Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 1

Trang 1

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 2

Trang 2

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 3

Trang 3

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 4

Trang 4

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 5

Trang 5

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 6

Trang 6

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 7

Trang 7

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 8

Trang 8

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 9

Trang 9

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 154 trang nguyenduy 01/10/2025 120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada

Luận án Khả năng sinh trưởng, sản xuất tinh và ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất, chất lượng tinh của bò đực giống brahman, red angus nuôi tại moncada
trình bày ở Bảng 3.1. và Hình 3.1. 
Bò đực Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Red Angus nhập khẩu từ 
Australia đều có khả năng sinh trưởng tốt, khối lượng tăng đều qua các 
mốc tuổi. Khối lượng lúc 48 tháng tuổi đạt trung bình 1.011,90 kg với bò 
Brahman và 906.33 kg với bò Red Angus. Giữa hai đàn bò đực giống thì bò 
đực giống Brahman luôn có khối lượng cao hơn bò đực giống Red Angus ở 
tất cả các mốc tuổi, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). 
Khối lượng bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ qua các 
mốc tuổi cao hơn so với tiêu chuẩn theo Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN 
đối với bò đực Brahman giống gốc sản xuất tinh đông lạnh, lúc sơ sinh là 
22 – 28 kg, lúc 12 tháng tuổi từ 210 – 230 kg và lúc 24 tháng tuổi từ 330 – 
370 kg (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2014). Đồng thời cao hơn so với tiêu 
chuẩn nhập khẩu bò đực giống Brahman hậu bị theo Quyết định số 
423/QĐ-CN-GSL, lúc 24 tháng tuổi ≥ 650 kg (Cục Chăn nuôi, 2015). Như 
vậy đàn bò đã được chọn lọc tốt trước khi nhập khẩu về Việt Nam. 
 58 
Bảng 3.1. Khối lượng bò đực giống tại các mốc tuổi 
ĐVT: kg 
Mốc tuổi 
Brahman Red Angus 
n Mean SE n Mean SE 
Sơ sinh 10 36,10a 0,95 9 30,66b 0,28 
Cai sữa 
(205 ngày) 
10 256,70
a 
4,59 9 233,44
b 
2,76 
12 tháng 10 412,80
a 
5,76 9 366,66
b 
6,94 
18 tháng 10 567,60
a 
7,87 9 477,66
b 
11,25 
24 tháng 10 670,00
a 
8,66 9 576,00
b 
9,92 
36 tháng 10 850,30
a 
9,32 9 749,77
b 
8,85 
48 tháng 10 1.011,90
a 
17,82 9 906,33
b 
8,06 
Ghi chú: Trong cùng hàng, những giá trị trung bình có chữ cái khác nhau 
là sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). 
Đinh Văn Cải và cs. (2005) cho biết: Bò Brahman có nguồn gốc 
Cuba được sinh ra, nuôi tại Việt Nam có khối lượng sơ sinh đạt 23,68 kg, 
12 tháng tuổi chỉ đạt 207,69 kg, 18 tháng tuổi chỉ đạt 286,02 kg. Theo 
Hoàng Văn Trường và Nguyễn Tiến Vởn (2008), đàn bò Brahman ở Bình 
Định có khối lượng lúc sơ sinh 25,8 kg, lúc 12 tháng tuổi 199,1 kg. 
Bò Brahman có nguồn gốc Australia được sinh ra ở Thành phố Hồ 
Chí Minh lúc sơ sinh 22,59 kg, 6 tháng tuổi 144,3 kg, lúc 12 tháng tuổi 
195,2 kg, lúc 18 tháng tuổi 289,0 và 24 tháng tuôi 324,3 kg (Đinh Văn 
Tuyền và cs., 2008). Lê Văn Thông và cs. (2013) cho biết, bò đực giống 
Brahman (có nguồn gốc Cuba và Australia) có khối lượng trung bình: sơ 
sinh 30,40 kg, 12 tháng tuổi 232,44 kg, 18 tháng tuổi 321,21 kg, 24 tháng 
tuổi 438,07 kg, 36 tháng tuổi 585,74 kg và trưởng thành 752,60 kg. Như 
vậy, khối lượng của bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ trong 
nghiên cứu của chúng tôi đều cao hơn bò Brahman nhập khẩu từ Australia, 
 59 
Cuba và cao hơn bò Brahman được sinh ra tại Việt Nam (có nguồn gốc 
Australia, Cuba). Nguyên nhân có thể do sự khác nhau về nguồn gốc giống. 
Khối lượng bò đực giống Red Angus nhập khẩu năm 2015 từ 
Australia qua các mốc tuổi theo nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với 
tiêu chuẩn của Văn bản số 829/CN-GSL quy định với bò đực giống Red 
Angus, lúc 12 tháng tuổi ≥ 270 kg, 18 tháng tuổi ≥ 370 kg (Cục chăn nuôi, 
2006). Đồng thời cao hơn so với nghiên cứu của Lê Văn Thông và cs. 
(2013), bò đực giống Red Angus nhập khẩu Australia từ năm 2007 nuôi tại 
Moncada có khối lượng trung bình tại các mốc tuổi: sơ sinh 30,25 kg, 12 
tháng tuổi 311 kg, 18 tháng tuổi 435,75 kg, 24 tháng tuổi 545,75 kg, 36 
tháng tuổi 677 kg và trưởng thành 855,25 kg. Nguyên nhân có thể do sự 
khác nhau về thời điểm nhập khẩu, khoảng cách hai lần nhập khẩu là 8 năm 
và sự chọn lọc giữa hai lần nhập khẩu là khác nhau. 
Theo Browning và cs. (1995), bò Brahman nuôi tại Hoa Kỳ có khối 
lượng bê đực lúc sơ sinh 32,4 kg; khối lượng cai sữa lúc 7 tháng tuổi là 
210,2 kg. Jasmine Dillon và David Riley (2012), nghiên cứu khối lượng sơ 
sinh của bò Brahman, Angus tại bang Texas – Hoa Kỳ cho biết khối lượng 
sơ sinh trung bình của bò Brahman 33,11 kg và của bò Angus 31,3 kg. 
Keith và cs. (1993), nghiên cứu chọn lọc bê đực giống ở Hoa Kỳ 
trong giai đoạn từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi cho biết: Khối lượng bê đực 
giống Angus lúc sơ sinh là 33,29 kg; lúc 12 tháng tuổi đạt 362,8 kg. Theo 
Colliera và cs. (2015), nghiên cứu tại New Zealand, khối lượng bò đực 
giống Angus tại đây lúc 400 ngày tuổi (13 tháng tuổi) đạt 397 kg; lúc 600 
ngày tuổi (20 tháng tuổi) đạt 473 kg. 
Khối lượng tại các mốc tuổi của hai đàn bò đực giống nghiên cứu 
theo kết quả của chúng tôi tương đương và có phần cao hơn ở một số mốc 
tuổi so với công bố của Browning và cs. (1995), Jasmine Dillon và David 
Riley (2012), Keith và cs. (1993). Điều này chứng tỏ bò đực giống 
 60 
Brahman và Red Angus nhập nội đã được chọn lọc, chăm sóc nuôi dưỡng 
tốt và có khả năng thích nghi với khí hậu nước ta tại Moncada. 
Đồ thị biểu diễn sinh trưởng tích lũy của bò đực giống Brahman và 
Red Angus gần giống với đường cong sinh trưởng lý thuyết. Đường biểu 
diễn sinh trưởng tích lũy của bò đực Brahman luôn nằm trên và cách xa 
đường sinh trưởng của bò đực Red Angus, thể hiện khối lượng của bò 
Brahman lớn hơn bò Red Angus. 
Hình 3.1. Đồ thị biểu diễn sinh trưởng tích lũy của bò đực Brahman và 
Red Angus qua các mốc tuổi 
3.1.2. Sinh trưởng tuyệt đối 
Sinh trưởng tuyệt đối là một chỉ tiêu quan trọng đối với chăn nuôi 
nói chung và chăn nuôi bò thịt nói riêng. Thông qua chỉ tiêu sinh trưởng 
tuyệt đối có thể đánh giá khả năng sinh trưởng, hiệu quả của phương thức 
nuôi dưỡng cũng như tiềm năng cho thịt của giống. Sinh trưởng tuyệt đối 
tuân theo quy luật sinh trưởng theo giai đoạn (Nguyễn Đức Hưng và cs., 
2008). Kết quả tốc độ sinh trưởng của hai đàn bò đực giống nghiên cứu qua 
từng giai đoạn tuổi được trình bày tại bảng 3.2. và hình 3.2. 
 61 
Bảng 3.2 Tốc độ sinh trưởng của bò đực giống ở các giai đoạn tuổi 
ĐVT: gam/con/ngày 
Giai đoạn tuổi 
Brahman Red Angus 
n Mean SE n Mean SE 
Sơ sinh - Cai sữa 10 1076,10a 21,93 9 989,16b 14,12 
Cai sữa - 12 tháng 10 975,63a 10,05 9 832,64b 40,64 
 12 - 18 tháng 10 859,99
a 
25,59 9 616,66
b 
44,89 
 18 - 24 tháng 10 568,89 44,24 9 546,29 49,32 
 24 - 36 tháng 10 493,72 20,01 9 476,10 20,32 
 36 - 48 tháng 10 442,74 31,45 9 428,92 17,54 
 Ghi chú: Trong cùng hàng, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là 
sai khác có ý nghĩa thống kê P < 0,05. 
Sinh trưởng tuyệt đối hay tốc độ sinh trưởng (gam/con/ngày) của bò 
đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ và bò đực giống Red Angus 
nhập khẩu từ Australia đạt cao nhất ở các giai đoạn từ sơ sinh – cai sữa và 
cai sữa – 12 tháng tuổi, sau đó giảm dần ở các giai đoạn tiếp theo. Sự thay 
đổi của tốc độ sinh trưởng như trên hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh 
trưởng phát triển theo giai đoạn của gia súc. Giai đoạn từ sơ sinh đến cai 
sữa là giai đoạn gia súc non có quá trình sinh trưởng mạnh, nguồn thức ăn 
được cung cấp chủ yếu từ sữa mẹ có hàm lượng dinh dưỡng cao và tốt 
nhất. Ở giai đoạn cai sữa – 12 tháng tuổi là giai đoạn sau cai sữa, thường 
gia súc bị stress ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng nhưng kết quả sinh 
trưởng của cả hai đàn bò ở giai đoạn này đều rất tốt (bảng 3.2) chứng tỏ ở 
nước sở tại chúng được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, đồng thời cũng có thể do 
chúng được bú sữa dài ngày (205 ngày), cai sữa muộn đã tạo lực tốt cho 
giai đoạn sau cai sữa. 
Khi phân tích phương sai để so sánh tốc độ sinh trưởng giữa hai 
nhóm bò thì ở ba giai đoạn đầu (sơ sinh – cai sữa, cai sữa – 12 tháng và 12 
 62 
– 18 tháng) tốc độ sinh trưởng của bò đực Brahman đều cao hơn bò đực 
Red Angus, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Ở ba giai đoạn tiếp 
theo (18 – 24 tháng, 24 – 36 tháng và 36 – 48 tháng) tốc độ sinh trưởng của 
bò Brahman cao hơn không đáng kể so với bò đực Red Angus, sự sai khác 
không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Ở ba giai đoạn sau, tốc độ sinh 
trưởng của hai đàn bò đều ổn định và ở mức thấp hơn là do đàn bò được 
cho ăn theo chế độ dinh dưỡng của bò đực giống sản xuất tinh duy trì thể 
trạng săn chắc, không quá béo để cho khả năng nhảy giá khai thác tinh tốt 
nhất. 
Kết quả tốc độ sinh trưởng của hai nhóm bò ở nghiên cứu này thấp 
hơn không đáng kể so với kết quả của Lunstra và Cundiff (2003), nghiên 
cứu khả năng sinh trưởng của các bò đực giống tại Hoa Kỳ cho kết quả tốc 
độ sinh trưởng của bò đực Brahman từ sơ sinh đến cai sữa 1,06 kg/ngày, từ 
cai sữa đến 12 tháng tuổi 1,08 kg/ngày. Tốc độ sinh trưởng của bò đực 
Angus từ sơ sinh đến cai sữa 1,06 kg/ngày, từ cai sữa đến 12 tháng tuổi 
1,33 kg/ngày. Tuy nhiên, cao hơn so với các kết quả nghiên cứu của 
Holloway và cs. (2002) trên bò Brahman tại bang Texas – Hoa Kỳ trên diện 
rộng từ năm 1992 – 1995 cho biết: Tốc độ sinh trưởng trong giai đoạn từ sơ 
sinh đến cai sữa chỉ đạt 0,78 kg/ngày. Bò Angus New Zealand ở giai đoạn 
13 – 20 tháng tuổi, tốc độ sinh trưởng 0,61 kg/ngày (Colliera và cs., 2015). 
Như vậy, tốc độ sinh trưởng của hai nhóm bò đực nghiên cứu đạt mức khá 
cao so với một số nghiên cứu trên thế giới. 
Tốc độ sinh trưởng của hai đàn bò đực giống Brahman nhập khẩu từ 
Hoa Kỳ và Red Angus nhập khẩu từ Australia nuôi tại Moncada cao hơn 
nhiều so với bò Brahman được sinh ra ở Bình Định có tốc độ sinh trưởng ở 
giai đoạn sơ sinh – 6 tháng 624 g/ngày; 6 – 12 tháng 385 g/ngày; 12 – 18 
tháng 434 g/ngày (Đinh Văn Cải và cs., 2005). Đồng thời cao hơn so với 
kết quả nghiên cứu của Lê Văn Thông và cs. (2013), tốc độ sinh trưởng của 
 63 
bò đực giống Brahman từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi là 538,83 g/ngày, từ 6 – 
12 tháng là 572,38 g/ngày, từ 12 – 18 tháng 493,17 g/ngày, từ 18 – 24 
tháng tuổi 649,22 g/ngày, từ 24 – 36 tháng 404,58 g/ngày; của bò đực 
giống Red Angus trong giai đoạn sơ sinh đến 6 tháng tuổi là 784,15 g/ngày, 
từ 6 – 12 tháng là 750 g/ngày, từ 12 – 18 tháng 693,06 g/ngày, từ 18 – 24 
tháng tuổi 611,11 g/ngày, từ 24 – 36 tháng 359,59 g/ngày. Nguyên nhân có 
thể do nguồn gốc giống khác nhau, chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau và do 
thời điểm nhập khẩu khác nhau. 
Hình 3.2 Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối của bò đực Brahman và Red 
Angus qua các giai đoạn tuổi 
Tốc độ sinh trưởng của hai đàn bò đực giống nghiên cứu tuân theo 
quy luật sinh trưởng không đồng đều qua các giai đoạn tuổi. Ở giai đoạn bú 
sữa, bê có tốc độ sinh trưởng cao nhất do có được nguồn dinh dưỡng từ sữa 
mẹ, sau đó giảm dần ở các giai đoạn tiếp theo. Ở giai đoạn từ sơ sinh đến 
18 tháng tuổi (giai đoạn sinh trưởng), đỉnh cột biểu thị tốc độ sinh trưởng 
của bò đực Brahman cao hơn và cách xa của bò Red Angus, cho thấy bò 
đực Brahman có tốc độ sinh trưởng cao hơn trong giai đoạn này. Giai đoạn 
 64 
từ 18 - 24 tháng tuổi trở đi, hai cột tốc độ sinh trưởng cùng hạ thấp, khoảng 
cách hai đỉnh cột thu hẹp, sát vào nhau, điều này có thể do từ 18 - 24 tháng 
trở đi cả hai đàn bò bước vào thời kỳ huấn luyện khai thác tinh dịch (thời 
kỳ sản xuất cho sản phẩm) nên tốc độ sinh trưởng thấp hơn và không có sự 
chênh lệch lớn giữa hai nhóm bò (hình 3.2). 
3.1.3. Sinh trưởng tương đối 
Sinh trưởng tương đối là một chỉ tiêu phản ánh quá trình sinh trưởng 
của gia súc. Sinh trưởng tương đối tuân theo quy luật sinh trưởng không 
đồng đều và quy luật sinh trưởng phát dục theo giai đoạn (Trần Đình Miên 
và cs., 1992). Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng tương đối của hai đàn bò 
đực giống Brahman và Red Angus nhập nội nuôi tại Moncada qua các giai 
đoạn tuổi được trình bày tại bảng 3.3 và hình 3.3. 
Bảng 3.3. Sinh trưởng tương đối của bò đực giống ở các giai đoạn tuổi 
ĐVT: % 
Giai đoạn tuổi 
Brahman Red Angus 
n Mean SE n Mean SE 
Sơ sinh - Cai sữa 10 150,64 1,20 9 153,51 0,74 
Cai sữa - 12 tháng 10 46,68 0,49 9 44,29 1,76 
 12 - 18 tháng 10 31,57
a 
0,84 9 26,19
b 
1,76 
 18 - 24 tháng 10 16,55 1,29 9 18,76 1,84 
 24 - 36 tháng 10 23,73 0,97 9 26,27 1,23 
 36 - 48 tháng 10 17,27 1,03 9 18,93 0,81 
Ghi chú: Trung cùng hàng, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là 
sai khác có ý nghĩa thống kê P < 0,05. 
Sinh trưởng tương đối của hai đàn bò đực đạt cao nhất ở giai đoạn sơ 
sinh – cai sữa: 150,64% với bò Brahman và 153,51% với bò Red Angus. 
Đến giai đoạn từ cai sữa đến 12 tháng tuổi sinh trưởng tương đối giảm chỉ 
còn 46,68% với bò Brahman và 44,29 % với bò Red Angus. Ở giai đoạn 18 
 65 
– 24 tháng tuổi sinh trưởng tương đối của cả hai nhóm bò thấp hơn giai 
đoạn từ 24 – 36 tháng tuổi; nguyên nhân là do khoảng cách của giai đoạn 
18 – 24 tháng là 6 tháng, trong khi khoảng cách ở giai đoạn 24 – 36 tháng 
là 12 tháng. 
Khi phân tích phương sai để so sánh kết quả sinh trưởng tương đối 
trung bình ở các giai đoạn tuổi của hai nhóm bò đực giống chúng tôi thấy ở 
hầu hết các giai đoạn đều không có sự sai khác (P > 0,05), ngoại trừ giai 
đoạn từ 12 – 18 tháng tuổi. Sinh trưởng tương đối ở giai đoạn 12 – 18 
tháng của bò Brahman cao hơn bò Red Angus, sự sai khác có ý nghĩa thống 
kê (P<0,05). Kết quả này cũng phù hợp với chỉ tiêu tốc độ sinh trưởng 
trong giai đoạn 12 – 18 tháng với bò Red Angus chỉ đạt 616,66 g/con/ngày 
thấp hơn nhiều so với bò Brahman 859,99 g/con/ngày (bảng 3.2). Nguyên 
nhân của sự sai khác này có thể do sự khác nhau về giống. Mặt khác, đàn 
bò Red Angus được nhập về nước ta có độ tuổi trung bình 15 tháng, nằm 
trong giai đoạn tuổi này và vào mùa hè nên bị ảnh hưởng bởi stress nhiệt; 
với đàn bò Brahman khi nhập về Việt Nam có độ tuổi trung bình 21 tháng 
nên không ảnh hưởng đến sinh trưởng ở giai đoạn này. 
Hình 3.3. Đồ thị sinh trưởng tương đối của bò đực Brahman 
và Red Angus qua các giai đoạn tuổi 
 66 
Đồ thị sinh trưởng tương đối của bò đực giống Brahman và Red 
Angus là đường cong có dạng đường tiệm cận Hyperbol, giống với đường 
cong sinh trưởng lý thuyết. Điều đó chứng tỏ hai đàn bò đực giống nghiên 
cứu có quá trình sinh trưởng bình thường, tuân theo quy luật sinh trưởng 
phát triển của gia súc. 
Qua kết quả về sinh trưởng tích lũy, sinh trưởng tuyệt đối và sinh 
trưởng tương đối của bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Red 
Angus nhập khẩu từ Australia nuôi tại Moncada cho thấy, cả hai đàn bò 
đều có khả năng sinh trưởng tốt, tuân theo quy luật sinh trưởng phát triển 
chung của gia súc. Khối lượng tại các mốc tuổi của hai đàn bò đều tương 
đương với một số kết quả nghiên cứu trên thế giới và cao hơn so với tiêu 
chuẩn giống gốc với bò Brahman theo Quyết định số 675/QĐ-BNN-CN 
(Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2014), tiêu chuẩn bò đực giống Red Angus 
theo Văn bản số 829/CN-GSL (Cục Chăn nuôi, 2006). Hai đàn bò đực 
giống đều có khối lượng lớn, có tốc độ sinh trưởng cao hơn so với bò đực 
giống Brahman và Red Angus nhập khẩu từ Australia, Cuba (Lê Văn 
Thông và cs., 2013). Đây là những nguồn gen quý cho công tác cải tạo 
nâng cao tầm vóc và khả năng sản xuất thịt của đàn bò Việt Nam thông qua 
kỹ thuật Thụ tinh nhân tạo. 
3.2. KHẢ NĂNG SẢN XUẤT TINH CỦA BÒ ĐỰC GIỐNG BRAHMAN 
VÀ RED ANGUS 
Khả năng sản xuất tinh của bò đực giống Brahman nhập khẩu từ Hoa 
Kỳ và Red Angus nhập khẩu từ Australia được chúng tôi đánh giá thông 
qua các chỉ tiêu chính: Lượng xuất tinh, hoạt lực tinh trùng, nồng độ tinh 
trùng, tổng số tinh trùng hoạt động tiến thẳng, tỷ lệ tinh trùng kỳ hình, tỷ lệ 
tinh trùng sống, hoạt lực tinh trùng sau giải đông, số lượng tinh cọng rạ sản 
xuất đạt tiêu chuẩn/lần khai thác và số lượng tinh cọng rạ sản xuất đạt tiêu 
chuẩn/đực giống/năm. 
 67 
3.2.1. Lượng xuất tinh 
Trong các chỉ tiêu chính đánh giá tinh dịch của bò đực giống thì 
lượng xuất tinh (V) là chỉ tiêu đầu tiên. Lượng xuất tinh liên quan chặt chẽ 
với các yếu tố như: Giống, cá thể, tuổi, chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc, kỹ 
thuật khai thác tinh... Trong sản xuất, căn cứ vào lượng xuất tinh kết hợp 
với hoạt lực tinh trùng, nồng độ tinh trùng của tinh dịch, người ta xác định 
được lượng môi trường và số liều tinh dự kiến sản xuất được trong một lần 
khai thác. Kết quả nghiên cứu lượng xuất tinh của bò đực giống Brahman 
và Red Angus tại Moncada được thể hiện qua bảng 3.4. 
Qua hai năm nghiên cứu – hai năm đầu sản xuất của đàn bò, lượng 
xuất tinh trung bình của tất cả các lần khai thác (V các lần khai thác) của bò 
Brahman là 6,16 ml, của bò Red Angus là 6,04 ml. V các lần khai thác của 
bò Brahman cao hơn của bò Red Angus, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P 
< 0,05). Sự sai khác này chúng tôi cho rằng, nguyên nhân là do sự khác 
nhau về giống và di truyền. 
Bảng 3.4. Lượng xuất tinh trung bình/lần khai thác 
qua hai năm xản xuất 
ĐVT: ml 
Giống 
V các lần khai thác V các lần đạt tiêu chuẩn Tỷ lệ đạt tiêu 
chuẩn (%) n Mean ± SE n Mean ± SE 
Brahman 1215 6,16
a
 ± 0,043 1190 6,23 ± 0,042 97,94 
Red Angus 1073 6,04
b
 ± 0,042 1044 6,13 ± 0,039 97,30 
Ghi chú: Trong cùng cột, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là 
sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). 
 Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Hiroshi 
(1992), lượng xuất tinh của bò dao động từ 2 đến 10 ml. Phù hợp với kết 
quả của Phùng Thế Hải (2013), nghiên cứu trên bò Brahman nhập khẩu từ 
Australia tại Moncada có lượng xuất tinh đạt 6,02 ml. 
 68 
Lượng xuất tinh khai thác của bò Brahman và Red Angus theo 
nghiên cứu này đạt 6,16 ml và 6,04 ml thấp hơn nghiên cứu của tác giả 
Brito và cs. (2002b), nghiên cứu trên bò đực giống ở Brazil cho biết: 
Lượng xuất tinh của bò đực giống Bos taurus là 6,9 ml, của bò đực giống 
Bos indicus là 6,6 ml. Thấp hơn kết quả của Lê Văn Thông và cs. (2013), 
lượng xuất tinh bò Red Angus là 6,47 ml. Nguyên nhân có thể do các giống 
bò khác nhau cho lượng xuất tinh khác nhau, sự khác nhau về nguồn gốc 
giống và yếu tố di truyền (Asad và cs., 2004). 
Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với một số kết quả nghiên cứu 
trong và ngoài nước như: Sarder (2003), lượng xuất tinh của bò đực giống 
ở Pakistan là 5-6 ml; Michael và cs. (1982), bò đực giống Brahman nuôi tại 
Hoa Kỳ có lượng xuất tinh 5,3 ml; Hà Văn Chiêu (1999), bò đực giống 
Brahman có lượng xuất tinh chỉ đạt 4,25 ml; Lê Văn Thông và cs. (2013), 
lượng xuất tinh của bò Brahman 5,67 ml. Nguyên nhân là do sự khác nhau 
về giống và di truyền. 
 Tuy nhiên trong sản xuất, lượng xuất tinh của tất cả các lần khai thác 
không phải đều đạt tiêu chuẩn, mà chỉ những lần khai thác có lượng xuất 
tinh ≥ 3ml mới đạt tiêu chuẩn (TCVN 8925-2012) để tiếp tục đánh giá các 
chỉ tiêu tiếp theo của quy trình sản xuất. Lượng xuất tinh các lần khai thác 
đạt tiêu chuẩn của bò Brahman 6,23 ml cao hơn của bò đực Red Angus 
6,13 ml, sự khai khác không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). 
Kết quả nghiên cứu này cho thấy, tỷ lệ đạt tiêu chuẩn lượng xuất tinh 
của hai giống bò nghiên cứu đều khá cao 97,94% với bò Brahman và 
97,30% với bò Red Angus (bảng 3.4). Kết quả này cao hơn so với nghiên 
cứu của Phùng Thế Hải (2013), đàn bò Brahman nhập khẩu Australia từ 
năm 2009 có tỷ lệ đạt tiêu chuẩn lượng xuất tinh là 95,56%. 
 Để đánh giá mức độ ổn định, sự thay đổi tăng lên hay giảm đi của 
chỉ tiêu lượng xuất tinh cũng như các chỉ tiêu số lượng, chất lượng tinh 
 69 
giữa năm khai thác tinh thứ nhất (tương ứng 24 – 36 tháng tuổi) và năm 
khai thác tinh thứ hai (tương ứng 37 – 48 tháng tuổi) của hai nhóm bò đực 
Brahman và Red Angus nhập nội, chúng tôi tiến hành theo dõi và phân tích 
số liệu lượng xuất tinh của hai nhóm bò theo từng năm khai thác, kết quả 
được trình bày tại bảng 3.5. 
 Lượng xuất tinh của bò Brahman năm thứ nhất 5,56 ml và năm thứ 
hai 6,69 ml; của bò Red Angus tương ứng là 5,51 ml và 6,49 ml. Như vậy, 
lượng xuất tinh khai thác của cả hai nhóm bò đều có sự khác biệt đáng kể, 
năm thứ hai cao hơn năm thứ nhất (P < 0,05). Số lần và tỷ lệ đạt tiêu chuẩn 
của chỉ tiêu lượng xuất tinh của năm khai thác tinh thứ hai đều cao hơn 
năm thứ nhất ở cả hai giống bò (bảng 3.5). Kết quả này là phù hợp với quy 
luật chung của gia súc, thường năm khai thác thứ nhất do bò đực còn non, 
vẫn còn đang tiếp tục sinh trưởng phát triển mạnh để hoàn thiện các cơ 
quan bộ phận đặc biệt là cơ quan sinh dục nên khả năng sản xuất sẽ chưa 
ổn định, lượng xuất tinh thường ít hơn năm khai thác t

File đính kèm:

  • pdfluan_an_kha_nang_sinh_truong_san_xuat_tinh_va_anh_huong_cua.pdf
  • pdfDung-Luan An tomtat.pdf
  • docNhung donggopmoicualuanan.doc
  • pdfTOM TAT LA DUNG (Eng).pdf