Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 1

Trang 1

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 2

Trang 2

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 3

Trang 3

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 4

Trang 4

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 5

Trang 5

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 6

Trang 6

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 7

Trang 7

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 8

Trang 8

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 9

Trang 9

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 183 trang nguyenduy 07/10/2025 70
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau

Luận án Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau
ng.
4.1.8. Hiệu quả của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở
Cà Mau
Các liên kết dù là ngang hay dọc đều mang lại những lợi ích nhất định cho các
bên tham gia nếu được tổ chức và thực hiện tốt, đặc biệt là về kinh tế (bảng 4.12).
Bảng 4.12. So sánh hiệu quả giữa nuôi tôm có và không có liên kết
Năng
suất
(tấn/ha)
Kích
cỡ
(con/kg)
Doanh
thu
(tr.đ/ha)
Chi
phí
(tr.đ/ha)
Thu
nhập
(tr.đ/ha)
Bình quân nhóm có liên kết 4,8 38.4 490,6 429,1 61,4
Bình quân nhóm không liên kết 4,9 48.2 544,7 518,7 26,1
Bình quân chung 4,8 41,0 505,1 453,1 52,0
Về hiệu quả kinh tế, số liệu khảo sát vừa qua cho thấy những người nuôi
tôm có liên kết (bao gồm cả liên kết ngang và dọc) đạt được kết quả tốt hơn so
với những người nuôi tôm cá thể, không có liên kết. Trước hết, có thể thấy năng
suất/sản lượng của cả 2 nhóm nuôi tôm có và không có liên kết không có sự khác
biệt lớn - thậm chí, nhóm nuôi tôm có liên kết còn có năng suất thấp hơn nhóm
nuôi tôm không liên kết khoảng 0,1 tấn/ha. Chính vì điều này, doanh thu bình
quân của nhóm nuôi tôm có liên kết thấp hơn khoảng 11% so với nhóm nuôi
không liên kết. Tuy nhiên, do chi phí của nhóm nuôi có liên kết tiết giảm được
tới hơn 20% so với nhóm nuôi không liên kết nên thu nhập cuối cùng của nhóm
nuôi tôm có liên kết cao hơn nhóm nuôi tôm không liên kết gần 58% tính trên 1
ha. Tình hình này có thể được giải thích là do nhóm người nuôi tôm có liên kết
mặc dù có mức sản lượng bình quân thấp hơn một chút so với nhóm nuôi tôm
không liên kết nhưng do hoạt động liên kết đã giúp cho người nuôi tôm giảm
được rất nhiều các loại chi phí trong đó đặc biệt là chi phí thức ăn giảm được gần
12% và chi phí lãi vay giảm được tới 416% tính bình quân trên 1 ha. Có được
điều này là do người nuôi tôm có liên kết được ứng trước vật tư (bao gồm cả
giống, thức ăn, thuốc) với chất lượng ổn định giúp cho tỷ lệ sống của tôm
73
giống thả cao hơn, ít bệnh hơn nên chi phí thức ăn và thuốc, hóa chất đều thấp
hơn. Đồng thời, chính vì được ứng trước vật tư nên người nuôi tôm có liên kết
không phải đi vay vốn từ các nguồn phi chính thức với lãi suất rất cao (do khả
năng tiếp cận nguồn vốn chính thức còn khá hạn chế) nên đã giảm được khá
nhiều chi phí. Chất lượng tôm nuôi cũng được cải thiện đáng kể với hình thức
nuôi tôm có liên kết - kích cỡ tôm bình quân của nhóm người nuôi tôm có liên
kết đạt hơn 38 con/kg trong khi nhóm nuôi tôm không liên kết chỉ đạt hơn 48
con/kg tôm khi thu hoạch. Kích cỡ tôm bán khi thu hoạch cũng là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến mức giá bán và với sự khác biệt gần 20% về kích cỡ như
vậy sẽ đóng góp đáng kể trong sự gia tăng thu nhập cuối cùng trên 1 ha của
người nuôi tôm có liên kết. Mặc dù doanh thu bình quân trên 1 ha của người nuôi
tôm có liên kết thấp hơn so với người nuôi tôm không liên kết nhưng với những
lợi thế to lớn khác có được từ chính quá trình liên kết (được ứng trước giống, vật
tư, được ưu tiên hỗ trợ kĩ thuật và tiếp nhận chuyển giao TBKT) nên người
nuôi tôm có liên kết lại có mức chi phí sản xuất thấp hơn nhiều trong khi chất
lượng tôm lại có chiều hướng tốt hơn. Chính vì vậy, người nuôi tôm có liên kết
vẫn đạt được kết quả cuối cùng - thu nhập tốt hơn so với người nuôi tôm không
liên kết. Với mức chênh lệch bình quân hơn 35 triệu đồng/ha hay hơn 58% thu
nhập tính trên 1 ha, ngành nuôi tôm của Cà Mau với trên 260 ngàn ha có thể thu
thêm được tới 7.300 tỷ đồng nếu chuyển đổi hết được sang phương thức nuôi
tôm có liên kết.
Tóm lại, nếu có thể tổ chức liên kết một cách toàn diện, ngành nuôi tôm
của tỉnh Cà Mau có thể giảm được đáng kể giá thành sản xuất tôm nguyên liệu -
bình quân khoảng hơn 18 ngàn đồng/kg. Mức giảm này là rất có ý nghĩa khi
trong thời gian qua tôm của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường quốc tế thường
không cạnh tranh được về giá với sản phẩm tương tự của Ấn Độ hay Inđônêxia.
Cụ thể, giá tôm sú HSLO 16/20 của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ là
6,85 USD/pao, của Inđônêxia là 5,55 USD/pao và của Ấn Độ là 5,30 USD/pao.
Tình hình ở thị trường Nhật Bản còn xấu hơn khi giá tôm đông lạnh của Việt
Nam bình quân là khoảng 11,2 USD/kg trong khi của Ấn Độ chỉ là 8,6 USD/kg
(VASEP, 2013). Thống kê cũng cho thấy giá tôm kích cỡ lớn tại các thị trường
cao cấp như Mỹ hay Nhật Bản cao hơn rất nhiều so với tôm có kích cỡ nhỏ - giá
tôm loại 26-30 con/kg cao hơn loại 31-40 con/kg khoảng 1 USD/kg tại thị trường
Mỹ thời điểm 12/2013 (VASEP, 2014). Nói cách khác, nuôi tôm có liên kết có
74
thể giảm được chi phí sản xuất khoảng 0,6 USD/kg và tăng được giá xuất khẩu
thêm khoảng 1 USD/kg và với khoảng 85 ngàn tấn tôm của tỉnh Cà Mau xuất
khẩu được trong năm 2013 (Sở NN&PTNT Cà Mau, 2013) sẽ tương đương với
mức lợi nhuận thực thu thêm được về cho Tỉnh là hơn 130 triệu USD. Các bên
hưởng lợi, trong đó có cả ngân sách của Tỉnh, doanh nghiệp chế biến tôm và
người nuôi tôm sẽ thu được lợi ích rất đáng kể.
4.1.9. Ảnh hưởng của yếu tố cơ chế chính sách đến phát triển liên kết trong
sản xuất và chế biến tôm
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX (Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 18/03/2002) về tiếp tục đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Theo đó, Nghị quyết xác định cần tiếp tục
đẩy mạnh việc phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể ở nhiều
quy mô, hình thức, trình độ khác nhau trong những lĩnh vực phù hợp. Kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp (với hình thức phổ biến là HTX và tổ hợp tác) cần tập
trung vào các dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ sản xuất nông nghiệp và từng
bước mở rộng ngành nghề sản xuất kinh doanh liên kết các HTX, tổ hợp tác với
các doanh nghiệp trong nông nghiệp cũng như phi nông nghiệp. Tiếp theo Nghị
quyết 13-NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Quyết định số
80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng chính phủ về khuyến khích tiêu
thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng đã ra đời nhằm cụ thể hóa các chủ
trương của Đảng. Theo đó, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế kí hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá với người sản xuất,
HTX, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân nhằm gắn sản xuất với chế
biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá để phát triển sản xuất ổn định và bền vững.
Quyết định này đã là cơ sở pháp lí
để phát triển kinh tế hợp tác, tổ
chức liên kết trong sản xuất nông
nghiệp nói chung trong suốt hơn 1
thập kỉ qua. Tuy nhiên, sau 1 thời
gian thực hiện Quyết định này đã
bộc lộ nhiều bất cập, cần được
chỉnh sửa, bổ sung (Bộ
NN&PTNT, 2008). Cụ thể, số
lượng nông sản tiêu thụ thông qua
“chưa có các chính sách hay văn bản
hướng dẫn nào về xây dựng chuỗi liên kết
trong ngành tôm trên địa bàn tỉnh”
“chưa có các khung pháp lí rõ ràng cho
hình thành và duy trì liên kết trong nuôi và
chế biến tôm” - Phỏng vấn ông Đoàn
Thanh H. và ông Lý Phước H.
Hộp 4.4. Thiếu khung pháp lí về liên kết
75
hợp đồng rất thấp (chỉ đạt 6-9% trong tổng sản lượng lúa hàng hóa, 2-5% diện
tích trồng cà phê, 0% sản lượng thịt lợn, dưới 10% sản lượng thủy sản nói chung và
riêng các loại hải sản chỉ đạt 2-3%). Có 2 yếu tố chính được Bộ NN&PTNT chỉ
ra đó là “nhiều cơ chế chính sách trong Quyết định 80/2002/QĐ-TTg không còn
phù hợp với các quy định hiện hành sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới WTO” và “công tác triển khai, tổ chức thực hiện Quyết định còn
nhiều yếu kém” (Bộ NN&PTNT, 2008). Việc thực hiện các chính sách có
nguồn gốc từ Quyết định 80/2002/QĐ-TTg nhằm tổ chức và phát triển liên kết,
sản xuất và tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng ở Cà Mau cũng nằm trong tình
trạng chung này. Nói cách khác, trên thực tế hầu như chưa có cơ chế chính sách
nào thực sự tỏ ra có hiệu quả trong hỗ trợ phát triển liên kết giữa sản xuất và chế
biến tôm. Đồng thời, các chính sách về hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị ngành hàng
tôm cũng còn vắng bóng. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
của liên kết trong nuôi và chế biến tôm. Chính vì vậy, điểm nhấn chính sách gần
đây nhất liên quan đến phát triển liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản là
Quyết định 62/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25/10/2013 về
khuyến khích phát hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng
cánh đồng lớn. Quyết định này được ban hành để thay thế cho Quyết định 80-
2002/QĐ-TTg về chı́nh sách khuyến khı́ch tiêu thu ̣ nông sản hàng hóa thông qua
hơp̣ đồng. Quyết định này hiện đang được coi là cơ sở pháp lí quan trọng nhất để
triển khai các hoạt động hỗ trợ đối với doanh nghiệp, nông dân và các tổ chức đại
diện của nông dân trong phát triển các loại hình liên kết giữa sản xuất với tiêu thụ
nông sản. Quyết định đã có
những đổi mới đáng kể liên quan
đến những vấn đề cốt yếu như
trách nhiêṃ của các bên trong
mối liên kết sản xuất, nguồn lưc̣
để thưc̣ hiêṇ các chı́nh sách hỗ
trơ,̣ điều kiêṇ để nhâṇ hỗ trơ ̣ của
Nhà nước và đặc biệt là cơ chế xử lý vi phaṃ hơp̣ đồng. Thông tư 15/2014/TT-
BNNPTNT của Bộ NN&PTNT về chính sách khuyến khích hợp tác, hỗ trợ phát
triển liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn là văn bản
pháp lí gần đây nhất của ngành nông nghiệp nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thực
“ chưa có cơ chế rõ ràng nên việc thực
hiện quy hoạch, phát triển các vùng sản xuất
tập trung còn nhiều hạn chế” - Phỏng vấn
ông Quách Nhật B.
Hộp 4.5. Thiếu cơ chế đảm bảo thực hiện
quy hoạch
76
hiện các nội dung của Nghị định 62/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Thông tư này
ban hành tiêu chí về cánh đồng lớn, huớng dẫn quy hoạch và tổ chức triển khai xây
dựng các vùng sản xuất nông sản tập trung theo mô hình cánh đồng lớn. Trong đó,
tiêu chí “liên kết” được nhấn mạnh và xác định là 1 trong 4 tiêu chí bắt buộc trong
phê duyệt các dự án hoặc phương án về sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn và
qua đó hưởng các ưu đãi của Nhà nước. Tuy nhiên, do mới được ban hành nên
các hành động cụ thể áp dụng chính sách chưa nhiều. Mặt khác, trong quá trình
triển khai đã bắt đầu phát sinh một số vướng mắc (ví dụ, tiêu chí “cánh đồng
lớn”, “phương án” và nhiều tiêu chí khác liên quan đến các điều kiện để được
hưởng hỗ trợ hoặc vấn đề “nguồn ngân sách” đang được hiểu theo nhiều cách
khác nhau ở những địa phương khác nhau).
Kết luận của Bộ Chính trị (văn bản số 97-KL/TW, ngày 15/05/2014) về
một số giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 7 khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn cũng thể hiện sự quan tâm lớn đối với việc tổ chức
liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Kết luận đã nhấn mạnh nhu cầu phải tiếp tục
đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động
của kinh tế tập thể với nòng cốt là HTX. Kết luận này là cơ sở để tiếp tục tổ chức
thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính
trị về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty
nông, lâm nghiệp nhằm xây dựng các công ty, doanh nghiệp nhà nước thành
trung tâm liên kết sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp với người dân để hình
thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, thâm canh gắn với công nghiệp chế
biến và thị trường, phù hợp với quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp
của mỗi vùng, miền, địa phương.
Song song và hỗ trợ mục tiêu khuyến khích phát hợp tác, liên kết sản xuất
gắn với tiêu thụ nông sản, Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của
Chính phủ về chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn để từ đó có chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp tổ chức được các
liên kết tiêu thụ nông sản cho nông dân cũng đã được ban hành. Nghị định này là
cơ sở để các doanh nghiệp cả trong và ngoài ngành nông nghiệp tiếp tục tăng
cường đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nông nghiệp. Nghị định cũng
bao gồm các nội dung có liên quan đến việc hỗ trợ phát triển các liên kết giữa nông
dân và doanh nghiệp thông qua các ưu đãi cho các các dự án nông nghiệp thu hút
được nông dân góp vốn (như đất đai) cùng tham gia sản xuất và cung ứng hàng
77
hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, Thông tư hướng dẫn (Thông tư 05/2014/TT-BKHĐT)
mới được ban hành ngày 30/09/2014 nên chưa có kết quả rõ ràng trên thực tế.
Để tiếp tục các nỗ lực hỗ trợ phát triển liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ
nông sản, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 5/3/2014 giao
cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ NN&PTNT và các ngành
có liên quan triển khai chương trình cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp -
nông thôn theo các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất. Đây được cho là một
trong những nỗ lực lớn nhằm cụ thể hóa quyết tâm của Chính phủ về vấn đề này.
Các Ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp sẽ được Ngân hàng Nhà
nước chỉ đạo triển khai mạnh chương trình này bao gồm cả việc tạo điều kiện
thuận lợi nhất để người đi vay có thể dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn tín dụng.
Theo tinh thần Nghị quyết này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định
số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 quy định về việc cho vay thí điểm đối với
các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Quyết định số 1233/QĐ-NHNN của Thông đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phê
duyệt danh sách ngân hàng thương mại (NHTM) và khách hàng tham gia chương
trình cũng đã được ban hành kèm theo. Theo đó, các doanh nghiệp kí hợp đồng
liên kết gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; hộ nông
dân, HTX ký kết hợp đồng liên kết theo chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp với các doanh nghiệp được vay ngắn hạn cho các chi phí về giống, phân
bón, vật tư nông nghiệp, vay trung và dài hạn để đầu tư CSHT, máy móc thiết bị
phục vụ sản xuất
Về Quy hoạch, các
quy hoạch nông nghiệp nói
chung, quy hoạch nuôi trồng
thủy sản (trong đó có tôm)
vùng đồng bằng sông Cửu
Long, quy hoạch phát triển
chế biến thủy sản đều đã được
xây dựng và ban hành cho giai đoạn 2010-2015, tầm nhìn 2020 và 2030 làm cơ sở
triển khai xây dựng các quy hoạch chi tiết cho phát triển nuôi tôm và chế biến biến
tôm trong khu vực. Một số các nghiên cứu có liên quan cũng đã được thực hiện nhằm
hỗ trợ cho phát triển nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long, trong đó có Cà Mau. Thực tế cho thấy ngành tôm Cà Mau phát
“ còn thiếu cơ chế pháp lí rõ ràng cũng như
các quy hoạch có tính khoa học cao. Thực tế
cho thấy các quy hoạch về sử dụng đất đang
còn nhiều bất cập” - Phỏng vấn ông Trương
Quốc B.
Hộp 4.6. Quy hoạch còn nhiều bất cập
78
triển khá nhanh trong cả khu vực nuôi và khu vực chế biến làm cho nhiều chỉ tiêu quy
hoạch đã bị phá vỡ, hiện đang phải điều chỉnh. Phát triển theo quy hoạch là yếu tố rất
quan trọng nhằm đảm bảo tính hiệu quả nhưng bền vững của hoạt động sản xuất,
đặc biệt là đảm bảo tiêu chí bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng các yêu cầu
ngày càng khắt khe của thị trường tiêu dùng.
Bên cạnh các chính sách chung của trung ương, chính quyền tỉnh Cà Mau
cũng ban hành thêm một số chính sách, cơ chế một mặt nhằm tạo môi trường để
triển khai các chính sách của Nhà nước trung ương, mặt khác cũng bổ sung thêm
các hỗ trợ ở cấp địa phương để phát triển ngành sản xuất quan trọng này của Tỉnh.
Về thể chế tổ chức, UBND tỉnh Cà Mau đã có nhiều chính sách và gần
đây nhất là Kế hoạch 53/KH-UBND ngày 16/12/2013 nhằm đẩy mạnh việc thực
hiện đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Bên cạnh các giải
pháp chung, Kế hoạch này đặc biệt nhấn mạnh vai trò của chính quyền địa
phương các cấp và giải pháp tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức cho các
bên liên quan. Trong hơn 10 năm qua, tỉnh Cà Mau đã phát triển thêm được
khoảng 1.000 tổ hợp tác mới với gần 7.000 tổ viên tham gia. Các tổ hợp tác này
chủ yếu thuộc lĩnh vực thủy sản và nông nghiệp. Đã có tới 41% các tổ hợp tác
khi thành lập đã nhờ đến sự chứng thực của chính quyền địa phương (UBND xã)
để minh bạch hóa về quản lí vốn góp của các tổ viên. Về số lượng, các HTX
không cho thấy có sự gia tăng nào đáng kể (hiện Cà Mau vẫn chỉ có khoảng 250
HTX nông nghiệp, tương đương số lượng HTX năm 2008) tuy nhiên về vốn góp
đã tăng hơn 200% so với năm 2002, đạt bình quân 180 tỷ đồng so với 86 tỷ đồng
năm 2002 (UBND tỉnh Cà Mau, 2013).
Về hỗ trợ phát triển CSHT, UBND tỉnh Cà Mau đã chỉ đạo các ngành
chức năng khẩn trương thực hiện quy hoạch đầu tư xây dựng hệ thống giao thông
thủy lợi phục vụ đa mục tiêu ở khu vực rừng tràm U Minh Hạ theo tinh thần
Thông báo số 1299/TB-VP ngày 20/12/2013 của VP UBND tỉnh Cà Mau.
Về phòng chống dịch bệnh, UBND tỉnh đã có công văn số 3248/UBND-
KT ngày 04/07/2014 về việc sử dụng hóa chất phòng chống dịch bệnh trên tôm
nuôi trong đó giao Sở NN&PTNT Cà Mau chủ động bám sát tình hình và triển
khai các biện pháp phòng ngừa sử dụng hóa chất dự trữ.
Tháng 08/2014, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau đã ban hành công văn số
4358/UBND-KT về việc triển khai chính sách tín dụng phát triển thủy sản trên
79
địa bàn tỉnh Cà Mau (theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ
và Thông tư 22/2014/TT-NHNN). Theo đó, các khu vực sản xuất kinh doanh tổ
chức lại được thành các liên kết theo chuỗi sẽ được ưu đãi vay vốn tín dụng hơn
so với các khu vực khác.
Về quy hoạch, cuối năm 2011, UBND tỉnh Cà Mau đã phê duyệt Quy
hoạch phát triển nông nghiệp tỉnh Cà Mau đến năm 2020 trong đó tập trung phát
triển mạnh ngành tôm một cách ổn định, hiệu quả và bền vững. Về sản lượng,
quy hoạch ngành tôm xác định mục tiêu là nhằm đáp ứng được toàn bộ nhu cầu
về tôm nguyên liệu của các nhà máy chế biến trong tỉnh (tương đương 190 ngàn
tấn tôm/năm). Tuy nhiên, quy hoạch diện tích nuôi tôm đến 2015 là khoảng 266
ngàn ha đã có lúc bị vượt qua trong khi quy hoạch bình quân năng suất nuôi tôm
đến 2015 là 0,75 tấn/ha/năm lại còn xa mới đạt được. Như vậy, các giải pháp về
quy hoạch các vùng nuôi tôm tập trung gắn với phát triển CSHT tương ứng và cơ
cấu phương thức nuôi hợp lí cần được tiếp tục đẩy mạnh để hỗ trợ phát triển nuôi
và chế biến tôm ở Cà Mau (Sở NN& PTNT tỉnh Cà Mau, 2011a).
4.1.10. Ảnh hưởng của yếu tố đầu tư công đến phát triển liên kết trong sản
xuất và chế biến tôm
Như đã phân tích, các
hạng mục đầu tư công có tầm
ảnh hưởng lớn đối với kết quả
của hoạt động nuôi tôm cũng
như khả năng kết nối giữa
khu vực nuôi tôm và các
doanh nghiệp chế biến. Khảo
sát thực tế tại Cà Mau với các
cán bộ quản lí và các tổ chức,
hiệp hội đều cho thấy nhu cầu
kết nối của các doanh nghiệp chế biến với các vùng nuôi là rất lớn tuy nhiên các
CSHT chung (nhất là giao thông) vẫn đang cản trở đáng kể các nỗ lực liên kết này
do đặc điểm địa hình khá đặc thù của Cà Mau bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông
ngòi khiến cho nhiều vùng nuôi hiện vẫn rất khó kết nối được trực tiếp với thị
trường, với người mua để có thể giảm bớt chi phí trung gian, tăng lợi nhuận. Số
liệu của Cục Thống kê tỉnh Cà Mau (2013) được trình bày tại bảng 4.13.
“ các doanh nghiệp đơn lẻ khó có khả năng tự
phát triển các CSHT lớn như giao thông, điện
và do vậy khả năng kết nối giữa doanh nghiệp
với các vùng nuôi tôm đang còn bị hạn chế do
điều kiện địa hình đặc thù của Cà Mau” -
Phỏng vấn ông Châu Công B.
Hộp 4.7. CSHT có ảnh hưởng lớn đến phát
triển liên kết
80
Bảng 4.13. Vốn đầu tư của tỉnh Cà Mau giai đoạn 2010-2012
Đơn vị: triệu đồng
2010 2011 2012
Tổng sản phẩm trên địa bàn 24.510.115 28.457.512 31.750.093
Vốn đầu tư XDCB 8.330.508 12.514.900 8.042.868
Vốn đầu tư sửa chữa, nâng cấp 386.056 171.863 309.121
Trong đó:
- Vốn Nhà nước 6.629.485 10.451.109 5.336.901
- Vốn ngoài Nhà nước 4.056.546 4.277.826 3.667.854
Nhìn chung, vốn đầu tư cho các công trình XDCB như vậy còn khá khiêm
tốn, nhất là đối với địa bàn phức tạp như tỉnh Cà Mau với hệ thống kênh rạch dày
đặc và bị ảnh hưởng trực tiếp bởi chế độ thủy triểu gây khó khăn lớn cho việc phát
triển các công trình hạ tầng như giao thông, điện hay kể cả thủy lợi.
4.1.10.1. Giao thông
Giao thông đường thủy là
lợi thế của tỉnh, song, cũng chính
những lợi thế về điều kiện sông
rạch, kênh mương cộng với đặc
thù về mùa mưa có cường độ tập
trung l

File đính kèm:

  • pdfluan_an_lien_ket_trong_san_xuat_va_che_bien_tom_thuong_pham.pdf
  • pdfKTNN - TTLA - Phung Giang Hai.pdf
  • docTTT - Phung Giang Hai.doc
  • pdfTTT - Phung Giang Hai.pdf