Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 1

Trang 1

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 2

Trang 2

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 3

Trang 3

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 4

Trang 4

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 5

Trang 5

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 6

Trang 6

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 7

Trang 7

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 8

Trang 8

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 9

Trang 9

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 191 trang nguyenduy 09/08/2024 420
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam

Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam
ân loại tại nguồn, 
thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý, giám sát từng hoạt động đều phải cần đến 
nguồn tài chính nhất định cho việc đầu tư mua sắm dụng cụ, trang thiết bị .... 
cho đến chi trả nhân công phục vụ tác nghiệp cho từng nội dung hoạt động của 
công việc. Đặc biệt là công đoạn vận chuyển và xử lý tái chế, ở công đoạn này 
đòi hỏi phải đầu tư nguồn tài chính lớn. 
Nếu điều kiện kinh tế của chính quyền đô thị mạnh, thì khả năng chính 
quyền sẽ đầu tư nhiều hơn. Khi đó sẽ lựa chọn được mô hình tối ưu hơn, các thiết 
bị và CN tiến tiến, hiện đại sẽ giúp cho công tác xử lý tối ưu hơn, hiệu quả cả về 
KT và MT. Còn nếu chính quyền đô thị nghèo thì dù chính quyền có nỗ lực, thì 
cũng khó khăn cho công tác lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả. 
Tóm lại, điều kiện kinh tế, tài chính có vai trò quan trọng trong công tác 
quản lý và xử lý CTRSH; Vấn đề này XHH sẽ được giải quyết được nếu có hệ 
thống pháp luật đầy đủ và cơ chế, chính sách hấp dẫn các TPKT. 
2.3.3. Thành phần chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị 
Thành phần CTRSH tại các đô thị rất đa dạng và đặc trưng theo từng loại 
đô thị. Các đặc trưng điển hình của CTR như: thành phần rác hữu cơ dễ phân 
huỷ chiếm khoảng 45 - 70%, thành phần đất cát, vật liệu xây dựng hư hỏng, 
chiếm khoảng 20 - 40%,..; tỷ trọng trung bình từ 300 - 400 kg/m3; độ ẩm của 
CTRSH mỗi vùng có khác nhau, trung bình từ 46% - 70% [13];. 
 81 
Theo dự báo tỉ trọng của CTRSH sẽ giảm từ 400-500kg/m3 hiện nay 
xuống khoảng 250-300kg/m3 vào năm 2020 là do các thành phần CT có tỷ 
trọng lớn như thuỷ tinh, đất, đá, sành sứ, giảm. Mặt khác, việc đun than sẽ 
giảm dần do mức sống ngày càng cao.[7] 
Lượng CTR đô thị và khu công nghiệp ở Việt Nam tăng với nhịp độ 10-
15%/năm trong giai đoạn 1998-2010 và 6-6.5%/năm cho giai đoạn 2011-2020 
[13], xem phụ lục 6, dự báo khối lượng phát sinh CTRSH đô thị [6]. 
Đây là những yếu tố cần xem xét khi lựa chọn công nghệ xử lý, tái chế 
CTRSH cho đô thị. 
2.3.4. Công nghệ và kỹ thuật quản lý CTRSH 
Các giải pháp về công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến lựa chọn mô hình quản 
lý CTR phù hợp với một đô thị cụ thể. Hiện nay công nghệ phổ biến của quản 
lý CTRSH bao gồm: 
a. Giảm thiểu và phân loại tại nguồn, giảm thiểu từ nguồn thải là giải 
pháp hiệu quả nhất trong quản lý nhưng đòi hỏi công nghệ và trình độ quản lý 
cũng như nhận thức của xã hội, vấn đề này chưa được chú trọng; hiện chỉ mới 
thí điểm phân loại tại nguồn một số khu vực ở đô thị lớn. Với quan điểm coi 
CTR là một loại tài nguyên nên mặc dù không còn được sử dụng tại các nguồn 
phát thải nhưng vẫn cần được thu gom triệt để và xử lý có hiệu quả để không 
gây ÔNMT và để tiết kiệm tài nguyên. Do vậy, phân loại CTR tại nguồn được 
coi là CN quan trọng trong công tác quản lý CTRSH, có tính chất quyết định 
đến hiệu quả của toàn bộ quá trình xử lý sau đó. Phân loại CTRSH là nhằm: 
- Tận dụng được tối đa các thành phần có ích còn trong CTRSH đồng 
thời giúp cho việc xử lý CTR đạt hiệu quả cao nhất. Những thành phần trong 
CTRSH có thể tái chế được (như thuỷ tinh, kim loại, giấy - bìa, nhựa) hoàn 
toàn có thể tách riêng khỏi các thành phần hữu cơ. Các thành phần tái chế 
được sẽ được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào để sản xuất các sản phẩm công 
nghiệp hoặc dân dụng. Các chất hữu cơ được sử dụng làm phân vi sinh; thanh, 
viên nhiên liệu. Các thành phần không tái chế được đưa đi chôn lấp hoặc đốt 
 82 
để tạo nhiệt năng. Việc phân loại CTRSH tại nguồn còn góp phần tách các 
thành phần nguy hại để xử lý theo qui trình đặc biệt nhằm hạn chế những ảnh 
hưởng xấu tới các loại CT khác có thể tái sinh, tái chế, hạn chế ÔNMT. 
b. Thu gom, tập kết và vận chuyển, CTRSH sau khi được phân loại sẽ được 
thu gom và vận chuyển đến nơi có điều kiện an toàn vệ sinh để xử lý. Thời gian 
thu gom, vận chuyển được xác định và thực hiện phù hợp với quy mô đô thị. 
Trang thiết bị thu gom, vận chuyển rác (xe đẩy rác, xe vận tải vv..) cần được đầu 
tư xe có mái che đậy kín, tránh tình trạng rơi vãi trong quá trình vận chuyển. 
c. Xử lý (tái chế, tiêu huỷ, chôn lấp), vấn đề tái chế, tái sử dụng, xử lý cần 
được thực hiện bằng CN phù hợp với đặc điểm, tính chất CTRSH đô thị cũng 
như các điều kiện khác. Hiện tại, nhiều nước đã thực hiện bởi nhiều CN hiện 
đại để xử lý CTRSH. Nhật bản là quốc gia có nhiều giải pháp CN hiện đại 
trong tái chế, xử lý CTRSH. Ví dụ, công nghệ chế biến từ thành phần CTRSH 
hữu cơ thành phân compost và thanh, viên nhiên liệu từ đó giảm lượng CTR 
phải chôn lấp xuống tỷ lệ rất thấp[52]. 
Việc áp dụng CN tiên tiến đòi hỏi có những đầu tư cho hoạt động nghiên 
cứu, thí nghiệm và xây dựng một số CN tái chế CTRSH. Để thực hiện được yêu 
cầu này, nhiều quốc gia đã hỗ trợ đổi mới CN, ban hành chính sách đặc biệt nhằm 
hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm tái chế, hỗ trợ về thuế [93]. 
d. Phương pháp quản lý, phương pháp quản lý tốt có vai trò rất quan 
trọng đối với thành công một mô hình quản lý trong bất cứ lĩnh vực, không 
riêng đối với mô hình quản lý CTRSH đô thị. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia 
cho thấy cần sự kết hợp nhiều phương pháp khác nhau trong đó đặc biệt chú 
trọng việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý CTRSH [95]. 
2.3.5. Cơ chế, chính sách và tổ chức quản lý 
a. Cơ chế, chính sách, là những yếu tố tạo điều kiện, khuyến khích, hộ 
trợ, thúc đẩy, cho phép để các tổ chức, các TPKT tham gia thực hiện một chủ 
trương nào. Như vậy, nếu cơ chế chính sách phù hợp, sẽ đẩy nhanh tiến trình 
chuyển đổi mô hình cung cấp dịch vụ công ích từ chủ yếu do nhà nước cung 
 83 
cấp các dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH sang mô hình chủ yếu 
do tư nhân, các TPKT sẽ đảm nhận các công việc thu gom, vận chuyển và xử 
lý CTRSH. Còn nếu cơ chế chính sách không tạo điều kiện, không có lợi thì 
chắc chắn rằng khó có thể thu hút các TPKT ngoài nhà nước tham gia. 
b. Về tổ chức quản lý, tổ chức và quản lý là nhân tố quyết định sự thành 
công và hiệu quả đối với một công việc, một chương trình hành động cụ thể. 
Nếu không có tổ chức, quản lý thì sẽ không có bộ máy làm việc, không có sự 
phân công công việc cụ thể, thiếu bộ máy kiểm soát, thì công việc không thể 
hoàn thành được cũng như không thể đánh giá hiệu quả công việc được. Tổ 
chức quản lý là cả quá trình hoàn thiện bộ máy quản lý đối với từng giai đoạn, 
từng bộ phận của một tổ chức, một mô hình quản lý. Đối với công tác quản lý 
CTRSH cũng vậy, tổ chức quản lý có vai trò quan trọng ảnh hướng đến sự thành 
công của mô hình quản lý CTRSH theo hướng XHH. Nếu tổ chức bộ máy quản 
lý tốt ở từng cấp, phân công trách nhiệm rõ rằng, cũng như có được sự phối hợp 
trong các cơ quan chuyên môn liên quan thì chủ trương lớn của Đảng và Nhà 
nước về XHH cung cấp dịch vụ công ích, trong đó có dịch vụ thu gom, vận 
chuyển và xử lý CTRSH sẽ nhanh hơn, có hiệu quả thiết thực hơn. 
2.3.6. Vai trò của xã hội, các tổ chức, các thành phần kinh tế 
a. Vai trò của xã hội, các tổ chức, có ảnh hướng lớn đến mô hình quản lý 
CTRSH theo hướng XHH, nếu không có sự đồng tình, ủng hộ của xã hội, của 
các tổ chức thì mô hình sẽ không thực hiện được. 
b. Các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế, Doanh nghiệp có vai 
trò quan trọng trong việc thực hiện mô hình quản lý CTRSH. Doanh nghiệp là 
đơn vị đắc lực giúp nhà nước triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách 
vào cuộc sống, là cơ quan đắc lực trong việc xử lý CT, là lực lượng chính 
trong việc VSMT. 
Các thành phần kinh tế, DN có vai trò hướng dẫn, tuyên truyền vận động 
người dân cùng tham gia vào việc thu gom, vận chuyển, xử lý CT sẽ góp phần 
giảm gánh nặng rất lớn cho nhà nước trong việc BVMT. 
 84 
2.4. Xã hội hóa trong lĩnh vực quản lý CTRSH 
2.4.1. Sự cần thiết XHH công tác quản lý CTRSH tại các ĐT Việt Nam 
2.4.1.1. Xã hội hóa quản lý CTRSH dưới góc độ xã hội 
CTRSH được tạo ra trong quá trình hoạt động, sinh hoạt của toàn xã hội. 
Các thành phần trong xã hội đa dạng không chỉ về số lượng và cả về nhu cầu 
sinh hoạt, thói quen tiêu dùng, nhận thức xã hội. Tính phức tạp và đa dạng này 
càng rõ nét hơn ở các đô thị. Hệ quả của tình trạng này chính là khối lượng gia 
tăng CTRSH và sự đa dạng và phức tạp của chúng. Do vậy, đòi hỏi con người 
phải có nhận thức đúng, thái độ rõ ràng và tìm biện pháp giải quyết có hiệu quả 
để hạn chế những tác động tiêu cực của CTRSH đến MT, phát triển KTXH. 
Thiếu quan tâm đầy đủ đến quản lý CTRSH trong quá trình phát triển KTXH thì 
chúng ta sẽ đối mặt với thách thức lớn cho quá trình đó. 
Các hoạt động quản lý CTR đô thị tự thân đã mang tính xã hội cao. Ai 
cũng phải tham gia thu gom rác thải với những phạm vi và mục đích có thể 
khác nhau. Mỗi thành viên trong hộ gia đình đều phải thu gom CT nếu không 
muốn nơi sinh hoạt của mình bừa bộn và bẩn thỉu. Hộ gia đình cũng thu gom 
rác thải nếu không muốn ngôi nhà của mình trở thành bãi rác. Cộng đồng khu 
phố cũng muốn thu gom rác thải để khu phố hay ngõ của mình sạch sẽ. Đây 
chính là nền tàng cũng đồng thời là nhu cầu của XHH quản lý CTRSH. Không 
có sự tham gia của cộng đồng thì không thể quản lý tốt CTRSH khi mà khối 
lượng của chúng ngày một gia tăng và tồn đọng ở mọi lúc, mọi nơi. 
Hiện nay, Nhà nước đang đẩy mạnh phát triển KTXH theo những mục 
tiêu lớn do Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra. Các nguồn lực Nhà nước chủ yếu 
tập trung giải quyết những vấn đề lớn, những đột phá chiến lược của nền kinh 
tế, vì vậy trong nhiều lĩnh vực khác rất cần sự tham gia đóng góp của nhiều 
TPKT khác. XHH hoạt động quản lý CTRSH sẽ góp phần đáp ứng được các 
yêu cầu nói trên. Điều này thể hiện ở những khía cạnh sau: 
- Nguồn nhân lực và vật lực của toàn xã hội được thu hút để phát triển kết 
cấu hạ tầng phục vụ cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH. Điều 
 85 
này giúp giảm bớt gánh nặng cho NSNN khi xử lý CTRSH là một nhiệm vụ 
không thể né tránh của chính quyền các cấp. 
- Khi việc cung ứng dịch vụ hạ tầng cho quản lý CTR được xây dựng hoặc 
hoàn thiện dựa trên các nguồn lực của XHH thì việc xây dựng, khai thác và sử 
dụng chúng sẽ được cộng đồng giám sát, từ đó hạn chế được thất thoát, lãng phí. 
- Tạo được sự năng động trong xã hội vào các hoạt động của công tác quản 
lý CTRSH, tăng cường tính tự lực và chủ động của cộng đồng, DN; tạo sự đồng 
thuận cùng giải quyết các vấn đề về VSMT xảy ra hằng ngày tại địa phương. 
- XHH quản lý CTRSH góp phần tạo cơ hội mới về việc làm, giảm bớt 
thất nghiệp ở địa phương, tạo ra môi trường xanh, sạch, đẹp để người dân đều 
được hưởng lợi, giảm thiểu các nguy cơ bệnh tật do ÔNMT gây ra. 
2.4.1.2. Xã hội hóa quản lý CTRSH dưới góc nền kinh tế thị trường 
Hiện nay, tại hầu hết các đô thị ở Việt nam, đơn vị được giao nhiệm vụ 
quản lý các hoạt động của CTRSH đều do đơn vị dịch vụ công ích của TP đảm 
nhiệm và được chuyển sang dạng hình thực DN do nhà nước chi phối với tên 
gọi Công ty TNHH một thành viên - (URENCO). 
Như vậy, có thể nói là chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường; cần có sự 
tham gia của các thành phần kinh tế khác (ngoài nhà nước). XHH đối với hoạt 
động quản lý CTRSH trong đó sẽ có từng bước để các thành phần kinh tế khác 
tham gia thực hiện các công đoạn từ thu gom, vận chuyển đến tái chế, xử lý 
CTRSH, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cộng đồng, xã hội và các cơ quan 
quản lý nhằm đặt được hiệu quả quản lý đối với CTRSH. 
XHH thu hút sự tham gia của cộng đồng, từng cá nhân, tổ chức và từng DN 
tư nhân, để từng bước hướng tới những nhà đầu tư chuyên nghiệp, có năng lực 
và nguồn lực tài chính để xử lý các vấn đề mà khu vực kinh tế nhà nước đang 
gặp khó khăn. Việc qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về những ưu đãi 
cho đối tác chiến lược khi CPH cũng thể hiện xu hướng nói trên. 
 86 
2.4.2. Chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công trong quản lý nhà 
nước và quản lý đô thị ở Việt Nam 
Trước những thách thức MT lớn đặt ra hiện nay, loài người buộc phải xác 
định rõ quan điểm BVMT phù hợp, giải quyết tốt nhất mâu thuẫn nội tại vốn 
có giữa BVMT và phát triển KT, XH. Đó chính là quan điểm PTBV. Tại Hội 
nghị thượng đỉnh trái đất lần thứ hai họp tại Rio Dejaneiro năm 1992, quan 
điểm PTBV đã chính thức được công bố: PTBV được hiểu là cách phát triển 
thoả mãn nhu cầu của các thế hệ hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến khả 
năng thoả mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau. Phát triển KT, XH là con 
đường đi lên tất yếu của mỗi quốc gia; PTBV là một tiến trình phát triển đồng 
thời của ba yếu tố: KT, XH và MT. Mọi hoạt động phát triển KT, XH đều phải 
được tiến hành trên cơ sở duy trì và cải thiện MT. Vì mục tiêu PTBV, tất cả 
các quốc gia đều có trách nhiệm đảm bảo sự phát triển của mình là lâu bền và 
không gây tổn hại cho các quốc gia khác [14]. 
 Chung quan điểm đó, Việt Nam đã và đang nỗ lực tiến hành các hoạt 
động phát triển theo hướng PTBV. “BVMT là vấn đề sống còn của nhân loại; 
là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần 
quan trọng vào việc phát triển KTXH, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và 
thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta” [1]. Quan điểm này đã được 
xác định rõ trong Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41/2004/ NQ/TW về BVMT 
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 
Theo quan điểm này, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá 
nhân trong xã hội được khai thác, sử dụng các yếu tố của MT vào các mục đích 
khác nhau, song các chủ thể này cũng phải thực hiện nghĩa vụ duy trì và cải thiện 
chất lượng MT cho thế hệ mai sau. Hoạt động BVMT được đặt ngang tầm với hoạt 
động phát triển KTXH. Như vậy, Nhà nước không cấm các tổ chức, cá nhân làm 
phát sinh CTR trong các hoạt động, nhưng họ phải thực hiện giảm thiểu và áp dụng 
các biện pháp xử lý phù hợp để đảm bảo chất lượng MT sống cho thế hệ mai sau. 
 87 
Để đảm bảo phát triển bền vững, hệ thống văn bản quản lý CTRSH ở 
Việt Nam cần được xây dựng và hoàn thiện đáp ứng các yêu cầu sau: 
 a. Đảm bảo đồng thời lợi ích của chủ nguồn thải, chủ thu gom hay xử lý 
CT và lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Để thực hiện được yêu cầu đó, việc 
xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế 
trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Các quy định về phí VSMT, đơn giá 
định mức đối với các hoạt động quản lý CTRSH cần được điều chỉnh phù hợp 
hơn; các quy định về phí BVMT; về thuế MT cần được xây dựng kịp thời để 
khuyến khích các chủ nguồn thải thay đổi hành vi theo hướng có lợi cho MT, 
đảm bảo lợi ích kinh tế của họ, lợi ích chung của cả cộng đồng. 
b. Đảm bảo các hoạt động sản xuất được thực hiện trên cơ sở kết hợp hài 
hoà giữa BVMT với phát triển KTXH và đề cao sự phòng ngừa ô nhiễm môi 
trường. Xây dựng các quy định pháp luật về sản xuất sạch hơn nhằm giảm 
thiểu CT sẽ là giải pháp tối ưu trong điều kiện hiện nay của nước ta. 
c. Cần nhanh chóng ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ 
cho các DN không phải là DN công ích trong công tác thu gom, vận chuyển và 
tái chế xử lý CTR. Như cơ chế chính sách về tiếp cận sử dụng đất, các nguồn 
vốn ban đầu, chính sách cho người lao động như đối với các DN công ích. 
Những năm qua, cùng với sự phát triển KTXH, các ngành sản xuất kinh 
doanh, dịch vụ ở các đô thị, khu công nghiệp được mở rộng và phát triển nhanh. 
Sự phát triển các khu công nghiệp và ĐTH, một mặt đóng góp tích cực cho sự 
phát triển của đất nước, mặt khác tạo ra một lượng CTRSH. Việc quản lý CTRSH 
đã được Nhà nước chú trọng với nhiều giải pháp khác nhau trong đó có chủ 
trương XHH quản lý CTRSH. 
2.4.3. Nội dung của xã hội hóa quản lý chất thải rắn 
2.4.3.1. Nền tảng pháp lý của xã hội hóa quản lý CTRSH 
Nội dung cơ bản của xã hội hoá được thể hiện trong các yêu cầu của 
nguyên tắc "Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra" [56], đó là cơ sở quan 
trọng cho việc thực hiện XHH công tác quản lý CTR. 
 88 
Yếu tố "Dân biết" đòi hỏi các cơ quan QLNN tôn trọng và tạo điều kiện 
để người dân quyền được biết, tiếp cận thông tin trong lĩnh vực MT. Dân cần 
biết về các chủ trương, chính sách, qui định của nhà nước về BVMT, quản lý 
CT để thấy được quyền lợi và trách nhiệm của mình. Đặc biệt, người dân cần 
được cung cấp những thông tin về tình hình ÔNMT nơi mình đang sinh sống 
cũng như tình hình MT chung. Thông tin MT về quản lý CTRSH trên địa bàn 
nơi người dân sinh sống chính là cơ sở quan trọng tạo ra nhận thức đúng đắn 
của người dân về nguy cơ trực tiếp đối với quyền sống trong MT trong lành. 
Yếu tố "Dân bàn" thể hiện rõ quyền của người dân trong tham gia QLNN, 
quản lý xã hội và quản lý CTRSH nói riêng. Dân bàn không chỉ tạo điều kiện 
cho dân phát biểu, thể hiện quan điểm, phản ánh lợi ích và nguyện vọng của 
mình mà còn quyền của người dân được tham gia quyết định các vấn đề có 
liên quan đến lợi ích của mình. Người dân sống trong địa giới hành chính nhất 
định và cơ quan quản lý trực tiếp là UBND các cấp. Đối với việc quản lý 
CTRSH thì cơ quan quản lý trực tiếp là UBND phường, xã và các cơ quan có 
chức năng BVMT. Các cơ quan này phải tạo điều kiện để người dân tham gia 
vào việc quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý CTRSH sau [84]: 
- Qui hoạch khu chôn lấp CTRSH và xây dựng trạm trung chuyển, các 
điểm xử lý hoặc tái chế CTRSH; 
- Ban hành các qui định của chính quyền địa phương về thu gom, vận 
chuyển và xử lý CTRSH; 
- Các dự án đầu tư có làm gia tăng CT, ảnh hưởng đến đời sống của người 
dân trong khu vực như bệnh viện, chợ, trung tâm thương mại, du lịch v.v.. 
- Việc thành lập các thiết chế giám sát của cộng đồng đối với việc thực 
hiện các công trình, dự án HTKT liên quan đến quản lý chất thải; 
- Việc phân bổ ngân sách và các nguồn tài trợ mà Nhà nước hoặc các tổ 
chức xã hội hỗ trợ để đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng các công trình 
phục vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH nói riêng. 
 89 
"Dân làm" hướng tới hành động chủ động của người dân trong việc thực 
hiện các chủ trương, các dự án mà mình đã tham gia quyết định. Việc người dân 
tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách,  và các dự án cụ thể có ý nghĩa 
quyết định sự thành công của BVMT. Khi nhận thức được đầy đủ các vấn đề về 
quản lý CTRSH, người dân sẽ chủ động thực hiện từ việc giảm thiểu, phân loại 
CT tại nguồn, thu gom, . đến những việc đầu tư, thành lập DN, các tổ chức để 
quản lý CTRSH tại địa phương hoặc đầu tư sang các địa phương khác. 
- Người dân, cộng đồng và các DN ngoài NN đều có thể tham gia hoạt 
động thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế CTRSH. 
Yếu tố "Dân kiểm tra" bao hàm sự giám sát của dân đối với việc quản lý 
CTR theo các qui định pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng 
như các các qui định của chính quyền địa phương. Những phương thức giám 
sát của người dân đối với quản lý CTRSH bao gồm: 
- Triển khai các hoạt động thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện các 
chương trình, kế hoạch, dự án về quản lý CTRSH; 
- Thực hiện các khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm các qui định pháp 
luật và qui ước về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; 
- Kiến nghị chính quyền địa phương minh bạch hóa việc sử dụng và quản 
lý vốn đầu tư, phí vệ sinh và các loại phí khác có liên quan.; 
- Nền tảng pháp lý khác quan trọng là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư để 
đảm bảo sự hỗ trợ của NN và sự công bằng, bình đẳng trong hoạt động quản lý 
và xử lý tái chế CTR. 
2.4.3.2. Nội dung của xã hội hóa CTRSH trong pháp luật hiện hành 
Xã hội hóa công tác BVMT nói chung và quản lý CTR nói riêng là chủ 
trương lớn với mục tiêu là thu hút các cộng đồng và đông đảo người dân tham 
gia vào hoạt động quản lý CTR. Với mục tiêu như vậy và với những phức tạp 
của quản lý CTRSH như nêu ở chương I, và II này, có thể khẳng định nội dung 
của XHH quản lý CTRSH bao gồm nhiều yêu cầu và hoạt động cụ thể. Trong 
các qui định của pháp luật hiện hành (Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp,  
 90 
nhiều văn bản pháp lý liên quan để thu hút các nguồn lực), XHH quản lý 
CTRSH bao gồm những nội dung chủ yếu sau: 
a. Xã hội hóa chủ thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt 
- Các chủ t

File đính kèm:

  • pdfluan_an_mo_hinh_va_giai_phap_quan_ly_chat_thai_ran_sinh_hoat.pdf