Luận án Khảo sát vi khuẩn escherichia coli sinh beta-lactamase phổ rộng trên gà tại một số trại chăn nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Khảo sát vi khuẩn escherichia coli sinh beta-lactamase phổ rộng trên gà tại một số trại chăn nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Khảo sát vi khuẩn escherichia coli sinh beta-lactamase phổ rộng trên gà tại một số trại chăn nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long

coli sinh ESBL không chỉ lưu hành trên mẫu phân mà còn lưu hành trên mẫu phổi, gan và thịt gà. Ở gà, bệnh do vi khuẩn E. coli có thể là bệnh nguyên phát hoặc kế phát. Ở gà trưởng thành bệnh thường xảy ra lúc gà bắt đầu đẻ, bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp. Sau khi xâm nhập qua đường hô hấp của gà, vi khuẩn đi vào túi khí hoặc niêm mạc đường hô hấp bị tổn thương do các nguyên nhân như Mycoplasma, vi rút 75 Newcastle có thể làm tổn thương biểu mô của đường hô hấp trên như niêm mạc mũi, thanh quản, túi khí tạo điều kiện cho sự bám dính của E. coli. Ngoài ra, vi rút Gumboro phá hủy túi Fabricius của gà cũng tạo điều kiện cho vi khuẩn E. coli phát triển. Vi khuẩn đi vào máu gây nhiễm trùng huyết và đến các cơ quan nội tạng (Barnes et al., 2008; Ramirez et al., 2009). Ở Maiduguri của Nigeria, kết quả nghiên cứu của Mamza et al. (2010) trên gà cũng phát hiện E. coli sinh ESBL trên phổi 15,5% (19/196), gan 16,9% (15/196) cao hơn tỉ lệ phát hiện E. coli sinh ESBL trên phổi và gan (cùng tỉ lệ 6%) của gà có triệu chứng tiêu chảy trong luận án này. Ngoài ra, Nahla et al. (2012) đã phân lập vi khuẩn E. coli sinh ESBL từ gan gà bệnh mới chết tại Sulaimania, Iraq với tỉ lệ 86,7% (111/145). Một nghiên cứu khác của Lalzampuia et al. (2014) đã phân lập 134 chủng vi khuẩn đường ruột từ mẫu phân gà bị tiêu chảy ở nhiều nơi khác nhau tại Mizoram, ở Ấn Độ, trong đó vi khuẩn E. coli chiếm 76,12% (102/134), tỉ lệ phân lập vi khuẩn E. coli sinh ESBL là 4,48% (6/134) thấp hơn tỉ lệ phân lập E. coli sinh ESBL từ phân của gà có triệu chứng tiêu chảy trong nghiên cứu này (41,8%). Bảng 4.4: Tỉ lệ lưu hành E. coli sinh ESBL trên phổi, gan, thịt và phân của gà tiêu chảy Loại mẫu Số gà khảo sát (con) Số gà dương tính (con) Tỉ lệ (%) Phổi 400 24 6,0 Gan 400 24 6,0 Thịt 400 31 7,8 Phân 400 167 41,8 4.1.5 Sự lƣu hành của E. coli sinh ESBL trên trứng Kết quả kiểm tra mẫu trứng (Bảng 4.5) không phát hiện sự lưu hành vi khuẩn E. coli sinh ESBL ở mặt ngoài của vỏ trứng, lòng đỏ và lòng trắng trứng được thu thập từ gà đẻ nuôi ở quy mô trang trại. Trứng gà được thu thập từ gà đẻ nuôi ở quy mô hộ gia đình, mặt ngoài của vỏ trứng có sự lưu hành vi khuẩn E. coli sinh ESBL 6% (12/200), không phát hiện sự lưu hành E. coli sinh ESBL trong lòng đỏ và lòng trắng trứng. Sự lưu hành E. coli sinh ESBL ở mặt ngoài của vỏ trứng có sự tương đồng về sự lưu hành E. coli sinh ESBL ở gà đẻ nuôi ở quy mô hộ gia đình và trang trại. Bảng 4.2 của mục 4.1.2 cho thấy tỉ lệ lưu hành E. coli sinh ESBL trên gà đẻ nuôi ở quy mô hộ gia đình (58,15%) cao hơn trên gà đẻ nuôi ở quy mô trang trại (44,04%) có ý nghĩa 76 thống kê (P=0,00). Đối với nuôi gà đẻ lấy trứng làm con giống, nếu trứng nhiễm khuẩn bị vỡ trong quá trình ấp hoặc dụng cụ máy ấp bị nhiễm khuẩn sẽ là nguồn lây nhiễm cho gà con (Barnes et al, 2008). Đối với nuôi gà đẻ cung cấp trứng thương phẩm, nếu trứng bị vấy nhiễm E. coli sinh ESBL sẽ là nguồn lây truyền vi khuẩn đề kháng kháng sinh ra cộng đồng qua vận chuyển, mua bán và truyền vi khuẩn đề kháng cho con người thông qua chuỗi thức ăn (CDC, 2017). Abubakar et al. (2016) đã phân lập E. coli sinh ESBL trên 70 trứng gà ở Sokoto Metropolis của Nigeria. Kết quả cho thấy tỉ lệ trứng gà nhiễm vi khuẩn E. coli sinh ESBL là 5,7% (4/70) trong đó có 4,2% (3/70) vỏ trứng gà nhiễm E. coli sinh ESBL và 1,4% (1/70) hỗn hợp lòng đỏ và lòng trắng trứng gà nhiễm E. coli sinh ESBL. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự hiện của E. coli sinh ESBL trên trứng gà thu thập từ hộ gia đình và trang trại chăn nuôi gà ở Đồng bằng sông Cửu Long thấp hơn trên trứng gà trong nghiên cứu nêu trên ở Nigeria. Bảng 4.5: Tỉ lệ lưu hành E. coli sinh ESBL ở mặt ngoài vỏ trứng Quy mô chăn nuôi Số mẫu kiểm tra (vỏ trứng) Số mẫu dương tính (vỏ trứng) Tỉ lệ (%) Hộ gia đình 200 12 6,0 Trang trại 50 0 0,0 Tổng 250 12 4,8 4.1.6 Sự lƣu hành của E. coli sinh ESBL trong môi trƣờng chăn nuôi Kết quả phân lập vi khuẩn E. coli sinh ESBL trên môi trường chăn nuôi từ hộ gia đình và trang trại chăn nuôi gà (Bảng 4.6) phát hiện có sự lưu hành của vi khuẩn E. coli sinh ESBL trong nguồn nước sinh hoạt, nước máng uống, thức ăn ở máng ăn, không khí chuồng nuôi, trong đó tỉ lệ lưu hành E. coli sinh ESBL trong không khí chuồng nuôi ở quy mô chăn nuôi hộ gia đình 20% thấp hơn ở quy mô chăn nuôi trang trại 55% (P = 0,03). Đối với chăn nuôi gà ở quy mô trang trại, nguồn nước sinh hoạt cho người và cho chăn nuôi là nước giếng khoan và có qua bể lọc, tuy nhiên kết quả nghiên cứu có 1/20 mẫu nước sinh hoạt của trang trại có sự lưu hành của E. coli sinh ESBL do đó trang trại cần chú ý định kỳ vệ sinh bể lọc và kiểm tra chất lượng nước để đảm bảo nguồn nước an toàn cho con người và cho gà. Đối với chăn nuôi gà ở quy mô hộ gia đình, nguồn nước sinh hoạt gồm có nước giếng khoan, nước máy, nước sông và nước mưa (Bảng 26 ở Phụ lục B). 77 Kết quả nghiên cứu có 3/60 mẫu nước sinh hoạt ở hộ gia đình có sự lưu hành của E. coli sinh ESBL, 3 mẫu nước này được bơm từ nước sông chứa trong bồn, lóng phèn trước khi cho gà sử dụng. Sự phát hiện E. coli sinh ESBL trong nguồn nước sinh hoạt là điều cần phải quan tâm do đây là nguồn sử dụng cho gà cũng chính là nguồn nước sinh hoạt cho gia đình. Bảng 4.6: Tỉ lệ lưu hành E. coli sinh ESBL trong môi trường chăn nuôi Loại mẫu Quy mô chăn nuôi Số hộ/trại khảo sát Số hộ/trại dương tính Tỉ lệ (%) Nước sinh hoạt Hộ gia đình 60 3 5,0 Trang trại 20 1 5,0 Nước máng uống Hộ gia đình 60 27 45,0 Trang trại 20 6 30,0 Thức ăn máng ăn Hộ gia đình 60 15 25,0 Trang trại 20 6 30,0 Không khí Hộ gia đình 60 12 20,0b Trang trại 20 11 55,0a Các giá trị trong cùng một cột mang chữ mũ khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Qua khảo sát tại các trại và hộ chăn nuôi gà, máng ăn và máng uống ở hộ gia đình thường bị vấy nhiễm phân, chất lót chuồng do gà bay nhảy mặc dù người chăn nuôi vệ sinh máng ăn, máng uống 1-2 ngày/lần. Các trang trại sử dụng hệ thống nước uống có núm uống cho gà nên hạn chế được sự vấy nhiễm phân vào nước uống. Vì vậy, người chăn nuôi nên vệ sinh máng ăn, máng uống thường xuyên và giữ cho chuồng nuôi thông thoáng. Theo Barnes et al. (2008), vi khuẩn E. coli được tìm thấy nhiều trong chất lót chuồng và phân. Bụi trong chuồng nuôi gà có thể chứa 105-106 vi khuẩn E. coli/gram. Thức ăn và nước uống thường bị nhiễm E. coli gây bệnh và là nguồn quan trọng truyền các serotype gây bệnh mới vào trong đàn gà. Ngoài ra, chất thải đường ruột của các loài gặm nhấm là một yếu tố môi trường quan trọng trong việc truyền các serotype gây bệnh cũng như truyền các gen đề kháng vào trong đàn gà. Gần đây, kết quả nghiên cứu của Zurek and Ghosh (2014) cũng đã chứng minh ruồi nhà là yếu tố truyền ngang gen đề kháng kháng sinh qua đường tiêu hóa của ruồi cũng như truyền vi khuẩn đề kháng kháng sinh do đó việc quản lý ruồi và côn trùng là một trong những chiến lược an toàn thực phẩm để giới hạn tối đa sự lây truyền vi khuẩn gây bệnh và vi khuẩn đề kháng kháng sinh từ trang trại. Kết quả nghiên cứu gần đây của Chen et al. (2016) tại Đài Loan đã 78 xác định mối quan hệ giữa vi khuẩn E. coli sinh ESBL trong nước thải từ các trại chăn nuôi gà với nước sông, kết quả cho thấy những dòng sông ở gần vùng chăn nuôi với số lượng gà nhiều có tỉ lệ phát hiện vi khuẩn E. coli sinh ESBL trong nước sông cao hơn. Qua kết quả nghiên cứu này, các hộ gia đình sử dụng nguồn nước sông phục vụ cho chăn nuôi và sinh hoạt nên khử trùng nước trước khi sử dụng. 4.1.7 Sự lƣu hành của E. coli sinh ESBL trên ngƣời chăn nuôi gà Tỉ lệ lưu hành E. coli sinh ESBL trên người chăn nuôi gà ở trang trại là 70% cao hơn trên người chăn nuôi gà ở hộ gia đình là 60%, tuy nhiên sự khác biệt tỉ lệ này không có ý nghĩa thống kê (P=0,424). Bảng 4.7: Tỉ lệ lưu hành E. coli sinh ESBL trên người chăn nuôi gà Quy mô chăn nuôi Số mẫu khảo sát (người) Số mẫu dương tính (người) Tỉ lệ (%) Hộ gia đình 60 36 60,0 Trang trại 20 14 70,0 Tổng 80 50 62,5 Kết quả nghiên cứu của Huijbers et al. (2013) đã chứng minh những người sống ở nơi có mật độ nuôi gà thịt cao có tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL cao hơn những người sống ở nơi có mật độ nuôi gà thấp. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Boonyasiri et al. (2014) cho thấy người chăn nuôi gà khỏe mạnh có tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL là 75,5%. Ngoài ra, Blaak et al. (2014) nhận định E. coli sinh ESBL không chỉ hiện diện trên gà mà còn có thể truyền sang người thông qua môi trường xung quanh như trong nguồn nước và các động vật khác ở khu vực chăn nuôi, trong đó ruồi có thể là một nguy cơ làm lan truyền vi khuẩn E. coli sinh ESBL từ gà sang người, chúng có thể di chuyển từ trại này sang những trại khác và làm vấy nhiễm vi khuẩn vào thực phẩm của con người. Các kết quả nghiên cứu của Rochon et al. (2005) và Petridis et al. (2006) trước đây được trích dẫn bởi Barnes et al. (2008) đã chứng minh ruồi nhà là yếu tố môi trường truyền ngang các vi khuẩn E. coli gây bệnh cũng như các gen độc lực và đề kháng kháng sinh. Tại Đức, Dahms et al. (2015) đã phân lập được E. coli sinh ESBL trên mẫu phân gà và mẫu phân người chăn nuôi gà từ 6 trại chăn nuôi gà ở Mecklenburg-Western Pomerania, tỉ lệ gà và người chăn nuôi gà nhiễm E. coli sinh ESBL lần lượt là 10,9% và 11,7%. 79 Sự hiện diện của E. coli sinh ESBL trên người chăn nuôi cho thấy sự lưu hành của E. coli sinh ESBL không chỉ trên gia súc gia cầm mà còn lưu hành trên người đặc biệt là người tiếp xúc trực tiếp với động vật. Kết quả nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa ở lĩnh vực thú y mà cả ở lĩnh vực y tế để cùng phối hợp hoạt động giúp ngăn ngừa, giảm sự lây truyền vi khuẩn đề kháng kháng sinh nhằm bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng. Tổng hợp các kết quả phân lập vi khuẩn E. coli sinh ESBL trên gà và các yếu tố liên quan ở nông hộ và trại chăn nuôi gà công nghiệp đặt ra một số vấn đề cần quan tâm đúng mức: Thứ nhất vi khuẩn E. coli ESBL lưu hành với tỉ lệ cao ở cả hai quy mô chăn nuôi trang trại và chăn nuôi nhỏ ở hộ gia đình. Có nhiều nguyên nhân đẫn đến sự lưu hành của vi khuẩn đề kháng kháng sinh, trong đó không thể không kể đến việc sử dụng kháng sinh với liều thấp nhằm mục đích kích thích tăng trọng. Mặc dù điều này đã được chú ý giới hạn sử dụng trong thời gian gần đây nhưng việc sử dụng kháng sinh trong thức ăn cũng như trong việc phòng và trị bệnh cho gà rất cần được quản lý, kiểm soát và giám sát một cách nghiêm ngặt. Áp dụng thực hành chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học cũng là một biện pháp được khuyến cáo mạnh mẻ nhằm giảm thiểu mầm bệnh, trong đó có vi khuẩn kháng kháng sinh tiến tới kiểm soát tốt sức khỏe cho động vật và người chăn nuôi. Thứ hai là tỉ lệ lưu hành được tìm thấy ở người chăn nuôi ở cả hai khu vực chăn nuôi trang trại và chăn nuôi nhỏ ở hộ gia đình. Tỉ lệ này rất cao, 70% và 60% dương tính trên số mẫu xét nghiệm ở người. Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ dương tính ở gà nuôi trang trại và gà nuôi nhỏ lẻ ở nông hộ, lần lượt là 70,32% và 58,89%. Một kết quả khác cũng gớp phần quan trọng trong giám sát sự lưu hành của vi khuẩn là vi khuẩn lưu hành cao trong không khí của chuồng nuôi và nước ở máng uống. Các dữ liệu trên cho phép chúng ta có thêm cơ sở để có thể suy đoán vi khuẩn E. coli sinh ESBL vấy nhiễm sang người là có nguồn gốc từ gà, bài thải qua đường phân và phát tán vào không khí chuồng trại và khu vực lân cận, chứ không phải theo chiều ngược lại. Để giảm thiểu sự vấy nhiễm vi khuẩn sang người cần phải tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ: đối với quy mô chăn nuôi trang trại, qui trình thực hành tiêu độc khử trùng và xử lý chất thải một cách hiệu quả cần phải được áp dụng triệt để. Dụng cụ bảo hộ lao động cá nhân phải được trang bị đầy đủ, quan trọng hơn là phải có ý thức bảo hộ, phòng bệnh của người chăn nuôi phải được nâng cao. Đối với quy mô chăn nuôi nhỏ ở hộ gia đình, chuồng trại thường rất gần với khu vực sinh hoạt của gia đình, thực tế này dẫn đến yếu tố rủi ro rất cao cho việc lây truyền mầm bệnh từ vật nuôi sang người và cộng đồng. Rất cần có một nghiên cứu đánh giá tác động 80 tiêu cực của môi trường chăn nuôi nhỏ lẻ trên sự an toàn cho sức khỏe con người, với trọng tâm là sự đề kháng kháng sinh. 4.2 Sự lƣu hành của E. coli sinh ESBL tại cơ sở giết mổ 4.2.1 Kết quả phân lập E. coli sinh ESBL trên gà Vi khuẩn E. coli sinh ESBL hiện diện trên gà từ 12 cơ sở giết mổ ở tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng và Hậu Giang với tỉ lệ dao động 42,22- 53,33% (Bảng 4.8) và có sự hiện diện của vi khuẩn E. coli sinh ESBL trên các loại mẫu phổi, gan, thịt và phân (Bảng 4.9). Bảng 4.8: Tỉ lệ thân thịt gà dương tính với E. coli sinh ESBL Tỉnh Số lượng thân thịt gà khảo sát Số lượng thân thịt gà dương tính Tỉ lệ (%) Vĩnh Long 45 23 51,11 Trà Vinh 45 24 53,33 Sóc Trăng 45 21 46,67 Hậu Giang 45 19 42,22 Tổng 180 87 48,33 Bảng 4.9: Tỉ lệ các loại mẫu dương tính với E. coli sinh ESBL Loại mẫu Số gà khảo sát (con) Số gà dương tính (con) Tỉ lệ (%) Gan 180 09 5,0 Thịt 180 20 11,11 Phổi 180 21 11,67 Phân 180 87 48,33 81 Hình 4.5: Dây chuyền giết mổ treo ở gà 82 Hình 4.6: Gà được giết mổ và pha lóc thịt trực tiếp trên nền sàn 83 Sự hiện diện E. coli sinh ESBL trong các mẫu gan, thịt và phổi có thể do các mẫu này bị vấy nhiễm vi khuẩn E. coli sinh ESBL trong quá trình giết mổ từ chất thải hoặc từ nguồn nước vặt lông và sàn pha lóc. Đối với các cơ sở giết mổ thủ công, nguy cơ vấy nhiễm vi khuẩn từ sàn giết mổ lên thân thịt gà là khá cao. Trong 12 cơ sở khảo sát, chỉ có cơ sở giết mổ 1 ở huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long là giết mổ treo (Hình 4.5), các cơ sở giết mổ còn lại giết mổ gà trực tiếp trên nền sàn, điều kiện vệ sinh kém, có nhiều phụ phẩm trong quá trình giết mổ như máu, các chất chứa từ đường tiêu hóa, lông trên nền sàn (Hình 4.6). Các phụ phẩm này là môi trường thích hợp cho sự phát triển của vi sinh vật, tồn lưu và phát tán trong khu vực giết mổ. Công việc pha lóc thân thịt gà tại 11 cơ sở giết mổ thủ công được thực hiện trực tiếp trên nền. Bên cạnh đó, công nhân giết mổ không có trang bị đồ bảo hộ lao động, quần áo giết mổ gia cầm, khẩu trang, găng tay, nón, không được vệ sinh sát trùng trước và sau khi vào khu giết mổ cũng được xem là nguồn có nguy cơ gây vấy nhiễm và phát tán vi sinh vật lên thân thịt gà trong quá trình giết mổ. Ngoài ra, sự hiện diện E. coli sinh ESBL trong các tổ chức có thể do gà trước khi giết mổ đã mang trùng. Điều này có thể giải thích E. coli là vi khuẩn thường trú ở đường ruột, chúng được thải chủ yếu qua phân và có thể truyền qua đường tiêu hóa, vết thương ngoài da, niêm mạc bị tổn thương tạo điều kiện cho sự bám dính của E. coli. Vi khuẩn đi vào máu gây nhiễm trùng huyết và đi đến các cơ quan (Barnes et al., 2008; Ramirez et al., 2009). Điều đáng quan tâm vi khuẩn E. coli là một trong những vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm và có khả năng sinh ESBL gây ra đề kháng kháng sinh do đó thân thịt gà nhiễm E. coli sinh ESBL sẽ là nguồn chứa vi khuẩn gây bệnh và đề kháng kháng sinh ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng do thịt gà nằm trong chuỗi thức ăn của con người. Manges et al. (2007) cho rằng thực phẩm là một nguồn quan trọng truyền vi khuẩn E. coli sinh ESBL sang người và những người bị bệnh viêm đường tiết niệu do vi khuẩn đề kháng kháng sinh thường liên quan đến tiêu thụ thịt gà nhiều hơn những người ít và không sử dụng thịt gà. Một số kết quả nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy mẫu thịt gà tại cơ sở giết mổ và bán ở chợ có tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL khá cao. Kết quả nghiên cứu của Overdevest et al. (2011) tại Hà Lan vào năm 2009 cho thấy có 79,8% (68/89) mẫu thịt gà tại cửa hàng dương tính với E. coli sinh ESBL, tác giả cho rằng sự vấy nhiễm phân có thể xảy ra suốt quá trình giết mổ động vật và vi khuẩn sẽ phát triển trong quá trình vận chuyển và bảo quản do đó nếu thực hành vệ sinh không tốt, thực phẩm có thể hoạt động như một phương tiện cho sự vận chuyển của vi khuẩn đề kháng với beta-lactam đến đường tiêu hóa của 84 người tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, Nunan and Young (2012) xác định tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL trên thịt gà vào năm 2011 ở các nước Hà Lan, Đan Mạch, Pháp và Đức lần lượt là 77% (68/80), 3,3% (4/121), 43% (15/35) và 34% (50/149). Kết quả nghiên cứu của Gao et al. (2014) ở Trung Quốc cho thấy tỉ lệ nhiễm E.coli sinh ESBL trên 258 mẫu thịt gà là 11,24%. Ở Thái Lan, kết quả nghiên cứu của Boonyasiri et al. (2014) đã xác định sự lưu hành của E. coli sinh ESBL trên thịt gà tươi cao hơn trên rau củ tươi, ở thực phẩm tươi hơn thực phẩm nấu chín, các chủng vi khuẩn E. coli sinh ESBL lưu hành trong các cá thể khỏe mạnh, thức ăn theo chuỗi sản xuất thực phẩm từ trang trại đến người tiêu thụ và môi trường xung quanh. Tại Hàn Quốc, Lim et al. (2015) đã xác định tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL trên thân thịt gà ở cơ sở giết là 39,75% (62/156). Hơn nữa, Mbanga et al. (2016) đã xác định các gen 16S rDNA của các chủng E. coli sinh ESBL phân lập từ thịt gà và nước tiểu của bệnh nhân ở Bulawayo của Zimbabwe có sự tương đồng cao nên nhóm nghiên cứu đã cho rằng có sự truyền vi khuẩn E. coli sinh ESBL từ gà sang người và thịt gà là nguồn chứa vi khuẩn đề kháng kháng sinh có thể truyền qua con người qua chuỗi thức ăn. Các kết quả nghiên cứu trên và kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy thật cần thiết tăng cường giám sát và kiểm soát sự lây lan của các vi khuẩn E. coli đề kháng thuốc kháng sinh trong cộng đồng trong chuỗi thực phẩm từ cơ sở chăn nuôi, cơ sở giết mổ cho đến người tiêu dùng. Ngoài ra, mẫu phân của gà được giết mổ tại các cơ sở có sự lưu hành của E. coli sinh ESBL là một trong những nguồn lây nhiễm E. coli sinh ESBL vào thân thịt trong quá trình giết mổ và lan truyền vi khuẩn E. coli sinh ESBL ra môi trường xung quanh nếu các cơ sở giết mổ không quan tâm đến vấn đề tiêu độc khử trùng và xử lý chất thải. Theo Blaak et al. (2014) E. coli sinh ESBL không chỉ hiện diện trên gà mà còn có thể truyền sang người thông qua nguồn nước trong đó ruồi có thể làm lan truyền E. coli sinh ESBL từ gà sang người. Chúng có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác và làm vấy nhiễm vi khuẩn vào thực phẩm của con người. Tại Bồ Đào Nha, Costa et al. (2009) thu thập 76 mẫu phân gà thịt tại cơ sở giết mổ, kết quả có 38,2% (29/76) mẫu nhiễm vi khuẩn E. coli sinh ESBL. Tại Nhật, Hiroi et al. (2012) phân lập E. coli sinh ESBL trên mẫu phân của 30 gà thịt và 17 gà đẻ tại cơ sở giết mổ, kết quả cho thấy sự hiện diện của E. coli sinh ESBL ở mẫu phân gà thịt và gà đẻ lần lượt là 60% và 5,9%. Nadine et al. (2012) nghiên cứu ở Thụy Sĩ trên mẫu phân gà tại cơ sở giết mổ cho thấy tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL trên gà 63,4%. Ở Thái Lan, kết quả nghiên cứu của Boonyasiri et al. (2014) cho thấy có tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL trên mẫu phân gà tại cơ sở giết mổ là 40% (n=141). Gần đây, Amsaveni et al. (2018) đã xác định tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL trong 85 mẫu phân thu thập đường ruột gà tại cơ sở giết mổ ở Pondicherry, Ấn Độ là 44% (14/32 mẫu). 4.2.2 Kết quả phân lập E. coli sinh ESBL trên môi trƣờng giết mổ Kết quả phân lập vi khuẩn E. coli sinh ESBL trên các mẫu môi trường từ cơ sở giết mổ (Bảng 4.10) cho thấy sàn pha lóc thịt có tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL cao 58,33% (7/12). Đây sẽ là một trong những yếu tố để vấy nhiễm vi khuẩn E. coli sinh ESBL lên thân thịt gà tại cơ sở giết mổ do đó các chủ cơ sở giết mổ cần có kế hoạch vệ sinh cơ sở giết mổ định kỳ để tránh sự vấy nhiễm vi khuẩn E. coli sinh ESBL lên thân thịt gà. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy nước thải có sự hiện diện của E. coli sinh ESBL 16,67% (2/12). Bảng 4.10: Tỉ lệ nhiễm E. coli sinh ESBL trên môi trường giết mổ Loại mẫu Số cơ sở khảo sát Số cơ sở dươn
File đính kèm:
luan_an_khao_sat_vi_khuan_escherichia_coli_sinh_beta_lactama.pdf
Thong tin luan an- Eng-BuiThiLeMinh.docx
Thong tin luan an-Vi-BuiThiLeMinh.doc
TOM TAT-Eng-BUITHILEMINH.pdf
TOM TAT-Vi-BUITHILEMINH.pdf