Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống vịt biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong môi trường nước ngọt và nước mặn

i trường nước ngọt (6 con, 3 vịt trống và 3 vịt mái) và nước mặn (6 con, 3 vịt trống và 3 vịt mái). Chiều dài và chiều rộng tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước mặn (VB15 NM) là 16,8 mm và 3,9 mm, cao hơn các kích thước tương ứng của vịt Biển 15 - Đại 66 Xuyên nuôi trong nước ngọt (VB15NN) (15,10 mm và 3,4 mm). Tuy vậy, những sai khác này không có ý nghĩa thống kê Bảng 4.5. Kích thước và khối lượng tuyến muối của Vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt và nước mặn Chỉ tiêu Nuôi trong nước ngọt ( n = 6 ) Nuôi trong nước mặn ( n = 6) Mean ± SD Mean ± SD Chiều dài tuyến (mm) 15,10 ± 0,82 16,80 ± 0,63 Chiều rộng tuyến (mm) 3,40 ± 0,55 3,90 ± 0,7 Khối lượng tuyến (mg) 3,20b ± 0,53 4,40a ± 0,3 Ghi chú: các giá trị mang chữ cái khác nhau trong cùng hàng chỉ sai khác có ý nghĩa (P < 0,05) Khối lượng tuyến muối của nhóm nuôi trong môi trường nước mặn đạt 4,40 mg cao hơn của nhóm được nuôi trong môi trường nước ngọt (đạt 3,2 mg). Sai khác này có ý nghĩa với P < 0,05. Có thể kết luận môi trường nước mặn có xu hướng làm tăng kích thước tuyến muối và đặc biệt có ảnh hưởng rõ đến khối lượng của tuyến này (hình 4.5). Hình 4.5. Kích thước và khối lượng tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt (VB15NN) và trong nước mặn (VB15NM) 4.1.2.5. Cấu trúc vi thể tuyến muối vịt Biển 15 - Đại Xuyên Quan sát cấu trúc vi thể tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên ở tuần tuổi 22 cho thấy những đặc điểm điển hình của một tuyến ngoại tiết. Tuyến được bao xung quanh bằng mô liên kết, lớp này gắn tuyến với lõm xương thuộc xương trán. 67 Hình 4.5a. Tuyến muối VB15 cắt ngang. Lớp ngoài cùng là mô liên kết (a) nối tiếp với các vách ngăn (b) giữa các phân thùy của tuyến (c); mỗi phân thùy tuyến có ống dẫn ở giữa (d) đổ ra ống chính (e). Giữa các tuyến có mạch máu (f) (HE X40) Hình 4.5b. Một phân thùy của tuyến muối VB15: ở giữa có một ống dẫn chất tiết (mũi tên chỉ) (HE X100) Hình 4.5c. Bao ngoài tuyến muối gồm mô liên kết ngoài cùng (a) và lớp cơ trơn vòng (các mũi tên chỉ) (HE X400) Hình 4.5d. Các tế bào tuyến có hình khối (a); các mũi tên chỉ nhân tế bào (HE X400) 68 Hình 4.5 e. (a) Ống khía trong phân thùy; (b) phân thùy tuyến; các mũi tên chỉ mạch máu trong mô liên kết khoảng giữa các phân thùy (HE X200) Hình 4.5f. Phần ngăn cách giữa các phân thùy giàu tổ chức liên kết và mạch máu (a). Sắp xếp của các tế bào tuyến tạo các cột hay hình tia (mũi tên chỉ) (HE X200) Hình 4.5g. Ống dẫn chính tập hợp các ống trung tâm của mỗi thùy. Các tế bào biểu mô (mũi tên chỉ) lát thành ống có hình trụ (HE X200) Hình 4.5h. Lòng ống dẫn chính (a) có biểu mô gốm các tế bào hình trụ (b); dưới biểu mô là tổ chức liên kết (c) nối với các tổ chức liên kết tạo vách ngăn (d) ngăn cách các phân thùy (e) (HE X400) Trong lớp mô liên kết có lớp cơ trơn (cơ vòng) với các nhân tế bào hình thoi. Bên trong tuyến gồm các thùy hình đa giác. Khoảng giữa các thùy tuyến có 69 mô liên kết giàu mạch quản. Các tế bào tuyến trong mỗi thùy xếp thành hình bè (hay cột) có chiều dài khác nhau do lát cắt tiêu bản vi thể. Từ mỗi thùy tuyến có ống dẫn chất tiết đổ vào ống trung tâm. Các ống trung tâm đổ vào ống tiết chính. Lòng của các ống được lát bởi lớp tế bào biểu mô đơn trụ (hình 4.5 a đến 4.5 h). Tiết diện cắt ngang cho thấy hình ảnh các ống xếp theo hình tia tỏa ra từ kênh dẫn trung tâm. Ở phần tuyến xa ống trung tâm, các nhánh và các ống tuyến có cấu trúc đồng nhất hơn trong suốt chiều dài của tuyến. Cấu trúc dạng ống cho thấy đây là tuyến tiết, không phải là dạng lọc như ở thận. Hình ảnh vi thể trong nghiên cứu này tương tự như kết luận của các nghiên cứu trước đây về tuyến muối của các loài chim biển (Ernst và Elli, 1960; Woodin và Michot 2002; Hughes, 2003). Hình 4.6. Hình ảnh cấu tạo tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên Nguồn: Các nghiên cứu trước đây cho rằng động mạch phân đến tuyến muối từ động mạch mắt trong tạo các nhánh động mạch liên thùy, tiếp tục phân thành các động mạch thùy tuyến, vào ống trung tâm rồi tạo các mao mạch chạy song song với các tuyến dạng túi ra vùng ngoại vi của tuyến và tận cùng tạo các mao mạch rải rác giữa các tuyến, nhiều như trong các nhú của thận. Như vậy mạch quản phân bố song song nhưng ngược chiều với tuyến dạng túi nhưng ngược chiều với dòng chất tiết (Holmes và Phillips, 1985). Hình ảnh vi thể trong nghiên cứu này cho thấy sự hiện diện của các mạch máu trong các thùy tuyến và trong mô liên kết cũng như các khoảng gian thùy một phần chứng minh rằng cấu trúc tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên tương tự cấu trúc tuyến muối của các loài chim khác. 70 Khi một con vịt uống nước biển, natri đi vào huyết tương từ ruột và nồng độ chất tan trong huyết tương tăng lên. Điều này khiến nước di chuyển ra khỏi tế bào (thẩm thấu) làm tăng thể tích dịch ngoại bào. Sự gia tăng nồng độ chất tan trong huyết tương và thể tích dịch ngoại bào kích thích sự tiết tuyến muối (Hughes 2003). Thận là cơ quan được chú trọng trong sinh lý học so sánh giữa các nhóm động vật như bò sát, lưỡng cư, cá, chim và thú. Tuy nhiên, chỉ ở động vật có xương sống, thận là cơ quan chính điều hóa áp suất thẩm thấu (Braun, 1998; Bennet và Hughes, 2003). Các động vật có xương sống trên cạn có thận đóng vai trò quan trọng trong bài tiết, đặc biệt ở thú do thận có khả năng cô đặc cao nhờ có các quai Henle. Một số loài thú, chim và bò sát có quá trình tiến hóa thích nghi với đời sống trong nước mặn cũng nhờ cơ năng của thận của những động vật này (Goldstein, 2002). Thận của người không có khả năng này do vậy nước biển có khả năng gây độc với người (Albrecht, 1950). Điều này xảy ra do lượng clorua natri trong máu người luôn được thận điều tiết và duy trì trong một khoảng hẹp chỉ khoảng 9 g/L (0,9% theo trọng lượng). Uống nước biển với nồng độ khoảng 3,5% các ion clorua và natri hòa tan) nhất thời gia tăng nồng độ các ion này trong máu. Điều này kích thích thận gia tăng hoạt động bài tiết natri, nhưng nồng độ natri của nước biển là cao hơn khả năng cô tối đa của thận. Cuối cùng, với lượng gia tăng thêm nữa của nước biển thì nồng độ natri trong máu sẽ vượt ngưỡng gây ngộ độc, nó loại bỏ nước từ mọi tế bào và gây trở ngại cho truyền dẫn tín hiệu thần kinh; gây ra ngập máu và loạn nhịp tim, có thể gây tử vong. Chim và bò sát sống ở biển không thể dựa vào thận để điều hòa áp suất thẩm thấu nên phải lựa chọn, hoặc không uống nước biển hoặc phải thích nghi bằng các cơ chế bài tiết muối khác ngoài thận. Đó chính là cơ chế bài tiết qua tuyến muối. Dịch tiết từ tuyến muối không màu, trung tính, có các chất tan gồm Na và Cl với nồng độ tương đương; một lượng nhỏ Kali bicarbonate ngoài ra không có thành phần nào khác. Mg và sulfate có nồng độ cao trong nước biển nhưng hoàn toàn không có trong dịch tiết tuyến muối. Đỏ phenol (được tiết từ thận) không xuất hiện trong dịch tiết tuyến muối. Ngoài ra, trong tuyến có một số tế bào biểu mô và các mảnh mô được phát hiện trong mẫu lấy ngay sau khi tuyến bắt đầu tiết (Ernst và Elli, 1960). Tuyến muối có khả năng cô đặc cao hơn thận, dịch tiết luôn có tính ưu trương so với máu. Hoạt động toàn thể hoặc nghỉ hoàn toàn (khác với thận hoạt động liên tục) nhưng không tiết nhiều chất có trong thành phần của nước tiểu (Skoruppa và Woodin, 2000; Tunnell và cs. 2002; Woodin và Michot 2002). 71 Đây là nghiên cứu đầu tiên chứng minh cấu trúc tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên tương tự như của nhiều loài chim biển. Khối lượng của tuyến phụ thuộc vào nồng độ muối. Dựa trên những kết quả nghiên cứu này, đánh giá chức năng của tuyến muối vịt Biển 15 - Đại Xuyên trong môi trường nước với nồng độ muối khác nhau có thể tiếp tục được thực hiện, làm cơ sở xác định môi trường nước thích hợp nhất với vịt Biển 15 - Đại Xuyên và thời điểm chuyển môi trường nuôi tối ưu với giống vịt này. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận án chưa thể nghiên cứu về nồng độ các chất trong dịch tiết ra ngoài của vịt Biển 15 - Đại Xuyên khi nuôi trong nước mặn và so sánh tuyến muối của vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước mặn với tuyến muối của một số giống vịt khác khi nuôi trong nước mặn. Đây sẽ là câu hỏi nghiên cứu để chúng ta có thể giải quyết trong những nghiên cứu tiếp theo về vịt Biển 15 - Đại Xuyên. 4.1.3. Một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của vịt Biển 15 - Đại xuyên Cấu trúc vi thể tuyến muối thể đã giải thích được cơ chế thích nghi với môi trường nước mặn của vịt Biển 15 - Đại Xuyên. Song để đánh giá tính ổn định của nó thì cần thiết phải nghiên cứu các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong hai môi trường nước ngọt và nước mặn. 4.1.3.1. Chỉ tiêu hệ hồng cầu, hemoglobin (Hb) và tiểu cầu Đem phân tích số lượng mẫu máu vịt Biển 15 - Đại Xuyên ở mỗi một môi trường nuôi là 60 mẫu máu (gồm 30 vịt trống, 30 vịt mái) tại 9 - 10 tuần tuổi. Kết quả được thể hiện qua bảng 4.6. Kết quả bảng 4.6 cho thấy không hàm lượng hồng cầu trong máu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt đạt 2,49 triệu/ mm3 đối vịt trống và 2,38 triệu/mm3 đối với vịt mái, nuôi trong nước mặn đạt 2,51 triệu/mm3 đối với vịt trống và 2,33 triệu/mm3 đối với vịt mái, không sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về số lượng hồng cầu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt và trong nước mặn (P > 0,05). Trong cùng môi trường nuôi, không có sai khác số lượng hồng cầu giữa vịt trống và vịt mái. Tương tự, không có sai khác chỉ số hàm lượng Hb giữa tất cả các nhóm vịt nghiên cứu. Tỷ khối huyết cầu của vịt trống nuôi trong nước ngọt cao hơn của vịt mái trong cùng môi trường nuôi và cao hơn của cả hai nhóm vịt trống và mái nuôi trong môi trường nước mặn (P < 0,05). Số lượng tiểu cầu cũng không khác nhau giữa các nhóm vịt. Hàm lượng hemoglobin (Hb) là một yếu tố biểu hiện chức năng của hồng cầu, vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt có hàm lượng Hb đạt 11,10 72 g% đối với con trống và 10,91 g% đối với con mái, nuôi trong nước mặn con trống đạt 12,84g %, con mái đạt 11,85 g%. Như vậy khi nuôi trong nước mặn Hb trong máu của vịt trống, mái đều cao hơn so với nước ngọt, tuy nhiên sự sai khác này lại không có ý nghĩa thống kê giữa 2 môi trường và cũng không có sự sai khác về giới tính của vịt Biển 15 - Đại Xuyên (P > 0,05), Bảng 4.6. Chỉ số hồng cầu, hemoglobin và tiểu cầu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên Chỉ tiêu Nuôi trong nước ngọt Nuôi trong nước mặn Vịt trống (n = 30) Vịt mái (n = 30) Vịt trống (n = 30) Vịt mái (n = 30) Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Hồng cầu (triệu/mm3) 2,49 ± 0,31 2,38 ± 0,27 2,51 ± 0,54 2,33 ± 0,43 Tỷ khối huyết cầu (hematocrit %) 55,03a ± 5,09 44,77b ± 6,14 44,43b± 7,64 42,17b ± 3,84 Hemoglobin (g%) 11,10 ± 0,63 10,91 ± 0,56 12,84± 0,94 11, 85 ± 0,46 Tiểu cầu (nghìn/mm3) 20,87 ± 1,85 22,96 ± 5,54 22,05± 3,75 21,98 ± 3,58 Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị trong cùng hàng (P < 0,05) Vịt Cỏ màu cánh sẻ mới nở có hàm lượng Hb là 9,52 g%, lúc 70 ngày tuổi là 11,29 g% và lúc đẻ đỉnh cao là 11,60 g% (Nguyễn Thị Minh, 2001), vịt Đốm có hàm lượng Hb: 12,40 g% (Đặng Vũ Hòa, 2015); vịt Đen tại Australia có hàm lượng Hb: 12,96 g% (Mulley, 1979). Kết quả nghiên cứu hàm lượng Hb trong máu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên tương đương với nghiên cứu về các giống vịt khác của các tác giả trên. Nghiên cứu của Trịnh Thị Thơ Thơ (1994) cho thấy số lượng hồng cầu của vịt Bầu 30 ngày tuổi nằm trong khoảng 2,7 đến 3,5 triệu/mm3 trong khi chỉ số này của vịt Cỏ trong khoảng 2,5 đến 3,0 và tăng khoảng 10 % ở cả hai giống vịt ở 75 ngày tuổi. Tadjalli và cs. (1996); Okeudo và cs. (2003) cho thấy số lượng hồng cầu của vịt bản địa tại Iran và Nigeria lần lượt là 2,66 và 3,25 triệu/mm3, cao hơn của vịt Biển 15 - Đại Xuyên trong nghiên cứu này. Hb chiếm 95 % vật chất của hồng cầu. Một điều thú vị là chỉ số Hb của 73 Vịt Biển 15 - Đại Xuyên cao hơn của vịt Bầu và vịt Cỏ khoảng 10 % (so sánh với kết quả của Trịnh Thị Thơ Thơ, 1994). Như vậy, có thể thấy mặc dù số lượng hồng cầu thấp nhưng hàm lượng Hb cao hơn ở vịt Biển 15 - Đại Xuyên như là một đặc điểm thích nghi mang tính bù trừ. Tất cả vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi trong nước ngọt và nước mặn đều có tỷ khối huyết cầu cao hơn của vịt Bầu và vịt Cỏ và của vịt bản địa Iran. Đây cũng là một chỉ số bù đắp cho số lượng hồng cầu ít hơn so với những giống vịt này. Từ kết quả này có thể suy ra rằng mặc dù số lượng hồng cầu thấp hơn nhưng hồng cầu chứa nhiều Hb hơn và kích thước lớn hơn. Các chỉ số hồng cầu cũng có biến động lớn giữa các giống vịt khác nhau nuôi tại các cùng khác nhau trên thế giới và phương thức nuôi cũng là một trong các nguyên dân dẫn đến sự khác nhau đó (Okeudo và cs., 2003). Nhóm Tadjalli và cs. (1996) cho thấy số lượng tiểu cầu của vịt Iran là 31.50 nghìn/mm3, của vịt mái có số lượng tiểu cầu cao hơn vịt trống. Chỉ số này của vịt Biển 15 - Đại Xuyên cũng thấp hơn đồng thời không có sự khác nhau giữa vịt trống và vịt mái trong cả hai môi trường nuôi Có thể thấy rằng khi nuôi vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi ở hai môi trường khác nhau nhưng các chỉ số máu hồng cầu, Hb, tiểu cầu không có sự thay đổi nhiều, chúng gần như ổn định. Sự sai sác không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05), chỉ số hematocrit có sự thay đổi giữa vịt trống nuôi trong nước ngọt với vịt mái nuôi trong nước ngọt và vịt trống, mái nuôi trong nước mặn (P < 0,05). Với các kết quả phân tích trên có thể kết luận rằng vịt Biển 15 - Đại Xuyên thích nghi với môi trường nước mặn, khi nuôi ở nước mặn các chỉ số về máu ổn định, ít thay đổi. Điều này có ý nghĩa trong việc chuẩn đoán và điều trị bệnh của vịt Biển 15 - Đại Xuyên. 4.1.3.2. Kết quả xác định chỉ tiêu hệ bạch cầu Bạch cầu có chức năng thực bào, bảo vệ cơ thể, chống nhiễm trùng và ngộ độc, thông qua các quần thể Limphô. Hệ thống bạch cầu tham gia đáp ứng miễn dịch tế bào, đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, điều hòa miễn dịch và thông qua sự hợp tác tế bào làm nhiệm vụ duy trì đáp ứng miễn dịch trong giới hạn để duy trì sự cân bằng nội mô. Số lượng bạch cầu của từng loài gia cầm trong cùng 1 lứa tuổi/ 1 mm3 máu là ổn định. Song chúng thay đổi khi trạng thái cơ thể có biến đổi sinh lý như giai đoạn đẻ trứng, sau bữa ăn, điều kiện khí hậu nóng ẩm, chuồng nuôi các hiện tượng Stress do quá trình vận chuyển. Đặc biệt 74 trong một số bệnh truyền nhiễm cấp tính như tụ huyết trùng, siêu vi trùng gan vịt, dịch tả vịt sẽ làm số lượng bạch cầu tăng lên. Ngược lại các trường hợp nhiễm độc thức ăn, asen, trạng thái quá mẫn cảm đều làm giảm số lượng bạch cầu. Việc tăng giảm bạch cầu liên quan chặt chẽ đến tiến trình của bệnh. Việc xác định chỉ số từng loại bạch cầu trong một loài, một giống ổn định giúp chúng ta đánh giá được quá trình sinh trưởng phát dục của cơ thể là bình thường, khả năng đề kháng của cơ thể để thích ứng với điều kiện ngoại cảnh. Số lượng bạch cầu của vịt nuôi trong môi trường nước mặn cao hơn của vịt nuôi trong môi trường nước ngọt (bảng 4.7). Trong cả hai môi trường nuôi, không có sự khác nhau về số lượng bạch cầu giữa vịt trống và vịt mái. Tỷ lệ các loại bạch cầu đa nhân trung tính (neutrophil), lâm ba cầu (lymphocyte), bạch cầu đơn nhân (monocyte), bạch ầu ái toan (eosinophil) và bạch cầu ái kiềm (basophil) tương tự nhau ở các nhóm vịt (bảng 4.7). Số lượng bạch cầu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên có mức biến động tương đương với chỉ số này của vịt Bầu và vịt Cỏ (Trịnh Thị Thơ Thơ, 1994). Bảng 4.7. Các chỉ tiêu bạch cầu của vịt Biển 15 - Đại Xuyên Chỉ tiêu Nuôi trong nước ngọt Nuôi trong nước mặn Vịt trống (n =30) Vịt mái (n =30) Vịt trống (n =30) Vịt mái (n = 30) Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Bạch cầu (nghìn/mm3) 22,19a ± 3,95 23,11a ± 2,99 31,46b ± 3,5 32,81b ± 3,47 Bạch cầu trung tính (%) 23,76 ± 5,27 24,97 ± 3,49 24,54 ± 6,17 25,91 ± 5,06 Lâm ba cầu (%) 56,37 ± 5,46 55,23 ± 3,62 54,40 ± 7,47 53,67 ± 5,82 Bạch cầu đơn nhân (%) 11,55 ± 3,36 10,72 ± 2,38 11,52 ± 2,62 10,82 ± 2,51 Bạch cầu ái toan (%) 6,45 ± 1,66 6,48 ± 1,29 7,31 ± 1,78 7,27 ± 1,95 Bạch cầu ái kiềm (%) 1,91 ± 1,01 2,64 ± 1,48 2,27 ± 1,05 2,37 ± 1,52 Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị trong cùng hàng (P < 0,05) Số lượng bạch cầu trung bình của bốn nhóm Vịt Biển 15 - Đại Xuyên là 27,39 nghìn/mm3 cao hơn của vịt bản địa Nigeria (24,53 nghìn/ mm3) và Iran (17,65 nghìn/ mm3) (theo nghiên cứu của các nhóm tác giả Okeudo và cs., 2003; Tadjalli và cs., 1996). Trong các loài gia cầm, vịt mẫn cảm với các thay đổi của điều kiện ngoại cảnh, đặc biệt đối với các điều kiện khí hậu. Một trong những thay đổi sinh lý của loài này là biến động số lượng bạch cầu, số lượng tăng nếu điểu kiện ngoại cảnh không ổn định. Đây có lẽ là nguyên nhân chính làm số lượng bạch cầu của nhóm vịt nuôi trọng nước mặn (chịu nhiều áp lực của điều 75 kiện thời tiết) cao hơn so với của nhóm nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu Vịt Đại Xuyên (điều kiện nuôi ổn định và hạn chế được các tác động của thay đổi khí hậu). Mặc dù số lượng bạch cầu tăng với vịt nuôi trong nước mặn nhưng các chỉ số tỷ lệ các loại bạch cầu không thay đổi cho thấy Vịt Biển 15 - Đại Xuyên có khả năng thích nghi cao khi được nuôi trong môi trường ven biển, ít nhất về miễn dịch. 4.1.3.3. Hàm lượng protein và các tiểu phần protein Hàm lượng protein của vịt mái nuôi trong nước ngọt và nước mặn cao hơn của vịt trống nuôi trong cùng điều kiện. Kết quả tính chung cho thấy hàm lượng protein tổng số của vịt trong nước ngọt (39,98g/l) cao hơn của vịt nuôi trong nước mặn (35,82 g/l). Chỉ số hàm lượng albumin cũng có sai khác tương tự (bảng 4.8). Những khác biệt về chỉ số protein này có thể do điều kiện nuôi dưỡng với nhóm vịt nước ngọt tốt hơn so với nhóm nuôi trong điều kiện nước mặn. Bảng 4.8. Chỉ số protein huyết tương của Vịt Biển 15 - Đại Xuyên (g/l) Chỉ tiêu Nuôi trong nước ngọt Nuôi trong nước mặn Vịt trống (n = 30) Vịt mái (n = 30) Vịt trống (n = 30) Vịt mái (n = 30) Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Protein 36,31a ± 2,37 41,65b ±1,95 34,87a ± 3,10 38,67b± 3,29 Albumin 19,23a ±0,90 21,97b ± 1,55 18,11a ± 0,62 22,74b± 1,51 α 1-globulin 3,96 ± 0,64 3,46 ± 0,80 3,47 ± 0,55 3,92 ± 0,54 α2-globulin 7,75 ± 0,73 7,79 ± 0,68 7,86 ± 0,65 6,10 ± 0,60 β-globulin 5,24 ± 0,78 5,80 ± 0,97 4,05 ± 0,37 4,62 ± 0,66 γ-globulin 1,08 ± 0,27 1,43 ± 0,54 1,12 ± 0,08 1,23 ± 0,18 Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị trong cùng hàng (P < 0,05) Hầu hết các nghiên cứu hóa học máu của vịt đều định lượng protein huyết thanh. Ở gia cầm, cũng giống như đối với gia súc, định lượng protein huyết tương là cơ sở để đánh giá lượng protein dự trữ cho cơ thể đồng thời là căn cứ đánh giá trạng thái dinh dưỡng và chức năng gan của vật nuôi (Jerabek và cs., 2018). Chính vì vậy có thể thấy nhóm Vịt Biển 15 - Đại Xuyên nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên có trạng thái dinh dưỡng tốt hơn so với nhóm vịt nuôi trong môi trường nước mặn. 4.1.3.4. Nồng độ một số chất điện giải trong máu Nồng độ ion trong huyết thanh của vịt Biển 15 - Đại Xuyên đối với ion Na+, vịt trống và mái đạt lần lượt là 141,19; 144,43 mmol khi nuôi trong nước ngọt và đạt 139,64; 140,21 mmol nuôi trong nước mặn. Ion K+ đạt 4,69 mmol đối 76 với vịt trống và 4,09 mmol đối với vịt mái nuôi trong nước mặn. Ion Cl- đạt lần lượt đối với vịt trống, mái là 117,68; 115,76 mmol nuôi trong nước ngọt và đạt 123,78; 126,51 mmol. Kết quả cho thấy nống độ các ion Na+, K+ và Cl- trong huyết thanh của vịt mái tương đương với vịt trống ở cả hai môi trường nước. Đồng thời không có sự khác nhau về giá trị nồng độ các ion giữa nhóm vịt nuôi tron
File đính kèm:
luan_an_mot_so_dac_diem_sinh_hoc_va_kha_nang_san_xuat_cua_gi.pdf
Dong gop moi của luận án.pdf
Tóm tắt luận án - Tiếng Việt.pdf
Tom tat luan an_English.pdf
Trích yếu luận án.pdf