Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 1

Trang 1

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 2

Trang 2

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 3

Trang 3

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 4

Trang 4

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 5

Trang 5

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 6

Trang 6

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 7

Trang 7

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 8

Trang 8

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 9

Trang 9

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 163 trang nguyenduy 12/10/2025 80
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn

Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn
i trường nước ngọt (6 con, 3 vịt trống và 3 
vịt mái) và nước mặn (6 con, 3 vịt trống và 3 vịt mái). Chiều dài và chiều rộng 
tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước mặn (VB15 NM) là 
16,8 mm và 3,9 mm, cao hơn các kích thước tương ứng của vịt Biển 15 - Đại 
66 
Xuyên nuôi trong nước ngọt (VB15NN) (15,10 mm và 3,4 mm). Tuy vậy, những 
sai khác này không có ý nghĩa thống kê 
Bảng 4.5. Kích thước và khối lượng tuyến muối của Vịt Biển 15 - Đại Xuyên 
nuôi trong nước ngọt và nước mặn 
Chỉ tiêu 
Nuôi trong nước ngọt 
( n = 6 ) 
Nuôi trong nước mặn 
( n = 6) 
Mean ± SD Mean ± SD 
Chiều dài tuyến (mm) 15,10 ± 0,82 16,80 ± 0,63 
Chiều rộng tuyến (mm) 3,40 ± 0,55 3,90 ± 0,7 
Khối lượng tuyến (mg) 3,20b ± 0,53 4,40a ± 0,3 
Ghi chú: các giá trị mang chữ cái khác nhau trong cùng hàng chỉ sai khác có ý nghĩa (P < 0,05) 
 Khối lượng tuyến muối của nhóm nuôi trong môi trường nước mặn đạt 
4,40 mg cao hơn của nhóm được nuôi trong môi trường nước ngọt (đạt 3,2 mg). 
Sai khác này có ý nghĩa với P < 0,05. Có thể kết luận môi trường nước mặn có xu 
hướng làm tăng kích thước tuyến muối và đặc biệt có ảnh hưởng rõ đến khối 
lượng của tuyến này (hình 4.5). 
Hình 4.5. Kích thước và khối lượng tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên 
nuôi trong nước ngọt (VB15NN) và trong nước mặn (VB15NM) 
4.1.2.5. Cấu trúc vi thể tuyến muối vịt Biển 15 - Đại Xuyên 
Quan sát cấu trúc vi thể tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên ở tuần tuổi 22 
cho thấy những đặc điểm điển hình của một tuyến ngoại tiết. Tuyến được bao xung 
quanh bằng mô liên kết, lớp này gắn tuyến với lõm xương thuộc xương trán. 
67 
Hình 4.5a. Tuyến muối VB15 cắt ngang. 
Lớp ngoài cùng là mô liên kết (a) nối tiếp 
với các vách ngăn (b) giữa các phân thùy 
của tuyến (c); mỗi phân thùy tuyến có ống 
dẫn ở giữa (d) đổ ra ống chính (e). Giữa 
các tuyến có mạch máu (f) (HE X40) 
Hình 4.5b. Một phân thùy của tuyến 
muối VB15: ở giữa có một ống dẫn 
chất tiết (mũi tên chỉ) (HE X100) 
Hình 4.5c. Bao ngoài tuyến muối gồm mô 
liên kết ngoài cùng (a) và lớp cơ trơn vòng 
(các mũi tên chỉ) (HE X400) 
Hình 4.5d. Các tế bào tuyến có hình 
khối (a); các mũi tên chỉ nhân tế bào 
(HE X400) 
68 
Hình 4.5 e. (a) Ống khía trong phân thùy; 
(b) phân thùy tuyến; các mũi tên chỉ mạch 
máu trong mô liên kết khoảng giữa các 
phân thùy (HE X200) 
Hình 4.5f. Phần ngăn cách giữa các 
phân thùy giàu tổ chức liên kết và 
mạch máu (a). Sắp xếp của các tế bào 
tuyến tạo các cột hay hình tia (mũi tên 
chỉ) (HE X200) 
Hình 4.5g. Ống dẫn chính tập hợp các ống 
trung tâm của mỗi thùy. Các tế bào biểu 
mô (mũi tên chỉ) lát thành ống có hình trụ 
(HE X200) 
Hình 4.5h. Lòng ống dẫn chính (a) có 
biểu mô gốm các tế bào hình trụ (b); 
dưới biểu mô là tổ chức liên kết (c) nối 
với các tổ chức liên kết tạo vách ngăn 
(d) ngăn cách các phân thùy (e) (HE 
X400) 
Trong lớp mô liên kết có lớp cơ trơn (cơ vòng) với các nhân tế bào hình 
thoi. Bên trong tuyến gồm các thùy hình đa giác. Khoảng giữa các thùy tuyến có 
69 
mô liên kết giàu mạch quản. Các tế bào tuyến trong mỗi thùy xếp thành hình bè 
(hay cột) có chiều dài khác nhau do lát cắt tiêu bản vi thể. Từ mỗi thùy tuyến có 
ống dẫn chất tiết đổ vào ống trung tâm. Các ống trung tâm đổ vào ống tiết chính. 
Lòng của các ống được lát bởi lớp tế bào biểu mô đơn trụ (hình 4.5 a đến 4.5 h). 
Tiết diện cắt ngang cho thấy hình ảnh các ống xếp theo hình tia tỏa ra từ 
kênh dẫn trung tâm. Ở phần tuyến xa ống trung tâm, các nhánh và các ống tuyến 
có cấu trúc đồng nhất hơn trong suốt chiều dài của tuyến. Cấu trúc dạng ống cho 
thấy đây là tuyến tiết, không phải là dạng lọc như ở thận. Hình ảnh vi thể trong 
nghiên cứu này tương tự như kết luận của các nghiên cứu trước đây về tuyến 
muối của các loài chim biển (Ernst và Elli, 1960; Woodin và Michot 2002; 
Hughes, 2003). 
Hình 4.6. Hình ảnh cấu tạo tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên 
Nguồn:  
Các nghiên cứu trước đây cho rằng động mạch phân đến tuyến muối từ động 
mạch mắt trong tạo các nhánh động mạch liên thùy, tiếp tục phân thành các động 
mạch thùy tuyến, vào ống trung tâm rồi tạo các mao mạch chạy song song với các 
tuyến dạng túi ra vùng ngoại vi của tuyến và tận cùng tạo các mao mạch rải rác giữa 
các tuyến, nhiều như trong các nhú của thận. Như vậy mạch quản phân bố song song 
nhưng ngược chiều với tuyến dạng túi nhưng ngược chiều với dòng chất tiết (Holmes 
và Phillips, 1985). Hình ảnh vi thể trong nghiên cứu này cho thấy sự hiện diện của các 
mạch máu trong các thùy tuyến và trong mô liên kết cũng như các khoảng gian thùy 
một phần chứng minh rằng cấu trúc tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên tương tự 
cấu trúc tuyến muối của các loài chim khác. 
70 
Khi một con vịt uống nước biển, natri đi vào huyết tương từ ruột và nồng độ 
chất tan trong huyết tương tăng lên. Điều này khiến nước di chuyển ra khỏi tế bào 
(thẩm thấu) làm tăng thể tích dịch ngoại bào. Sự gia tăng nồng độ chất tan trong 
huyết tương và thể tích dịch ngoại bào kích thích sự tiết tuyến muối (Hughes 2003). 
Thận là cơ quan được chú trọng trong sinh lý học so sánh giữa các nhóm 
động vật như bò sát, lưỡng cư, cá, chim và thú. Tuy nhiên, chỉ ở động vật có 
xương sống, thận là cơ quan chính điều hóa áp suất thẩm thấu (Braun, 1998; 
Bennet và Hughes, 2003). Các động vật có xương sống trên cạn có thận đóng vai 
trò quan trọng trong bài tiết, đặc biệt ở thú do thận có khả năng cô đặc cao nhờ có 
các quai Henle. Một số loài thú, chim và bò sát có quá trình tiến hóa thích nghi với 
đời sống trong nước mặn cũng nhờ cơ năng của thận của những động vật này 
(Goldstein, 2002). Thận của người không có khả năng này do vậy nước biển có 
khả năng gây độc với người (Albrecht, 1950). Điều này xảy ra do lượng clorua 
natri trong máu người luôn được thận điều tiết và duy trì trong một khoảng hẹp chỉ 
khoảng 9 g/L (0,9% theo trọng lượng). Uống nước biển với nồng độ khoảng 3,5% 
các ion clorua và natri hòa tan) nhất thời gia tăng nồng độ các ion này trong máu. 
Điều này kích thích thận gia tăng hoạt động bài tiết natri, nhưng nồng độ natri của 
nước biển là cao hơn khả năng cô tối đa của thận. Cuối cùng, với lượng gia tăng 
thêm nữa của nước biển thì nồng độ natri trong máu sẽ vượt ngưỡng gây ngộ độc, 
nó loại bỏ nước từ mọi tế bào và gây trở ngại cho truyền dẫn tín hiệu thần kinh; 
gây ra ngập máu và loạn nhịp tim, có thể gây tử vong. 
Chim và bò sát sống ở biển không thể dựa vào thận để điều hòa áp suất 
thẩm thấu nên phải lựa chọn, hoặc không uống nước biển hoặc phải thích nghi 
bằng các cơ chế bài tiết muối khác ngoài thận. Đó chính là cơ chế bài tiết qua 
tuyến muối. Dịch tiết từ tuyến muối không màu, trung tính, có các chất tan gồm 
Na và Cl với nồng độ tương đương; một lượng nhỏ Kali bicarbonate ngoài ra 
không có thành phần nào khác. Mg và sulfate có nồng độ cao trong nước biển 
nhưng hoàn toàn không có trong dịch tiết tuyến muối. Đỏ phenol (được tiết từ 
thận) không xuất hiện trong dịch tiết tuyến muối. Ngoài ra, trong tuyến có một số 
tế bào biểu mô và các mảnh mô được phát hiện trong mẫu lấy ngay sau khi tuyến 
bắt đầu tiết (Ernst và Elli, 1960). Tuyến muối có khả năng cô đặc cao hơn thận, 
dịch tiết luôn có tính ưu trương so với máu. Hoạt động toàn thể hoặc nghỉ hoàn 
toàn (khác với thận hoạt động liên tục) nhưng không tiết nhiều chất có trong 
thành phần của nước tiểu (Skoruppa và Woodin, 2000; Tunnell và cs. 2002; 
Woodin và Michot 2002). 
71 
Đây là nghiên cứu đầu tiên chứng minh cấu trúc tuyến muối của vịt Biển 
15 - Đại Xuyên tương tự như của nhiều loài chim biển. Khối lượng của tuyến phụ 
thuộc vào nồng độ muối. Dựa trên những kết quả nghiên cứu này, đánh giá chức 
năng của tuyến muối vịt Biển 15 - Đại Xuyên trong môi trường nước với nồng độ 
muối khác nhau có thể tiếp tục được thực hiện, làm cơ sở xác định môi trường 
nước thích hợp nhất với vịt Biển 15 - Đại Xuyên và thời điểm chuyển môi trường 
nuôi tối ưu với giống vịt này. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận án 
chưa thể nghiên cứu về nồng độ các chất trong dịch tiết ra ngoài của vịt Biển 15 - 
Đại Xuyên khi nuôi trong nước mặn và so sánh tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại 
Xuyên nuôi trong nước mặn với tuyến muối của một số giống vịt khác khi nuôi 
trong nước mặn. Đây sẽ là câu hỏi nghiên cứu để chúng ta có thể giải quyết trong 
những nghiên cứu tiếp theo về vịt Biển 15 - Đại Xuyên. 
4.1.3. Một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của vịt Biển 15 - Đại xuyên 
Cấu trúc vi thể tuyến muối thể đã giải thích được cơ chế thích nghi với 
môi trường nước mặn của vịt Biển 15 - Đại Xuyên. Song để đánh giá tính ổn 
định của nó thì cần thiết phải nghiên cứu các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của 
vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong hai môi trường nước ngọt và nước mặn. 
4.1.3.1. Chỉ tiêu hệ hồng cầu, hemoglobin (Hb) và tiểu cầu 
Đem phân tích số lượng mẫu máu vịt Biển 15 - Đại Xuyên ở mỗi một môi 
trường nuôi là 60 mẫu máu (gồm 30 vịt trống, 30 vịt mái) tại 9 - 10 tuần tuổi. Kết 
quả được thể hiện qua bảng 4.6. 
Kết quả bảng 4.6 cho thấy không hàm lượng hồng cầu trong máu của vịt 
Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt đạt 2,49 triệu/ mm3 đối vịt trống và 
2,38 triệu/mm3 đối với vịt mái, nuôi trong nước mặn đạt 2,51 triệu/mm3 đối với 
vịt trống và 2,33 triệu/mm3 đối với vịt mái, không sự khác nhau có ý nghĩa thống 
kê về số lượng hồng cầu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt và 
trong nước mặn (P > 0,05). Trong cùng môi trường nuôi, không có sai khác số 
lượng hồng cầu giữa vịt trống và vịt mái. Tương tự, không có sai khác chỉ số hàm 
lượng Hb giữa tất cả các nhóm vịt nghiên cứu. Tỷ khối huyết cầu của vịt trống 
nuôi trong nước ngọt cao hơn của vịt mái trong cùng môi trường nuôi và cao hơn 
của cả hai nhóm vịt trống và mái nuôi trong môi trường nước mặn (P < 0,05). Số 
lượng tiểu cầu cũng không khác nhau giữa các nhóm vịt. 
Hàm lượng hemoglobin (Hb) là một yếu tố biểu hiện chức năng của hồng 
cầu, vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt có hàm lượng Hb đạt 11,10 
72 
g% đối với con trống và 10,91 g% đối với con mái, nuôi trong nước mặn con 
trống đạt 12,84g %, con mái đạt 11,85 g%. Như vậy khi nuôi trong nước mặn Hb 
trong máu của vịt trống, mái đều cao hơn so với nước ngọt, tuy nhiên sự sai khác 
này lại không có ý nghĩa thống kê giữa 2 môi trường và cũng không có sự sai 
khác về giới tính của vịt Biển 15 - Đại Xuyên (P > 0,05), 
Bảng 4.6. Chỉ số hồng cầu, hemoglobin và tiểu cầu 
của vịt Biển 15 - Đại Xuyên 
Chỉ tiêu 
Nuôi trong nước ngọt Nuôi trong nước mặn 
Vịt trống 
 (n = 30) 
Vịt mái 
(n = 30) 
Vịt trống 
(n = 30) 
Vịt mái 
(n = 30) 
Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD 
Hồng cầu 
(triệu/mm3) 
2,49 ± 0,31 2,38 ± 0,27 2,51 ± 0,54 2,33 ± 0,43 
Tỷ khối huyết cầu 
(hematocrit %) 
55,03a ± 5,09 44,77b ± 6,14 44,43b± 7,64 42,17b ± 3,84 
Hemoglobin 
(g%) 
11,10 ± 0,63 10,91 ± 0,56 12,84± 0,94 11, 85 ± 0,46 
Tiểu cầu 
(nghìn/mm3) 
20,87 ± 1,85 22,96 ± 5,54 22,05± 3,75 21,98 ± 3,58 
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị trong cùng hàng (P < 0,05) 
Vịt Cỏ màu cánh sẻ mới nở có hàm lượng Hb là 9,52 g%, lúc 70 ngày tuổi 
là 11,29 g% và lúc đẻ đỉnh cao là 11,60 g% (Nguyễn Thị Minh, 2001), vịt Đốm 
có hàm lượng Hb: 12,40 g% (Đặng Vũ Hòa, 2015); vịt Đen tại Australia có hàm 
lượng Hb: 12,96 g% (Mulley, 1979). Kết quả nghiên cứu hàm lượng Hb trong 
máu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên tương đương với nghiên cứu về các giống vịt 
khác của các tác giả trên. 
Nghiên cứu của Trịnh Thị Thơ Thơ (1994) cho thấy số lượng hồng cầu 
của vịt Bầu 30 ngày tuổi nằm trong khoảng 2,7 đến 3,5 triệu/mm3 trong khi chỉ 
số này của vịt Cỏ trong khoảng 2,5 đến 3,0 và tăng khoảng 10 % ở cả hai giống 
vịt ở 75 ngày tuổi. Tadjalli và cs. (1996); Okeudo và cs. (2003) cho thấy số lượng 
hồng cầu của vịt bản địa tại Iran và Nigeria lần lượt là 2,66 và 3,25 triệu/mm3, 
cao hơn của vịt Biển 15 - Đại Xuyên trong nghiên cứu này. 
Hb chiếm 95 % vật chất của hồng cầu. Một điều thú vị là chỉ số Hb của 
73 
Vịt Biển 15 - Đại Xuyên cao hơn của vịt Bầu và vịt Cỏ khoảng 10 % (so sánh với 
kết quả của Trịnh Thị Thơ Thơ, 1994). Như vậy, có thể thấy mặc dù số lượng 
hồng cầu thấp nhưng hàm lượng Hb cao hơn ở vịt Biển 15 - Đại Xuyên như là 
một đặc điểm thích nghi mang tính bù trừ. 
Tất cả vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt và nước mặn đều 
có tỷ khối huyết cầu cao hơn của vịt Bầu và vịt Cỏ và của vịt bản địa Iran. 
Đây cũng là một chỉ số bù đắp cho số lượng hồng cầu ít hơn so với những 
giống vịt này. Từ kết quả này có thể suy ra rằng mặc dù số lượng hồng cầu 
thấp hơn nhưng hồng cầu chứa nhiều Hb hơn và kích thước lớn hơn. Các chỉ 
số hồng cầu cũng có biến động lớn giữa các giống vịt khác nhau nuôi tại các 
cùng khác nhau trên thế giới và phương thức nuôi cũng là một trong các 
nguyên dân dẫn đến sự khác nhau đó (Okeudo và cs., 2003). 
Nhóm Tadjalli và cs. (1996) cho thấy số lượng tiểu cầu của vịt Iran là 
31.50 nghìn/mm3, của vịt mái có số lượng tiểu cầu cao hơn vịt trống. Chỉ số này 
của vịt Biển 15 - Đại Xuyên cũng thấp hơn đồng thời không có sự khác nhau 
giữa vịt trống và vịt mái trong cả hai môi trường nuôi 
Có thể thấy rằng khi nuôi vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi ở hai môi trường 
khác nhau nhưng các chỉ số máu hồng cầu, Hb, tiểu cầu không có sự thay đổi 
nhiều, chúng gần như ổn định. Sự sai sác không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05), 
chỉ số hematocrit có sự thay đổi giữa vịt trống nuôi trong nước ngọt với vịt mái 
nuôi trong nước ngọt và vịt trống, mái nuôi trong nước mặn (P < 0,05). Với các 
kết quả phân tích trên có thể kết luận rằng vịt Biển 15 - Đại Xuyên thích nghi với 
môi trường nước mặn, khi nuôi ở nước mặn các chỉ số về máu ổn định, ít thay 
đổi. Điều này có ý nghĩa trong việc chuẩn đoán và điều trị bệnh của vịt Biển 15 - 
Đại Xuyên. 
4.1.3.2. Kết quả xác định chỉ tiêu hệ bạch cầu 
Bạch cầu có chức năng thực bào, bảo vệ cơ thể, chống nhiễm trùng và ngộ 
độc, thông qua các quần thể Limphô. Hệ thống bạch cầu tham gia đáp ứng miễn 
dịch tế bào, đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, điều hòa miễn dịch và 
thông qua sự hợp tác tế bào làm nhiệm vụ duy trì đáp ứng miễn dịch trong giới 
hạn để duy trì sự cân bằng nội mô. Số lượng bạch cầu của từng loài gia cầm 
trong cùng 1 lứa tuổi/ 1 mm3 máu là ổn định. Song chúng thay đổi khi trạng thái 
cơ thể có biến đổi sinh lý như giai đoạn đẻ trứng, sau bữa ăn, điều kiện khí hậu 
nóng ẩm, chuồng nuôi các hiện tượng Stress do quá trình vận chuyển. Đặc biệt 
74 
trong một số bệnh truyền nhiễm cấp tính như tụ huyết trùng, siêu vi trùng gan vịt, 
dịch tả vịt sẽ làm số lượng bạch cầu tăng lên. Ngược lại các trường hợp nhiễm 
độc thức ăn, asen, trạng thái quá mẫn cảm đều làm giảm số lượng bạch cầu. Việc 
tăng giảm bạch cầu liên quan chặt chẽ đến tiến trình của bệnh. Việc xác định chỉ 
số từng loại bạch cầu trong một loài, một giống ổn định giúp chúng ta đánh giá 
được quá trình sinh trưởng phát dục của cơ thể là bình thường, khả năng đề 
kháng của cơ thể để thích ứng với điều kiện ngoại cảnh. 
Số lượng bạch cầu của vịt nuôi trong môi trường nước mặn cao hơn của vịt 
nuôi trong môi trường nước ngọt (bảng 4.7). Trong cả hai môi trường nuôi, không 
có sự khác nhau về số lượng bạch cầu giữa vịt trống và vịt mái. Tỷ lệ các loại bạch 
cầu đa nhân trung tính (neutrophil), lâm ba cầu (lymphocyte), bạch cầu đơn nhân 
(monocyte), bạch ầu ái toan (eosinophil) và bạch cầu ái kiềm (basophil) tương tự 
nhau ở các nhóm vịt (bảng 4.7). Số lượng bạch cầu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên có 
mức biến động tương đương với chỉ số này của vịt Bầu và vịt Cỏ (Trịnh Thị Thơ 
Thơ, 1994). 
Bảng 4.7. Các chỉ tiêu bạch cầu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên 
Chỉ tiêu 
Nuôi trong nước ngọt Nuôi trong nước mặn 
Vịt trống 
(n =30) 
Vịt mái 
(n =30) 
Vịt trống 
(n =30) 
Vịt mái 
(n = 30) 
Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD 
Bạch cầu (nghìn/mm3) 22,19a ± 3,95 23,11a ± 2,99 31,46b ± 3,5 32,81b ± 3,47 
Bạch cầu trung tính (%) 23,76 ± 5,27 24,97 ± 3,49 24,54 ± 6,17 25,91 ± 5,06 
Lâm ba cầu (%) 56,37 ± 5,46 55,23 ± 3,62 54,40 ± 7,47 53,67 ± 5,82 
Bạch cầu đơn nhân (%) 11,55 ± 3,36 10,72 ± 2,38 11,52 ± 2,62 10,82 ± 2,51 
Bạch cầu ái toan (%) 6,45 ± 1,66 6,48 ± 1,29 7,31 ± 1,78 7,27 ± 1,95 
Bạch cầu ái kiềm (%) 1,91 ± 1,01 2,64 ± 1,48 2,27 ± 1,05 2,37 ± 1,52 
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị trong cùng hàng (P < 0,05) 
Số lượng bạch cầu trung bình của bốn nhóm Vịt Biển 15 - Đại Xuyên là 
27,39 nghìn/mm3 cao hơn của vịt bản địa Nigeria (24,53 nghìn/ mm3) và Iran 
(17,65 nghìn/ mm3) (theo nghiên cứu của các nhóm tác giả Okeudo và cs., 2003; 
Tadjalli và cs., 1996). Trong các loài gia cầm, vịt mẫn cảm với các thay đổi của 
điều kiện ngoại cảnh, đặc biệt đối với các điều kiện khí hậu. Một trong những 
thay đổi sinh lý của loài này là biến động số lượng bạch cầu, số lượng tăng nếu 
điểu kiện ngoại cảnh không ổn định. Đây có lẽ là nguyên nhân chính làm số 
lượng bạch cầu của nhóm vịt nuôi trọng nước mặn (chịu nhiều áp lực của điều 
75 
kiện thời tiết) cao hơn so với của nhóm nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu Vịt Đại 
Xuyên (điều kiện nuôi ổn định và hạn chế được các tác động của thay đổi khí hậu). 
Mặc dù số lượng bạch cầu tăng với vịt nuôi trong nước mặn nhưng các chỉ số tỷ lệ 
các loại bạch cầu không thay đổi cho thấy Vịt Biển 15 - Đại Xuyên có khả năng 
thích nghi cao khi được nuôi trong môi trường ven biển, ít nhất về miễn dịch. 
4.1.3.3. Hàm lượng protein và các tiểu phần protein 
Hàm lượng protein của vịt mái nuôi trong nước ngọt và nước mặn cao hơn 
của vịt trống nuôi trong cùng điều kiện. Kết quả tính chung cho thấy hàm lượng 
protein tổng số của vịt trong nước ngọt (39,98g/l) cao hơn của vịt nuôi trong 
nước mặn (35,82 g/l). Chỉ số hàm lượng albumin cũng có sai khác tương tự 
(bảng 4.8). Những khác biệt về chỉ số protein này có thể do điều kiện nuôi dưỡng 
với nhóm vịt nước ngọt tốt hơn so với nhóm nuôi trong điều kiện nước mặn. 
Bảng 4.8. Chỉ số protein huyết tương của Vịt Biển 15 - Đại Xuyên (g/l) 
Chỉ tiêu 
Nuôi trong nước ngọt Nuôi trong nước mặn 
Vịt trống 
(n = 30) 
Vịt mái 
(n = 30) 
Vịt trống 
(n = 30) 
Vịt mái 
(n = 30) 
Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD 
Protein 36,31a ± 2,37 41,65b ±1,95 34,87a ± 3,10 38,67b± 3,29 
Albumin 19,23a ±0,90 21,97b ± 1,55 18,11a ± 0,62 22,74b± 1,51 
α 1-globulin 3,96 ± 0,64 3,46 ± 0,80 3,47 ± 0,55 3,92 ± 0,54 
α2-globulin 7,75 ± 0,73 7,79 ± 0,68 7,86 ± 0,65 6,10 ± 0,60 
β-globulin 5,24 ± 0,78 5,80 ± 0,97 4,05 ± 0,37 4,62 ± 0,66 
γ-globulin 1,08 ± 0,27 1,43 ± 0,54 1,12 ± 0,08 1,23 ± 0,18 
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị trong cùng hàng (P < 0,05) 
Hầu hết các nghiên cứu hóa học máu của vịt đều định lượng protein huyết 
thanh. Ở gia cầm, cũng giống như đối với gia súc, định lượng protein huyết 
tương là cơ sở để đánh giá lượng protein dự trữ cho cơ thể đồng thời là căn cứ 
đánh giá trạng thái dinh dưỡng và chức năng gan của vật nuôi (Jerabek và cs., 
2018). Chính vì vậy có thể thấy nhóm Vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi tại Trung 
tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên có trạng thái dinh dưỡng tốt hơn so với nhóm vịt 
nuôi trong môi trường nước mặn. 
4.1.3.4. Nồng độ một số chất điện giải trong máu 
Nồng độ ion trong huyết thanh của vịt Biển 15 - Đại Xuyên đối với ion 
Na+, vịt trống và mái đạt lần lượt là 141,19; 144,43 mmol khi nuôi trong nước 
ngọt và đạt 139,64; 140,21 mmol nuôi trong nước mặn. Ion K+ đạt 4,69 mmol đối 
76 
với vịt trống và 4,09 mmol đối với vịt mái nuôi trong nước mặn. Ion Cl- đạt lần 
lượt đối với vịt trống, mái là 117,68; 115,76 mmol nuôi trong nước ngọt và đạt 
123,78; 126,51 mmol. Kết quả cho thấy nống độ các ion Na+, K+ và Cl- trong 
huyết thanh của vịt mái tương đương với vịt trống ở cả hai môi trường nước. 
Đồng thời không có sự khác nhau về giá trị nồng độ các ion giữa nhóm vịt nuôi 
tron

File đính kèm:

  • pdfluan_an_mot_so_dac_diem_sinh_hoc_va_kha_nang_san_xuat_cua_gi.pdf
  • pdfDong gop moi của luận án.pdf
  • pdfTóm tắt luận án - Tiếng Việt.pdf
  • pdfTom tat luan an_English.pdf
  • pdfTrích yếu luận án.pdf