Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Mô hình và giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng xã hội hoá cho một số đô thị Bắc Trung Bộ Việt Nam
ân loại tại nguồn, thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý, giám sát từng hoạt động đều phải cần đến nguồn tài chính nhất định cho việc đầu tư mua sắm dụng cụ, trang thiết bị .... cho đến chi trả nhân công phục vụ tác nghiệp cho từng nội dung hoạt động của công việc. Đặc biệt là công đoạn vận chuyển và xử lý tái chế, ở công đoạn này đòi hỏi phải đầu tư nguồn tài chính lớn. Nếu điều kiện kinh tế của chính quyền đô thị mạnh, thì khả năng chính quyền sẽ đầu tư nhiều hơn. Khi đó sẽ lựa chọn được mô hình tối ưu hơn, các thiết bị và CN tiến tiến, hiện đại sẽ giúp cho công tác xử lý tối ưu hơn, hiệu quả cả về KT và MT. Còn nếu chính quyền đô thị nghèo thì dù chính quyền có nỗ lực, thì cũng khó khăn cho công tác lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả. Tóm lại, điều kiện kinh tế, tài chính có vai trò quan trọng trong công tác quản lý và xử lý CTRSH; Vấn đề này XHH sẽ được giải quyết được nếu có hệ thống pháp luật đầy đủ và cơ chế, chính sách hấp dẫn các TPKT. 2.3.3. Thành phần chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị Thành phần CTRSH tại các đô thị rất đa dạng và đặc trưng theo từng loại đô thị. Các đặc trưng điển hình của CTR như: thành phần rác hữu cơ dễ phân huỷ chiếm khoảng 45 - 70%, thành phần đất cát, vật liệu xây dựng hư hỏng, chiếm khoảng 20 - 40%,..; tỷ trọng trung bình từ 300 - 400 kg/m3; độ ẩm của CTRSH mỗi vùng có khác nhau, trung bình từ 46% - 70% [13];. 81 Theo dự báo tỉ trọng của CTRSH sẽ giảm từ 400-500kg/m3 hiện nay xuống khoảng 250-300kg/m3 vào năm 2020 là do các thành phần CT có tỷ trọng lớn như thuỷ tinh, đất, đá, sành sứ, giảm. Mặt khác, việc đun than sẽ giảm dần do mức sống ngày càng cao.[7] Lượng CTR đô thị và khu công nghiệp ở Việt Nam tăng với nhịp độ 10- 15%/năm trong giai đoạn 1998-2010 và 6-6.5%/năm cho giai đoạn 2011-2020 [13], xem phụ lục 6, dự báo khối lượng phát sinh CTRSH đô thị [6]. Đây là những yếu tố cần xem xét khi lựa chọn công nghệ xử lý, tái chế CTRSH cho đô thị. 2.3.4. Công nghệ và kỹ thuật quản lý CTRSH Các giải pháp về công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến lựa chọn mô hình quản lý CTR phù hợp với một đô thị cụ thể. Hiện nay công nghệ phổ biến của quản lý CTRSH bao gồm: a. Giảm thiểu và phân loại tại nguồn, giảm thiểu từ nguồn thải là giải pháp hiệu quả nhất trong quản lý nhưng đòi hỏi công nghệ và trình độ quản lý cũng như nhận thức của xã hội, vấn đề này chưa được chú trọng; hiện chỉ mới thí điểm phân loại tại nguồn một số khu vực ở đô thị lớn. Với quan điểm coi CTR là một loại tài nguyên nên mặc dù không còn được sử dụng tại các nguồn phát thải nhưng vẫn cần được thu gom triệt để và xử lý có hiệu quả để không gây ÔNMT và để tiết kiệm tài nguyên. Do vậy, phân loại CTR tại nguồn được coi là CN quan trọng trong công tác quản lý CTRSH, có tính chất quyết định đến hiệu quả của toàn bộ quá trình xử lý sau đó. Phân loại CTRSH là nhằm: - Tận dụng được tối đa các thành phần có ích còn trong CTRSH đồng thời giúp cho việc xử lý CTR đạt hiệu quả cao nhất. Những thành phần trong CTRSH có thể tái chế được (như thuỷ tinh, kim loại, giấy - bìa, nhựa) hoàn toàn có thể tách riêng khỏi các thành phần hữu cơ. Các thành phần tái chế được sẽ được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào để sản xuất các sản phẩm công nghiệp hoặc dân dụng. Các chất hữu cơ được sử dụng làm phân vi sinh; thanh, viên nhiên liệu. Các thành phần không tái chế được đưa đi chôn lấp hoặc đốt 82 để tạo nhiệt năng. Việc phân loại CTRSH tại nguồn còn góp phần tách các thành phần nguy hại để xử lý theo qui trình đặc biệt nhằm hạn chế những ảnh hưởng xấu tới các loại CT khác có thể tái sinh, tái chế, hạn chế ÔNMT. b. Thu gom, tập kết và vận chuyển, CTRSH sau khi được phân loại sẽ được thu gom và vận chuyển đến nơi có điều kiện an toàn vệ sinh để xử lý. Thời gian thu gom, vận chuyển được xác định và thực hiện phù hợp với quy mô đô thị. Trang thiết bị thu gom, vận chuyển rác (xe đẩy rác, xe vận tải vv..) cần được đầu tư xe có mái che đậy kín, tránh tình trạng rơi vãi trong quá trình vận chuyển. c. Xử lý (tái chế, tiêu huỷ, chôn lấp), vấn đề tái chế, tái sử dụng, xử lý cần được thực hiện bằng CN phù hợp với đặc điểm, tính chất CTRSH đô thị cũng như các điều kiện khác. Hiện tại, nhiều nước đã thực hiện bởi nhiều CN hiện đại để xử lý CTRSH. Nhật bản là quốc gia có nhiều giải pháp CN hiện đại trong tái chế, xử lý CTRSH. Ví dụ, công nghệ chế biến từ thành phần CTRSH hữu cơ thành phân compost và thanh, viên nhiên liệu từ đó giảm lượng CTR phải chôn lấp xuống tỷ lệ rất thấp[52]. Việc áp dụng CN tiên tiến đòi hỏi có những đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, thí nghiệm và xây dựng một số CN tái chế CTRSH. Để thực hiện được yêu cầu này, nhiều quốc gia đã hỗ trợ đổi mới CN, ban hành chính sách đặc biệt nhằm hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm tái chế, hỗ trợ về thuế [93]. d. Phương pháp quản lý, phương pháp quản lý tốt có vai trò rất quan trọng đối với thành công một mô hình quản lý trong bất cứ lĩnh vực, không riêng đối với mô hình quản lý CTRSH đô thị. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy cần sự kết hợp nhiều phương pháp khác nhau trong đó đặc biệt chú trọng việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý CTRSH [95]. 2.3.5. Cơ chế, chính sách và tổ chức quản lý a. Cơ chế, chính sách, là những yếu tố tạo điều kiện, khuyến khích, hộ trợ, thúc đẩy, cho phép để các tổ chức, các TPKT tham gia thực hiện một chủ trương nào. Như vậy, nếu cơ chế chính sách phù hợp, sẽ đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi mô hình cung cấp dịch vụ công ích từ chủ yếu do nhà nước cung 83 cấp các dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH sang mô hình chủ yếu do tư nhân, các TPKT sẽ đảm nhận các công việc thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH. Còn nếu cơ chế chính sách không tạo điều kiện, không có lợi thì chắc chắn rằng khó có thể thu hút các TPKT ngoài nhà nước tham gia. b. Về tổ chức quản lý, tổ chức và quản lý là nhân tố quyết định sự thành công và hiệu quả đối với một công việc, một chương trình hành động cụ thể. Nếu không có tổ chức, quản lý thì sẽ không có bộ máy làm việc, không có sự phân công công việc cụ thể, thiếu bộ máy kiểm soát, thì công việc không thể hoàn thành được cũng như không thể đánh giá hiệu quả công việc được. Tổ chức quản lý là cả quá trình hoàn thiện bộ máy quản lý đối với từng giai đoạn, từng bộ phận của một tổ chức, một mô hình quản lý. Đối với công tác quản lý CTRSH cũng vậy, tổ chức quản lý có vai trò quan trọng ảnh hướng đến sự thành công của mô hình quản lý CTRSH theo hướng XHH. Nếu tổ chức bộ máy quản lý tốt ở từng cấp, phân công trách nhiệm rõ rằng, cũng như có được sự phối hợp trong các cơ quan chuyên môn liên quan thì chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về XHH cung cấp dịch vụ công ích, trong đó có dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH sẽ nhanh hơn, có hiệu quả thiết thực hơn. 2.3.6. Vai trò của xã hội, các tổ chức, các thành phần kinh tế a. Vai trò của xã hội, các tổ chức, có ảnh hướng lớn đến mô hình quản lý CTRSH theo hướng XHH, nếu không có sự đồng tình, ủng hộ của xã hội, của các tổ chức thì mô hình sẽ không thực hiện được. b. Các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế, Doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mô hình quản lý CTRSH. Doanh nghiệp là đơn vị đắc lực giúp nhà nước triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách vào cuộc sống, là cơ quan đắc lực trong việc xử lý CT, là lực lượng chính trong việc VSMT. Các thành phần kinh tế, DN có vai trò hướng dẫn, tuyên truyền vận động người dân cùng tham gia vào việc thu gom, vận chuyển, xử lý CT sẽ góp phần giảm gánh nặng rất lớn cho nhà nước trong việc BVMT. 84 2.4. Xã hội hóa trong lĩnh vực quản lý CTRSH 2.4.1. Sự cần thiết XHH công tác quản lý CTRSH tại các ĐT Việt Nam 2.4.1.1. Xã hội hóa quản lý CTRSH dưới góc độ xã hội CTRSH được tạo ra trong quá trình hoạt động, sinh hoạt của toàn xã hội. Các thành phần trong xã hội đa dạng không chỉ về số lượng và cả về nhu cầu sinh hoạt, thói quen tiêu dùng, nhận thức xã hội. Tính phức tạp và đa dạng này càng rõ nét hơn ở các đô thị. Hệ quả của tình trạng này chính là khối lượng gia tăng CTRSH và sự đa dạng và phức tạp của chúng. Do vậy, đòi hỏi con người phải có nhận thức đúng, thái độ rõ ràng và tìm biện pháp giải quyết có hiệu quả để hạn chế những tác động tiêu cực của CTRSH đến MT, phát triển KTXH. Thiếu quan tâm đầy đủ đến quản lý CTRSH trong quá trình phát triển KTXH thì chúng ta sẽ đối mặt với thách thức lớn cho quá trình đó. Các hoạt động quản lý CTR đô thị tự thân đã mang tính xã hội cao. Ai cũng phải tham gia thu gom rác thải với những phạm vi và mục đích có thể khác nhau. Mỗi thành viên trong hộ gia đình đều phải thu gom CT nếu không muốn nơi sinh hoạt của mình bừa bộn và bẩn thỉu. Hộ gia đình cũng thu gom rác thải nếu không muốn ngôi nhà của mình trở thành bãi rác. Cộng đồng khu phố cũng muốn thu gom rác thải để khu phố hay ngõ của mình sạch sẽ. Đây chính là nền tàng cũng đồng thời là nhu cầu của XHH quản lý CTRSH. Không có sự tham gia của cộng đồng thì không thể quản lý tốt CTRSH khi mà khối lượng của chúng ngày một gia tăng và tồn đọng ở mọi lúc, mọi nơi. Hiện nay, Nhà nước đang đẩy mạnh phát triển KTXH theo những mục tiêu lớn do Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra. Các nguồn lực Nhà nước chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề lớn, những đột phá chiến lược của nền kinh tế, vì vậy trong nhiều lĩnh vực khác rất cần sự tham gia đóng góp của nhiều TPKT khác. XHH hoạt động quản lý CTRSH sẽ góp phần đáp ứng được các yêu cầu nói trên. Điều này thể hiện ở những khía cạnh sau: - Nguồn nhân lực và vật lực của toàn xã hội được thu hút để phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH. Điều 85 này giúp giảm bớt gánh nặng cho NSNN khi xử lý CTRSH là một nhiệm vụ không thể né tránh của chính quyền các cấp. - Khi việc cung ứng dịch vụ hạ tầng cho quản lý CTR được xây dựng hoặc hoàn thiện dựa trên các nguồn lực của XHH thì việc xây dựng, khai thác và sử dụng chúng sẽ được cộng đồng giám sát, từ đó hạn chế được thất thoát, lãng phí. - Tạo được sự năng động trong xã hội vào các hoạt động của công tác quản lý CTRSH, tăng cường tính tự lực và chủ động của cộng đồng, DN; tạo sự đồng thuận cùng giải quyết các vấn đề về VSMT xảy ra hằng ngày tại địa phương. - XHH quản lý CTRSH góp phần tạo cơ hội mới về việc làm, giảm bớt thất nghiệp ở địa phương, tạo ra môi trường xanh, sạch, đẹp để người dân đều được hưởng lợi, giảm thiểu các nguy cơ bệnh tật do ÔNMT gây ra. 2.4.1.2. Xã hội hóa quản lý CTRSH dưới góc nền kinh tế thị trường Hiện nay, tại hầu hết các đô thị ở Việt nam, đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý các hoạt động của CTRSH đều do đơn vị dịch vụ công ích của TP đảm nhiệm và được chuyển sang dạng hình thực DN do nhà nước chi phối với tên gọi Công ty TNHH một thành viên - (URENCO). Như vậy, có thể nói là chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường; cần có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác (ngoài nhà nước). XHH đối với hoạt động quản lý CTRSH trong đó sẽ có từng bước để các thành phần kinh tế khác tham gia thực hiện các công đoạn từ thu gom, vận chuyển đến tái chế, xử lý CTRSH, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cộng đồng, xã hội và các cơ quan quản lý nhằm đặt được hiệu quả quản lý đối với CTRSH. XHH thu hút sự tham gia của cộng đồng, từng cá nhân, tổ chức và từng DN tư nhân, để từng bước hướng tới những nhà đầu tư chuyên nghiệp, có năng lực và nguồn lực tài chính để xử lý các vấn đề mà khu vực kinh tế nhà nước đang gặp khó khăn. Việc qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về những ưu đãi cho đối tác chiến lược khi CPH cũng thể hiện xu hướng nói trên. 86 2.4.2. Chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công trong quản lý nhà nước và quản lý đô thị ở Việt Nam Trước những thách thức MT lớn đặt ra hiện nay, loài người buộc phải xác định rõ quan điểm BVMT phù hợp, giải quyết tốt nhất mâu thuẫn nội tại vốn có giữa BVMT và phát triển KT, XH. Đó chính là quan điểm PTBV. Tại Hội nghị thượng đỉnh trái đất lần thứ hai họp tại Rio Dejaneiro năm 1992, quan điểm PTBV đã chính thức được công bố: PTBV được hiểu là cách phát triển thoả mãn nhu cầu của các thế hệ hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến khả năng thoả mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau. Phát triển KT, XH là con đường đi lên tất yếu của mỗi quốc gia; PTBV là một tiến trình phát triển đồng thời của ba yếu tố: KT, XH và MT. Mọi hoạt động phát triển KT, XH đều phải được tiến hành trên cơ sở duy trì và cải thiện MT. Vì mục tiêu PTBV, tất cả các quốc gia đều có trách nhiệm đảm bảo sự phát triển của mình là lâu bền và không gây tổn hại cho các quốc gia khác [14]. Chung quan điểm đó, Việt Nam đã và đang nỗ lực tiến hành các hoạt động phát triển theo hướng PTBV. “BVMT là vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển KTXH, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta” [1]. Quan điểm này đã được xác định rõ trong Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41/2004/ NQ/TW về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Theo quan điểm này, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội được khai thác, sử dụng các yếu tố của MT vào các mục đích khác nhau, song các chủ thể này cũng phải thực hiện nghĩa vụ duy trì và cải thiện chất lượng MT cho thế hệ mai sau. Hoạt động BVMT được đặt ngang tầm với hoạt động phát triển KTXH. Như vậy, Nhà nước không cấm các tổ chức, cá nhân làm phát sinh CTR trong các hoạt động, nhưng họ phải thực hiện giảm thiểu và áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp để đảm bảo chất lượng MT sống cho thế hệ mai sau. 87 Để đảm bảo phát triển bền vững, hệ thống văn bản quản lý CTRSH ở Việt Nam cần được xây dựng và hoàn thiện đáp ứng các yêu cầu sau: a. Đảm bảo đồng thời lợi ích của chủ nguồn thải, chủ thu gom hay xử lý CT và lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Để thực hiện được yêu cầu đó, việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Các quy định về phí VSMT, đơn giá định mức đối với các hoạt động quản lý CTRSH cần được điều chỉnh phù hợp hơn; các quy định về phí BVMT; về thuế MT cần được xây dựng kịp thời để khuyến khích các chủ nguồn thải thay đổi hành vi theo hướng có lợi cho MT, đảm bảo lợi ích kinh tế của họ, lợi ích chung của cả cộng đồng. b. Đảm bảo các hoạt động sản xuất được thực hiện trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa BVMT với phát triển KTXH và đề cao sự phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Xây dựng các quy định pháp luật về sản xuất sạch hơn nhằm giảm thiểu CT sẽ là giải pháp tối ưu trong điều kiện hiện nay của nước ta. c. Cần nhanh chóng ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ cho các DN không phải là DN công ích trong công tác thu gom, vận chuyển và tái chế xử lý CTR. Như cơ chế chính sách về tiếp cận sử dụng đất, các nguồn vốn ban đầu, chính sách cho người lao động như đối với các DN công ích. Những năm qua, cùng với sự phát triển KTXH, các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở các đô thị, khu công nghiệp được mở rộng và phát triển nhanh. Sự phát triển các khu công nghiệp và ĐTH, một mặt đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước, mặt khác tạo ra một lượng CTRSH. Việc quản lý CTRSH đã được Nhà nước chú trọng với nhiều giải pháp khác nhau trong đó có chủ trương XHH quản lý CTRSH. 2.4.3. Nội dung của xã hội hóa quản lý chất thải rắn 2.4.3.1. Nền tảng pháp lý của xã hội hóa quản lý CTRSH Nội dung cơ bản của xã hội hoá được thể hiện trong các yêu cầu của nguyên tắc "Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra" [56], đó là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện XHH công tác quản lý CTR. 88 Yếu tố "Dân biết" đòi hỏi các cơ quan QLNN tôn trọng và tạo điều kiện để người dân quyền được biết, tiếp cận thông tin trong lĩnh vực MT. Dân cần biết về các chủ trương, chính sách, qui định của nhà nước về BVMT, quản lý CT để thấy được quyền lợi và trách nhiệm của mình. Đặc biệt, người dân cần được cung cấp những thông tin về tình hình ÔNMT nơi mình đang sinh sống cũng như tình hình MT chung. Thông tin MT về quản lý CTRSH trên địa bàn nơi người dân sinh sống chính là cơ sở quan trọng tạo ra nhận thức đúng đắn của người dân về nguy cơ trực tiếp đối với quyền sống trong MT trong lành. Yếu tố "Dân bàn" thể hiện rõ quyền của người dân trong tham gia QLNN, quản lý xã hội và quản lý CTRSH nói riêng. Dân bàn không chỉ tạo điều kiện cho dân phát biểu, thể hiện quan điểm, phản ánh lợi ích và nguyện vọng của mình mà còn quyền của người dân được tham gia quyết định các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình. Người dân sống trong địa giới hành chính nhất định và cơ quan quản lý trực tiếp là UBND các cấp. Đối với việc quản lý CTRSH thì cơ quan quản lý trực tiếp là UBND phường, xã và các cơ quan có chức năng BVMT. Các cơ quan này phải tạo điều kiện để người dân tham gia vào việc quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý CTRSH sau [84]: - Qui hoạch khu chôn lấp CTRSH và xây dựng trạm trung chuyển, các điểm xử lý hoặc tái chế CTRSH; - Ban hành các qui định của chính quyền địa phương về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; - Các dự án đầu tư có làm gia tăng CT, ảnh hưởng đến đời sống của người dân trong khu vực như bệnh viện, chợ, trung tâm thương mại, du lịch v.v.. - Việc thành lập các thiết chế giám sát của cộng đồng đối với việc thực hiện các công trình, dự án HTKT liên quan đến quản lý chất thải; - Việc phân bổ ngân sách và các nguồn tài trợ mà Nhà nước hoặc các tổ chức xã hội hỗ trợ để đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng các công trình phục vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH nói riêng. 89 "Dân làm" hướng tới hành động chủ động của người dân trong việc thực hiện các chủ trương, các dự án mà mình đã tham gia quyết định. Việc người dân tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách, và các dự án cụ thể có ý nghĩa quyết định sự thành công của BVMT. Khi nhận thức được đầy đủ các vấn đề về quản lý CTRSH, người dân sẽ chủ động thực hiện từ việc giảm thiểu, phân loại CT tại nguồn, thu gom, . đến những việc đầu tư, thành lập DN, các tổ chức để quản lý CTRSH tại địa phương hoặc đầu tư sang các địa phương khác. - Người dân, cộng đồng và các DN ngoài NN đều có thể tham gia hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế CTRSH. Yếu tố "Dân kiểm tra" bao hàm sự giám sát của dân đối với việc quản lý CTR theo các qui định pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như các các qui định của chính quyền địa phương. Những phương thức giám sát của người dân đối với quản lý CTRSH bao gồm: - Triển khai các hoạt động thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, dự án về quản lý CTRSH; - Thực hiện các khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm các qui định pháp luật và qui ước về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; - Kiến nghị chính quyền địa phương minh bạch hóa việc sử dụng và quản lý vốn đầu tư, phí vệ sinh và các loại phí khác có liên quan.; - Nền tảng pháp lý khác quan trọng là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư để đảm bảo sự hỗ trợ của NN và sự công bằng, bình đẳng trong hoạt động quản lý và xử lý tái chế CTR. 2.4.3.2. Nội dung của xã hội hóa CTRSH trong pháp luật hiện hành Xã hội hóa công tác BVMT nói chung và quản lý CTR nói riêng là chủ trương lớn với mục tiêu là thu hút các cộng đồng và đông đảo người dân tham gia vào hoạt động quản lý CTR. Với mục tiêu như vậy và với những phức tạp của quản lý CTRSH như nêu ở chương I, và II này, có thể khẳng định nội dung của XHH quản lý CTRSH bao gồm nhiều yêu cầu và hoạt động cụ thể. Trong các qui định của pháp luật hiện hành (Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, 90 nhiều văn bản pháp lý liên quan để thu hút các nguồn lực), XHH quản lý CTRSH bao gồm những nội dung chủ yếu sau: a. Xã hội hóa chủ thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt - Các chủ t
File đính kèm:
- luan_an_mo_hinh_va_giai_phap_quan_ly_chat_thai_ran_sinh_hoat.pdf