và cs., 2004). Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với một số kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước như: Sarder (2003), lượng xuất tinh của bò đực giống ở Pakistan là 5-6 ml; Michael và cs. (1982), bò đực giống Brahman nuôi tại Hoa Kỳ có lượng xuất tinh 5,3 ml; Hà Văn Chiêu (1999), bò đực giống Brahman có lượng xuất tinh chỉ đạt 4,25 ml; Lê Văn Thông và cs. (2013), lượng xuất tinh của bò Brahman 5,67 ml. Nguyên nhân là do sự khác nhau về giống và di truyền. Tuy nhiên trong sản xuất, lượng xuất tinh của tất cả các lần khai thác không phải đều đạt tiêu chuẩn, mà chỉ những lần khai thác có lượng xuất tinh ≥ 3ml mới đạt tiêu chuẩn (TCVN 8925-2012) để tiếp tục đánh giá các chỉ tiêu tiếp theo của quy trình sản xuất. Lượng xuất tinh các lần khai thác đạt tiêu chuẩn của bò Brahman 6,23 ml cao hơn của bò đực Red Angus 6,13 ml, sự khai khác không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Kết quả nghiên cứu này cho thấy, tỷ lệ đạt tiêu chuẩn lượng xuất tinh của hai giống bò nghiên cứu đều khá cao 97,94% với bò Brahman và 97,30% với bò Red Angus (bảng 3.4). Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Phùng Thế Hải (2013), đàn bò Brahman nhập khẩu Australia từ năm 2009 có tỷ lệ đạt tiêu chuẩn lượng xuất tinh là 95,56%. Để đánh giá mức độ ổn định, sự thay đổi tăng lên hay giảm đi của chỉ tiêu lượng xuất tinh cũng như các chỉ tiêu số lượng, chất lượng tinh 69 giữa năm khai thác tinh thứ nhất (tương ứng 24 – 36 tháng tuổi) và năm khai thác tinh thứ hai (tương ứng 37 – 48 tháng tuổi) của hai nhóm bò đực Brahman và Red Angus nhập nội, chúng tôi tiến hành theo dõi và phân tích số liệu lượng xuất tinh của hai nhóm bò theo từng năm khai thác, kết quả được trình bày tại bảng 3.5. Lượng xuất tinh của bò Brahman năm thứ nhất 5,56 ml và năm thứ hai 6,69 ml; của bò Red Angus tương ứng là 5,51 ml và 6,49 ml. Như vậy, lượng xuất tinh khai thác của cả hai nhóm bò đều có sự khác biệt đáng kể, năm thứ hai cao hơn năm thứ nhất (P < 0,05). Số lần và tỷ lệ đạt tiêu chuẩn của chỉ tiêu lượng xuất tinh của năm khai thác tinh thứ hai đều cao hơn năm thứ nhất ở cả hai giống bò (bảng 3.5). Kết quả này là phù hợp với quy luật chung của gia súc, thường năm khai thác thứ nhất do bò đực còn non, vẫn còn đang tiếp tục sinh trưởng phát triển mạnh để hoàn thiện các cơ quan bộ phận đặc biệt là cơ quan sinh dục nên khả năng sản xuất sẽ chưa ổn định, lượng xuất tinh thường ít hơn năm khai thác t
File đính kèm:
luan_an_kha_nang_sinh_truong_san_xuat_tinh_va_anh_huong_cua.pdf
Dung-Luan An tomtat.pdf
Nhung donggopmoicualuanan.doc
TOM TAT LA DUNG (Eng).pdf