Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau

ng. 4.1.8. Hiệu quả của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau Các liên kết dù là ngang hay dọc đều mang lại những lợi ích nhất định cho các bên tham gia nếu được tổ chức và thực hiện tốt, đặc biệt là về kinh tế (bảng 4.12). Bảng 4.12. So sánh hiệu quả giữa nuôi tôm có và không có liên kết Năng suất (tấn/ha) Kích cỡ (con/kg) Doanh thu (tr.đ/ha) Chi phí (tr.đ/ha) Thu nhập (tr.đ/ha) Bình quân nhóm có liên kết 4,8 38.4 490,6 429,1 61,4 Bình quân nhóm không liên kết 4,9 48.2 544,7 518,7 26,1 Bình quân chung 4,8 41,0 505,1 453,1 52,0 Về hiệu quả kinh tế, số liệu khảo sát vừa qua cho thấy những người nuôi tôm có liên kết (bao gồm cả liên kết ngang và dọc) đạt được kết quả tốt hơn so với những người nuôi tôm cá thể, không có liên kết. Trước hết, có thể thấy năng suất/sản lượng của cả 2 nhóm nuôi tôm có và không có liên kết không có sự khác biệt lớn - thậm chí, nhóm nuôi tôm có liên kết còn có năng suất thấp hơn nhóm nuôi tôm không liên kết khoảng 0,1 tấn/ha. Chính vì điều này, doanh thu bình quân của nhóm nuôi tôm có liên kết thấp hơn khoảng 11% so với nhóm nuôi không liên kết. Tuy nhiên, do chi phí của nhóm nuôi có liên kết tiết giảm được tới hơn 20% so với nhóm nuôi không liên kết nên thu nhập cuối cùng của nhóm nuôi tôm có liên kết cao hơn nhóm nuôi tôm không liên kết gần 58% tính trên 1 ha. Tình hình này có thể được giải thích là do nhóm người nuôi tôm có liên kết mặc dù có mức sản lượng bình quân thấp hơn một chút so với nhóm nuôi tôm không liên kết nhưng do hoạt động liên kết đã giúp cho người nuôi tôm giảm được rất nhiều các loại chi phí trong đó đặc biệt là chi phí thức ăn giảm được gần 12% và chi phí lãi vay giảm được tới 416% tính bình quân trên 1 ha. Có được điều này là do người nuôi tôm có liên kết được ứng trước vật tư (bao gồm cả giống, thức ăn, thuốc) với chất lượng ổn định giúp cho tỷ lệ sống của tôm 73 giống thả cao hơn, ít bệnh hơn nên chi phí thức ăn và thuốc, hóa chất đều thấp hơn. Đồng thời, chính vì được ứng trước vật tư nên người nuôi tôm có liên kết không phải đi vay vốn từ các nguồn phi chính thức với lãi suất rất cao (do khả năng tiếp cận nguồn vốn chính thức còn khá hạn chế) nên đã giảm được khá nhiều chi phí. Chất lượng tôm nuôi cũng được cải thiện đáng kể với hình thức nuôi tôm có liên kết - kích cỡ tôm bình quân của nhóm người nuôi tôm có liên kết đạt hơn 38 con/kg trong khi nhóm nuôi tôm không liên kết chỉ đạt hơn 48 con/kg tôm khi thu hoạch. Kích cỡ tôm bán khi thu hoạch cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức giá bán và với sự khác biệt gần 20% về kích cỡ như vậy sẽ đóng góp đáng kể trong sự gia tăng thu nhập cuối cùng trên 1 ha của người nuôi tôm có liên kết. Mặc dù doanh thu bình quân trên 1 ha của người nuôi tôm có liên kết thấp hơn so với người nuôi tôm không liên kết nhưng với những lợi thế to lớn khác có được từ chính quá trình liên kết (được ứng trước giống, vật tư, được ưu tiên hỗ trợ kĩ thuật và tiếp nhận chuyển giao TBKT) nên người nuôi tôm có liên kết lại có mức chi phí sản xuất thấp hơn nhiều trong khi chất lượng tôm lại có chiều hướng tốt hơn. Chính vì vậy, người nuôi tôm có liên kết vẫn đạt được kết quả cuối cùng - thu nhập tốt hơn so với người nuôi tôm không liên kết. Với mức chênh lệch bình quân hơn 35 triệu đồng/ha hay hơn 58% thu nhập tính trên 1 ha, ngành nuôi tôm của Cà Mau với trên 260 ngàn ha có thể thu thêm được tới 7.300 tỷ đồng nếu chuyển đổi hết được sang phương thức nuôi tôm có liên kết. Tóm lại, nếu có thể tổ chức liên kết một cách toàn diện, ngành nuôi tôm của tỉnh Cà Mau có thể giảm được đáng kể giá thành sản xuất tôm nguyên liệu - bình quân khoảng hơn 18 ngàn đồng/kg. Mức giảm này là rất có ý nghĩa khi trong thời gian qua tôm của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường quốc tế thường không cạnh tranh được về giá với sản phẩm tương tự của Ấn Độ hay Inđônêxia. Cụ thể, giá tôm sú HSLO 16/20 của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ là 6,85 USD/pao, của Inđônêxia là 5,55 USD/pao và của Ấn Độ là 5,30 USD/pao. Tình hình ở thị trường Nhật Bản còn xấu hơn khi giá tôm đông lạnh của Việt Nam bình quân là khoảng 11,2 USD/kg trong khi của Ấn Độ chỉ là 8,6 USD/kg (VASEP, 2013). Thống kê cũng cho thấy giá tôm kích cỡ lớn tại các thị trường cao cấp như Mỹ hay Nhật Bản cao hơn rất nhiều so với tôm có kích cỡ nhỏ - giá tôm loại 26-30 con/kg cao hơn loại 31-40 con/kg khoảng 1 USD/kg tại thị trường Mỹ thời điểm 12/2013 (VASEP, 2014). Nói cách khác, nuôi tôm có liên kết có 74 thể giảm được chi phí sản xuất khoảng 0,6 USD/kg và tăng được giá xuất khẩu thêm khoảng 1 USD/kg và với khoảng 85 ngàn tấn tôm của tỉnh Cà Mau xuất khẩu được trong năm 2013 (Sở NN&PTNT Cà Mau, 2013) sẽ tương đương với mức lợi nhuận thực thu thêm được về cho Tỉnh là hơn 130 triệu USD. Các bên hưởng lợi, trong đó có cả ngân sách của Tỉnh, doanh nghiệp chế biến tôm và người nuôi tôm sẽ thu được lợi ích rất đáng kể. 4.1.9. Ảnh hưởng của yếu tố cơ chế chính sách đến phát triển liên kết trong sản xuất và chế biến tôm Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 18/03/2002) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Theo đó, Nghị quyết xác định cần tiếp tục đẩy mạnh việc phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể ở nhiều quy mô, hình thức, trình độ khác nhau trong những lĩnh vực phù hợp. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp (với hình thức phổ biến là HTX và tổ hợp tác) cần tập trung vào các dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ sản xuất nông nghiệp và từng bước mở rộng ngành nghề sản xuất kinh doanh liên kết các HTX, tổ hợp tác với các doanh nghiệp trong nông nghiệp cũng như phi nông nghiệp. Tiếp theo Nghị quyết 13-NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng chính phủ về khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng đã ra đời nhằm cụ thể hóa các chủ trương của Đảng. Theo đó, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kí hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá với người sản xuất, HTX, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá để phát triển sản xuất ổn định và bền vững. Quyết định này đã là cơ sở pháp lí để phát triển kinh tế hợp tác, tổ chức liên kết trong sản xuất nông nghiệp nói chung trong suốt hơn 1 thập kỉ qua. Tuy nhiên, sau 1 thời gian thực hiện Quyết định này đã bộc lộ nhiều bất cập, cần được chỉnh sửa, bổ sung (Bộ NN&PTNT, 2008). Cụ thể, số lượng nông sản tiêu thụ thông qua “chưa có các chính sách hay văn bản hướng dẫn nào về xây dựng chuỗi liên kết trong ngành tôm trên địa bàn tỉnh” “chưa có các khung pháp lí rõ ràng cho hình thành và duy trì liên kết trong nuôi và chế biến tôm” - Phỏng vấn ông Đoàn Thanh H. và ông Lý Phước H. Hộp 4.4. Thiếu khung pháp lí về liên kết 75 hợp đồng rất thấp (chỉ đạt 6-9% trong tổng sản lượng lúa hàng hóa, 2-5% diện tích trồng cà phê, 0% sản lượng thịt lợn, dưới 10% sản lượng thủy sản nói chung và riêng các loại hải sản chỉ đạt 2-3%). Có 2 yếu tố chính được Bộ NN&PTNT chỉ ra đó là “nhiều cơ chế chính sách trong Quyết định 80/2002/QĐ-TTg không còn phù hợp với các quy định hiện hành sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO” và “công tác triển khai, tổ chức thực hiện Quyết định còn nhiều yếu kém” (Bộ NN&PTNT, 2008). Việc thực hiện các chính sách có nguồn gốc từ Quyết định 80/2002/QĐ-TTg nhằm tổ chức và phát triển liên kết, sản xuất và tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng ở Cà Mau cũng nằm trong tình trạng chung này. Nói cách khác, trên thực tế hầu như chưa có cơ chế chính sách nào thực sự tỏ ra có hiệu quả trong hỗ trợ phát triển liên kết giữa sản xuất và chế biến tôm. Đồng thời, các chính sách về hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị ngành hàng tôm cũng còn vắng bóng. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của liên kết trong nuôi và chế biến tôm. Chính vì vậy, điểm nhấn chính sách gần đây nhất liên quan đến phát triển liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản là Quyết định 62/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25/10/2013 về khuyến khích phát hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn. Quyết định này được ban hành để thay thế cho Quyết định 80- 2002/QĐ-TTg về chı́nh sách khuyến khı́ch tiêu thu ̣ nông sản hàng hóa thông qua hơp̣ đồng. Quyết định này hiện đang được coi là cơ sở pháp lí quan trọng nhất để triển khai các hoạt động hỗ trợ đối với doanh nghiệp, nông dân và các tổ chức đại diện của nông dân trong phát triển các loại hình liên kết giữa sản xuất với tiêu thụ nông sản. Quyết định đã có những đổi mới đáng kể liên quan đến những vấn đề cốt yếu như trách nhiêṃ của các bên trong mối liên kết sản xuất, nguồn lưc̣ để thưc̣ hiêṇ các chı́nh sách hỗ trơ,̣ điều kiêṇ để nhâṇ hỗ trơ ̣ của Nhà nước và đặc biệt là cơ chế xử lý vi phaṃ hơp̣ đồng. Thông tư 15/2014/TT- BNNPTNT của Bộ NN&PTNT về chính sách khuyến khích hợp tác, hỗ trợ phát triển liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn là văn bản pháp lí gần đây nhất của ngành nông nghiệp nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thực “ chưa có cơ chế rõ ràng nên việc thực hiện quy hoạch, phát triển các vùng sản xuất tập trung còn nhiều hạn chế” - Phỏng vấn ông Quách Nhật B. Hộp 4.5. Thiếu cơ chế đảm bảo thực hiện quy hoạch 76 hiện các nội dung của Nghị định 62/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Thông tư này ban hành tiêu chí về cánh đồng lớn, huớng dẫn quy hoạch và tổ chức triển khai xây dựng các vùng sản xuất nông sản tập trung theo mô hình cánh đồng lớn. Trong đó, tiêu chí “liên kết” được nhấn mạnh và xác định là 1 trong 4 tiêu chí bắt buộc trong phê duyệt các dự án hoặc phương án về sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn và qua đó hưởng các ưu đãi của Nhà nước. Tuy nhiên, do mới được ban hành nên các hành động cụ thể áp dụng chính sách chưa nhiều. Mặt khác, trong quá trình triển khai đã bắt đầu phát sinh một số vướng mắc (ví dụ, tiêu chí “cánh đồng lớn”, “phương án” và nhiều tiêu chí khác liên quan đến các điều kiện để được hưởng hỗ trợ hoặc vấn đề “nguồn ngân sách” đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở những địa phương khác nhau). Kết luận của Bộ Chính trị (văn bản số 97-KL/TW, ngày 15/05/2014) về một số giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng thể hiện sự quan tâm lớn đối với việc tổ chức liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Kết luận đã nhấn mạnh nhu cầu phải tiếp tục đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể với nòng cốt là HTX. Kết luận này là cơ sở để tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp nhằm xây dựng các công ty, doanh nghiệp nhà nước thành trung tâm liên kết sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp với người dân để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, thâm canh gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, phù hợp với quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp của mỗi vùng, miền, địa phương. Song song và hỗ trợ mục tiêu khuyến khích phát hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn để từ đó có chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp tổ chức được các liên kết tiêu thụ nông sản cho nông dân cũng đã được ban hành. Nghị định này là cơ sở để các doanh nghiệp cả trong và ngoài ngành nông nghiệp tiếp tục tăng cường đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nông nghiệp. Nghị định cũng bao gồm các nội dung có liên quan đến việc hỗ trợ phát triển các liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua các ưu đãi cho các các dự án nông nghiệp thu hút được nông dân góp vốn (như đất đai) cùng tham gia sản xuất và cung ứng hàng 77 hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, Thông tư hướng dẫn (Thông tư 05/2014/TT-BKHĐT) mới được ban hành ngày 30/09/2014 nên chưa có kết quả rõ ràng trên thực tế. Để tiếp tục các nỗ lực hỗ trợ phát triển liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ nông sản, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 5/3/2014 giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ NN&PTNT và các ngành có liên quan triển khai chương trình cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp - nông thôn theo các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất. Đây được cho là một trong những nỗ lực lớn nhằm cụ thể hóa quyết tâm của Chính phủ về vấn đề này. Các Ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp sẽ được Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo triển khai mạnh chương trình này bao gồm cả việc tạo điều kiện thuận lợi nhất để người đi vay có thể dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Theo tinh thần Nghị quyết này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 quy định về việc cho vay thí điểm đối với các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Quyết định số 1233/QĐ-NHNN của Thông đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phê duyệt danh sách ngân hàng thương mại (NHTM) và khách hàng tham gia chương trình cũng đã được ban hành kèm theo. Theo đó, các doanh nghiệp kí hợp đồng liên kết gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; hộ nông dân, HTX ký kết hợp đồng liên kết theo chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với các doanh nghiệp được vay ngắn hạn cho các chi phí về giống, phân bón, vật tư nông nghiệp, vay trung và dài hạn để đầu tư CSHT, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất Về Quy hoạch, các quy hoạch nông nghiệp nói chung, quy hoạch nuôi trồng thủy sản (trong đó có tôm) vùng đồng bằng sông Cửu Long, quy hoạch phát triển chế biến thủy sản đều đã được xây dựng và ban hành cho giai đoạn 2010-2015, tầm nhìn 2020 và 2030 làm cơ sở triển khai xây dựng các quy hoạch chi tiết cho phát triển nuôi tôm và chế biến biến tôm trong khu vực. Một số các nghiên cứu có liên quan cũng đã được thực hiện nhằm hỗ trợ cho phát triển nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có Cà Mau. Thực tế cho thấy ngành tôm Cà Mau phát “ còn thiếu cơ chế pháp lí rõ ràng cũng như các quy hoạch có tính khoa học cao. Thực tế cho thấy các quy hoạch về sử dụng đất đang còn nhiều bất cập” - Phỏng vấn ông Trương Quốc B. Hộp 4.6. Quy hoạch còn nhiều bất cập 78 triển khá nhanh trong cả khu vực nuôi và khu vực chế biến làm cho nhiều chỉ tiêu quy hoạch đã bị phá vỡ, hiện đang phải điều chỉnh. Phát triển theo quy hoạch là yếu tố rất quan trọng nhằm đảm bảo tính hiệu quả nhưng bền vững của hoạt động sản xuất, đặc biệt là đảm bảo tiêu chí bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường tiêu dùng. Bên cạnh các chính sách chung của trung ương, chính quyền tỉnh Cà Mau cũng ban hành thêm một số chính sách, cơ chế một mặt nhằm tạo môi trường để triển khai các chính sách của Nhà nước trung ương, mặt khác cũng bổ sung thêm các hỗ trợ ở cấp địa phương để phát triển ngành sản xuất quan trọng này của Tỉnh. Về thể chế tổ chức, UBND tỉnh Cà Mau đã có nhiều chính sách và gần đây nhất là Kế hoạch 53/KH-UBND ngày 16/12/2013 nhằm đẩy mạnh việc thực hiện đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Bên cạnh các giải pháp chung, Kế hoạch này đặc biệt nhấn mạnh vai trò của chính quyền địa phương các cấp và giải pháp tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức cho các bên liên quan. Trong hơn 10 năm qua, tỉnh Cà Mau đã phát triển thêm được khoảng 1.000 tổ hợp tác mới với gần 7.000 tổ viên tham gia. Các tổ hợp tác này chủ yếu thuộc lĩnh vực thủy sản và nông nghiệp. Đã có tới 41% các tổ hợp tác khi thành lập đã nhờ đến sự chứng thực của chính quyền địa phương (UBND xã) để minh bạch hóa về quản lí vốn góp của các tổ viên. Về số lượng, các HTX không cho thấy có sự gia tăng nào đáng kể (hiện Cà Mau vẫn chỉ có khoảng 250 HTX nông nghiệp, tương đương số lượng HTX năm 2008) tuy nhiên về vốn góp đã tăng hơn 200% so với năm 2002, đạt bình quân 180 tỷ đồng so với 86 tỷ đồng năm 2002 (UBND tỉnh Cà Mau, 2013). Về hỗ trợ phát triển CSHT, UBND tỉnh Cà Mau đã chỉ đạo các ngành chức năng khẩn trương thực hiện quy hoạch đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thủy lợi phục vụ đa mục tiêu ở khu vực rừng tràm U Minh Hạ theo tinh thần Thông báo số 1299/TB-VP ngày 20/12/2013 của VP UBND tỉnh Cà Mau. Về phòng chống dịch bệnh, UBND tỉnh đã có công văn số 3248/UBND- KT ngày 04/07/2014 về việc sử dụng hóa chất phòng chống dịch bệnh trên tôm nuôi trong đó giao Sở NN&PTNT Cà Mau chủ động bám sát tình hình và triển khai các biện pháp phòng ngừa sử dụng hóa chất dự trữ. Tháng 08/2014, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau đã ban hành công văn số 4358/UBND-KT về việc triển khai chính sách tín dụng phát triển thủy sản trên 79 địa bàn tỉnh Cà Mau (theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 22/2014/TT-NHNN). Theo đó, các khu vực sản xuất kinh doanh tổ chức lại được thành các liên kết theo chuỗi sẽ được ưu đãi vay vốn tín dụng hơn so với các khu vực khác. Về quy hoạch, cuối năm 2011, UBND tỉnh Cà Mau đã phê duyệt Quy hoạch phát triển nông nghiệp tỉnh Cà Mau đến năm 2020 trong đó tập trung phát triển mạnh ngành tôm một cách ổn định, hiệu quả và bền vững. Về sản lượng, quy hoạch ngành tôm xác định mục tiêu là nhằm đáp ứng được toàn bộ nhu cầu về tôm nguyên liệu của các nhà máy chế biến trong tỉnh (tương đương 190 ngàn tấn tôm/năm). Tuy nhiên, quy hoạch diện tích nuôi tôm đến 2015 là khoảng 266 ngàn ha đã có lúc bị vượt qua trong khi quy hoạch bình quân năng suất nuôi tôm đến 2015 là 0,75 tấn/ha/năm lại còn xa mới đạt được. Như vậy, các giải pháp về quy hoạch các vùng nuôi tôm tập trung gắn với phát triển CSHT tương ứng và cơ cấu phương thức nuôi hợp lí cần được tiếp tục đẩy mạnh để hỗ trợ phát triển nuôi và chế biến tôm ở Cà Mau (Sở NN& PTNT tỉnh Cà Mau, 2011a). 4.1.10. Ảnh hưởng của yếu tố đầu tư công đến phát triển liên kết trong sản xuất và chế biến tôm Như đã phân tích, các hạng mục đầu tư công có tầm ảnh hưởng lớn đối với kết quả của hoạt động nuôi tôm cũng như khả năng kết nối giữa khu vực nuôi tôm và các doanh nghiệp chế biến. Khảo sát thực tế tại Cà Mau với các cán bộ quản lí và các tổ chức, hiệp hội đều cho thấy nhu cầu kết nối của các doanh nghiệp chế biến với các vùng nuôi là rất lớn tuy nhiên các CSHT chung (nhất là giao thông) vẫn đang cản trở đáng kể các nỗ lực liên kết này do đặc điểm địa hình khá đặc thù của Cà Mau bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông ngòi khiến cho nhiều vùng nuôi hiện vẫn rất khó kết nối được trực tiếp với thị trường, với người mua để có thể giảm bớt chi phí trung gian, tăng lợi nhuận. Số liệu của Cục Thống kê tỉnh Cà Mau (2013) được trình bày tại bảng 4.13. “ các doanh nghiệp đơn lẻ khó có khả năng tự phát triển các CSHT lớn như giao thông, điện và do vậy khả năng kết nối giữa doanh nghiệp với các vùng nuôi tôm đang còn bị hạn chế do điều kiện địa hình đặc thù của Cà Mau” - Phỏng vấn ông Châu Công B. Hộp 4.7. CSHT có ảnh hưởng lớn đến phát triển liên kết 80 Bảng 4.13. Vốn đầu tư của tỉnh Cà Mau giai đoạn 2010-2012 Đơn vị: triệu đồng 2010 2011 2012 Tổng sản phẩm trên địa bàn 24.510.115 28.457.512 31.750.093 Vốn đầu tư XDCB 8.330.508 12.514.900 8.042.868 Vốn đầu tư sửa chữa, nâng cấp 386.056 171.863 309.121 Trong đó: - Vốn Nhà nước 6.629.485 10.451.109 5.336.901 - Vốn ngoài Nhà nước 4.056.546 4.277.826 3.667.854 Nhìn chung, vốn đầu tư cho các công trình XDCB như vậy còn khá khiêm tốn, nhất là đối với địa bàn phức tạp như tỉnh Cà Mau với hệ thống kênh rạch dày đặc và bị ảnh hưởng trực tiếp bởi chế độ thủy triểu gây khó khăn lớn cho việc phát triển các công trình hạ tầng như giao thông, điện hay kể cả thủy lợi. 4.1.10.1. Giao thông Giao thông đường thủy là lợi thế của tỉnh, song, cũng chính những lợi thế về điều kiện sông rạch, kênh mương cộng với đặc thù về mùa mưa có cường độ tập trung l
File đính kèm:
luan_an_lien_ket_trong_san_xuat_va_che_bien_tom_thuong_pham.pdf
KTNN - TTLA - Phung Giang Hai.pdf
TTT - Phung Giang Hai.doc
TTT - Phung Giang Hai.pdf