Luận án Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước ở Việt Nam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước ở Việt Nam
5 quy định chi tiết lập HS mời quan tâm, Hồ sơ mời thầu, HSYC dịch vụ tư vấn 15/4/2015 BKHĐT 3.5 Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT ngày 27/10/2015 quy định chi tiết lập hồ sơ yêu cầu đối với chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh 22/12/2015 BKHĐT 3.6 Thông tư số 07/2016/ TT-BKHĐT ngày 29/6/2016 quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu mua sắm hàng hóa đối với đấu thầu qua mạng 15/8/2016 BKHĐT 3.7 Thông tư số 10/2016/ TT-BKHĐT ngày 22/7/2016 quy định chi tiết việc giám sát, theo dõi và kiểm tra hoạt động đấu thầu 09/9/2016 BKHĐT 3.8 Thông tư số 11/2016/ TT-BKHĐT ngày 26/7/2016 hướng dẫn lập hồ sơ mời thầu thiết kế, cung cấp hàng hóa và xây lắp (EPC) 01/10/2016 BKHĐT 3.9 Thông tư số 07/2016/TT-BXD ngày 10/3/2016 hướng dẫn điều chỉnh giá hợp đồng xây dựng 01/5/2016 BXD 3.10 Thông tư số 08/2016/TT-BXD ngày 10/3/2016 hướng dẫn một số nội dung về hợp đồng tư vấn xây dựng 01/5/2016 BXD 3.11 Thông tư số 09/2016/TT-BXD ngày 10/3/2016 hướng dẫn hợp đồng thi công xây dựng công trình 01/5/2016 BXD 3.12 Thông tư số 30/2016/TT-BXD ngày 30/12/2016 hướng dẫn hợp đồng thiết kế - cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình 20/02/2017 BXD Nguồn: Nghiên cứu sinh tổng hợp Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh về HĐXD sử dụng VNN hiện hành đã cơ bản bao trùm được các nội dung cần thiết để thực hiện QLNN với đối tượng quản 73 lý là HĐXD. Đây là kết quả của quá trình hoàn thiện pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển. Kế thừa các quy định pháp luật về HĐXD sử dụng VNN của giai đoạn trước, hệ thống pháp luật hiện hành về HĐXD sử dụng VNN đã làm rõ được thêm về các loại hợp đồng, phân định được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng, cũng như các chủ thể có liên quan. Nhìn chung, đã được các chủ thể có liên quan đánh giá là đã góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng và tiết kiệm chi phí đầu tư của dự án đầu tư xây dựng, góp phần chống thất thoát, lãng phí, giảm đáng kể nợ đọng vốn trong xây dựng; đảm bảo tính công bằng giữa các chủ thể và nâng cao hiệu quả đầu tư của dự án đầu tư xây dựng. 3.1.2. Hệ thống pháp luật điều chỉnh về hợp đồng xây dựng ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện Theo Luật Ban hành văn bản pháp luật năm 2015, hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật nói chung trong đó có các văn bản pháp luật về HĐXD đã được soạn thảo, ban hành theo quy trình được luật hóa. Quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã có nhiều đổi mới, tạo chuyển biến tích cực cả về chất lượng văn bản và kỹ thuật lập pháp, như là hồ sơ trình dự thảo luật phải kèm theo dự thảo các nghị định hướng dẫn; hồ sơ trình dự thảo nghị định phải kèm theo các thông tư hướng dẫn chi tiết,... Từ đó, việc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh kịp thời hơn; công tác giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật bước đầu có chuyển biến tích cực; công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được triển khai đồng bộ hơn với nhiều hình thức phong phú đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật. Hệ thống pháp luật từ luật, nghị định, thông tư về HĐXD sử dụng VNN đã được thể chế hóa trên các khía cạnh khác nhau, tạo thành môi trường pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện. Theo thống kê về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan về hoạt động đầu tư xây dựng nói chung thì bao gồm 08 Luật; 15 Nghị định và 42 Thông tư. Trong đó, chỉ tách riêng những văn bản có điều chỉnh trực tiếp các nội dung về HĐXD và VNN thì đã có 02 luật; 02 nghị định và 12 thông tư. Hệ thống quy phạm pháp luật đã cơ bản bao quát được các nội dung cần phải tổ chức QLNN về 74 HĐXD sử dụng VNN theo các giai đoạn hình thành, thực hiện đến kết thúc HĐXD cũng như bao quát theo phạm vi, hình thức hay quy định về ứng xử đối với các tình huống trong quan hệ hợp đồng. Thời gian qua, các văn bản pháp luật điều chỉnh về HĐXD đã được tập trung hoàn thiện và có sự đổi mới mạnh mẽ, góp phần đưa hoạt động xây dựng dần đi vào nền nếp, nâng cao năng lực hoạt động xây dựng, tạo thị trường minh bạch và môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng... Đặc biệt, Luật Xây dựng năm 2014 (thay thế Luật Xây dựng năm 2003) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có nhiều nội dung đổi mới căn bản, mang tính đột phá trong quản lý HĐXD. Chế định về hợp đồng xây dựng ngày càng được hoàn thiện, bảo đảm tuân thủ pháp luật về dân sự, quy định rõ nguyên tắc ký kết hợp đồng; hiệu lực của hợp đồng; các loại hợp đồng xây dựng, nội dung hồ sơ hợp đồng xây dựng; tạm dừng, chấm dứt, thưởng phạt hợp đồng; bồi thường thiệt hại do vi phạm và giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng; thanh toán, quyết toán, thanh lý hợp đồng xây dựng... Chất lượng các quy định pháp luật về HĐXD được cải thiện, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu lực quản lý theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Các cơ quan QLNN có thẩm quyền về xây dựng, ban hành văn bản pháp luật HĐXD như Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành đã nghiên cứu, ban hành nhiều chính sách nhằm nâng cao hiệu lực QLNN về HĐXD, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi từ thực tiễn phát triển đất nước. 3.1.3. Những hạn chế, tồn tại của hệ thống pháp luật về hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước ở Việt Nam Bên cạnh những chuyển biến tích cực của hệ thống pháp luật góp phần cải thiện làm tăng hiệu lực QLNN về HĐXD sử dụng VNN thì vẫn tồn tại không ít những hạn chế cản trở, làm suy giảm hiệu lực QLNN. Đây là những khiếm khuyết về tính bao quát, chặt chẽ, tường minh của các quy định pháp luật trong hệ thống, cụ thể như sau: 3.1.3.1. Một số tồn tại, bất cập trong hệ thống pháp luật về hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước bộc lộ qua thực tế công tác quản lý nhà nước về hợp đồng xây dựng Trong thực tiễn của hoạt động xây dựng ở nước ta thời gian qua đã nảy sinh một 75 số vấn đề khó khăn vướng mắc trong công tác QLNN về HĐXD sử dụng VNN do thiếu những quy định phù hợp trong hệ thống pháp luật hiện hành phần nào đã làm suy giảm tính hiệu lực của QLNN về HĐXD sử dụng VNN, bao gồm: a. Chưa quy định chi tiết về phân chia gói thầu xây dựng phù hợp đặc điểm, điều kiện thực tế của dự án đầu tư xây dựng Việc phân chia dự án thành các gói thầu một cách hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho gói thầu, dự án, giảm thời gian, chi phí và nguồn lực cho chủ đầu tư, nhà thầu và cả xã hội. Nguyên tắc phân chia dự án thành các gói thầu đã được quy định tại Điều 33 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13. Tại điểm c khoản 3 Điều 4 của Thông tư số 10/2015/TT-BKHĐT ngày 26/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết về kế hoạch lựa chọn nhà thầu quy định phần công việc thuộc kế hoạch lựa chọn nhà thầu phải ghi rõ số lượng gói thầu và nội dung của từng gói thầu và giải trình các nội dung đó. Tuy nhiên, những quy định pháp luật này mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung, vẫn thiếu vắng quy định, hướng dẫn chi tiết mang tính kỹ thuật về việc phân chia gói thầu thế nào là hợp lý. Ảnh hưởng trước tiên của việc phân chia gói thầu không hợp lý là lãng phí trong khâu tổ chức đấu thầu. Hiện nay, quy trình tổ chức lựa chọn nhà thầu đã từng bước được hoàn thiện trong hệ thống pháp luật. Theo đó, các trình tự thủ tục được các chuyên gia đánh giá là tương đối đầy đủ và chặt chẽ. Trường hợp có quá nhiều gói thầu trong một dự án buộc phải tổ chức công tác lựa chọn nhà thầu tương ứng với số gói thầu theo kế hoạch đấu thầu, lãng phí về thời gian cho công tác đăng thông tin, chi phí cho tổ chuyên gia đấu thầu kéo dài thời gian thực hiện dự án. Thời gian qua, vẫn còn nhiều tồn tại trong công tác phân chia gói thầu xây dựng như sau: (1) Chia tách gói thầu không hợp lý - Chia nhỏ gói thầu theo kiểu “chia phần”, mỗi nhà thầu “quen biết” trúng một phần. Trường hợp này xảy ra rõ nét ở công trình đường giao thông, hạ tầng kỹ thuật theo tuyến. Ví dụ điển hình là tại gói thầu đường giao thông và hệ thống cấp điện, nước sạch và nước thải tại một số dự án đầu tư xây dựng khu công nghiệp và nhà máy chế biến, bảo quản do Tổng công ty Lương thực Miền nam làm chủ đầu tư, theo kết 76 luận số 2734/KL-TTCP ngày 25/9/2015 của Thanh tra Chính phủ về Việc chấp hành quy định pháp luật về quản lý, sử dụng vốn và tài sản tại Tổng công ty Lương thực miền nam. - Chia gói thầu lớn thành các gói thầu dưới 5 tỷ đồng để hướng đến các nhà thầu nhỏ, thường là các nhà thầu địa phương đã có mối quan hệ, không phải cạnh tranh với các nhà thầu lớn. Thực trạng này xuất phát từ quy định tại khoản 3 Điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP. Tuy nhiên, trường hợp này cũng hay được các chủ đầu tư vận dụng để tạo ra việc phân chia gói thầu với quy mô không hợp lý. - Chia nhỏ 1 gói thầu thuộc hạn mức phải đấu thầu rộng rãi thành các gói thầu nhỏ thuộc hạn mức được chỉ định thầu để tiến hành chỉ định thầu, giảm cạnh tranh trong đấu thầu, theo quy định đây là hành vi bị cấm trong đấu thầu. Theo thống kê của nghiên cứu sinh trên một số Báo Đấu thầu trong giai đoạn 2014 đển nay cho thấy có khá nhiều trường hợp chia nhỏ gói thầu chưa hợp lý thời gian qua. Dự án Xây dựng mới các trạm biến áp quận Nam Từ Liêm giai đoạn 1 (năm 2016) chia nhỏ 03 gói thầu có nội dung tương tự như nhau về kỹ thuật để thực hiện chỉ định thầu. Gói thầu Hoàn trả hè đường công trình xây dựng mới các trạm biến áp khu vực Mễ Trì, Phú Đô, Xuân Phương có giá gói thầu là hơn 633,8 (triệu đồng); Gói thầu Hoàn trả hè đường công trình xây dựng mới các Trạm biến áp khu vực Đại Mỗ, Mỹ Đình có giá gói thầu là 528,1 (triệu đồng); Gói thầu Hoàn trả hè đường công trình xây dựng mới các Trạm biến áp khu vực Mễ Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Mỹ Đình, Cầu Diễn có giá gói thầu là 767,9 (triệu đồng). Nếu gộp 03 gói thầu này lại thành 01 gói thầu thì giá gói thầu là: 1929,8 (triệu đồng) (lớn hơn hạn mức 01 tỷ đồng) thì phải thực hiện đấu thầu rộng rãi. Một số dự án khác có quy mô nhỏ cũng xảy ra trường hợp chia nhỏ gói thầu để chỉ định thầu như Dự án chỉnh trang cáp thông tin đi trên trụ điện do Công ty Điện lực Củ Chi là chủ đầu tư, Dự án Phát triển đô thị loại vừa Việt Nam - Tiểu dự án Thành phố Vinh (2) Tính kết nối trong công tác phân chia gói thầu còn nhiều bất cập - Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc phân chia gói thầu xây dựng trong dự án xuất phát từ tính chất kỹ thuật, trình tự thực hiện. Ở một số dự án sử dụng VNN 77 thời gian vừa qua, tiến độ công trình bị chậm trễ do việc phân chia gói thầu mà chưa tính toán hợp lý, chưa tính đến sự kết nối giữa các gói thầu. Trường hợp dự án phân chia 01 gói thầu, nếu lựa chọn được nhà thầu tổng thầu có năng lực sẽ mang lại hiệu quả cao hơn về tiến độ do tổng thầu hoàn toàn chủ động về các nguồn lực thực hiện trong các giai đoạn, chủ động có kế hoạch phân bổ, điều tiết hợp lý. Công trình vì thế sẽ có được sự đồng bộ trong hệ thống quản lý chất lượng, giảm thiểu việc gián đoạn do chuyển giao giữa các nhà thầu ở bước sau trong trường hợp chia nhiều gói thầu. Về chi phí cũng đạt hiệu quả tốt hơn bởi tiết kiệm được các phần chi phí quản lý chung cho toàn bộ công trình. - Một số trường hợp chủ đầu tư cố ý chia nhỏ gói thầu để nhà thầu ruột mặc dù không đáp ứng yêu cầu năng lực nhưng vẫn được giao thầu, dẫn đến việc khi thi công đồng loạt các gói thầu nhỏ, nhà thầu sẽ không đảm bảo tiến độ, chất lượng. Trong một số trường hợp phân chia nhiều gói thầu trong cùng dự án dẫn đến trường hợp nhà thầu thi công xây dựng ở giai đoạn sau phải chờ nhà thầu thi công giai đoan trước, hoặc biện pháp thi công và chất lượng thi công của nhà thầu giai đoạn trước gây ảnh hưởng đến giai đoạn sau như: các vị trí chờ kỹ thuật không hợp lý, thiết bị nâng hạ (cần trục tháp, vận thăng) đã được lắp đặt của nhà thầu ở giai đoạn thi công trước phải tháo dỡ để lắp đặt thiết bị thi công của nhà thầu giai đoạn sau. Đặc biệt, đối với công trình có thiết kế hệ thống kỹ thuật công trình hiện đại như những tòa nhà thông minh với hệ thống điều khiển tự động thì rất cần thiết có sự đồng bộ trong các giai đoạn thi công để đảm bảo hiệu quả vận hành của dự án. b. Chưa quy định cụ thể việc áp dụng hình thức hợp đồng xây dựng phù hợp với tính chất, loại công việc theo đặc thù của gói thầu Như đã phân tích ở trên về tầm quan trọng của công tác phân chia gói thầu xây dựng thì việc quy định, hướng dẫn việc lựa chọn áp dụng hình thức HĐXD phù hợp với đặc thù của gói thầu cũng đóng vai trò quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, trong hệ thống quy định pháp luật hiện nay vẫn bỏ trống hướng dẫn chi tiết nội dung này, dẫn đến trong thực tế phát sinh việc áp dụng hình thức HĐXD không phù hợp với đặc thù nguồn vốn, tiến độ hay yêu cầu kỹ thuật của 78 gói thầu. Thực trạng này đã dẫn đến rất nhiều hệ luỵ tiêu cực về hiệu quả kinh tế cũng như rủi ro pháp lý cho các chủ thể tham gia HĐXD. Đặc biệt nổi cộm đó là tình trạng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ và đồng bộ của pháp luật đối với HĐXD theo hình thức tổng thầu EPC. Hợp đồng EPC thông thường chỉ phù hợp với dự án đầu tư xây dựng hoặc công trình có quy mô lớn, có hạ tầng và các hệ thống phức tạp như lĩnh vực năng lượng, dầu khí, khai khoáng Các hợp đồng EPC thường phức tạp và yêu cầu có trình độ chuyên môn, kiến thức đặc biệt, có các phương án công nghệ linh hoạt, sáng tạo. Thực tiễn quản lý về hợp đồng EPC thời gian qua ở Việt Nam cho thấy, đối với những dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp hoặc có sự tham gia của nhà thầu nước ngoài, thường có những rủi ro pháp lý tranh chấp về phát sinh chi phí thực hiện hợp đồng EPC, kéo dài tiến độ dự án, dự án Nhiệt điện Duyên Hải 3 mở rộng, dự án nhiệt điện Sông Hậu 1 và dự án nhiệt điện Long Phú 1 Đặc biệt là hậu quả gây thất thoát, lãng phí không nhỏ VNN tại một số dự án đầu tư xây dựng nhiên liệu sinh học tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Trong thời gian qua, việc áp dụng phổ biến hình thức hợp đồng EPC trong khi các điều kiện để đảm bảo tính khả thi của việc thực hiện hợp đồng EPC lựa chọn chưa đáp ứng như năng lực về tài chính, kỹ thuật, yếu tố con người của nhà thầu không phù hợp Điều này đã để lại những hệ lụy không dễ khắc phục cho nền kinh tế, kéo dài thời gian thực hiện dự án, lãng phí các nguồn lực. c. Một số vấn đề nảy sinh trong thực tiễn quản lý nhà nước về hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước chưa được pháp luật quy định Bên cạnh những khoảng trống lớn ở trên về quy định pháp luật đối với HĐXD sử dung VNN, thì trong thực tiễn cũng đã xuất hiện một số nội dung chưa được pháp luật quy định cụ thể, đó là: (1) Theo quy định của Luật Xây dựng năm 2014 và Nghị định số 37/2015/NĐ- CP, chưa có quy định riêng cho những HĐXD thực hiện những gói thầu đơn giản, có quy mô nhỏ, vì vậy các HĐXD cho gói thầu đơn giản, quy mô nhỏ vẫn phải tuân thủ đầy đủ các nội dung như một hợp đồng quy mô lớn, phức tạp hoặc thông thường. 79 Điều này dẫn đến làm phức tạp hóa đối tượng hợp đồng này, việc QLNN của các cơ quan chức năng đối với đối tượng này vẫn phải đảm bảo đầy đủ các nội dung và quy trình như đối với các HĐXD thông thường. Bên cạnh đó các chủ thể tham gia và có liên quan đến loại HĐXD này vẫn phải đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật như đối với các HĐXD thông thường. Đây là một lãng phí lớn về thời gian và nguồn lực của cả cơ quan QLNN và các chủ thể khi tham gia HĐXD sử dụng VNN. (2) Theo quy định của Nghị định số 37/2015/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn chưa có quy định cụ thể về việc lựa chọn hình thức giá HĐXD phù hợp với đặc thù của gói thầu. Đây là một nội dung kinh tế - kỹ thuật rất quan trọng quyết định đến hiệu quả của HĐXD. Theo quy định thì việc lựa chọn hình thức giá HĐXD đã được quyết định trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu của từng gói thầu trong cả dự án và điều kiện áp dụng các loại giá HĐXD được quy định tại khoản 5, Điều 15 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP cho các loại hợp đồng trọn gói; hợp đồng theo đơn giá cố định; hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh và giá hợp đồng theo thời gian. Tuy nhiên, trong thực tế theo số liệu của Kiểm toán nhà nước về kết quả kiểm toán tại 33 tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước (Bảng PL2.2 Phụ lục 2) về nội dung sử dụng vốn cho đầu tư xây dựng thì hầu hết các gói thầu đều áp dụng hình thức hợp đồng theo giá điều chỉnh và kết quả là HĐXD thường được điều chỉnh giá lớn hơn giá gói thầu được phê duyệt và cũng là một trong nguyên nhân dẫn đến phổ biến tình trạng điều chỉnh tổng mức đầu tư của nhiều dự án sử dụng VNN thời gian qua. Thực trạng này nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nguyên nhân khách quan là sự biến động không ngừng của thị trường xây dựng, ảnh hưởng trực tiếp đến giá vật liệu xây dựng, giá nhân công,... nguyên nhân chủ quan đó là sự thay đổi thường xuyên của quy định liên quan trực tiếp đến HĐXD như xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng, về HĐXD, thanh toán vốn đầu tư xây dựng,... của các cơ quan QLNN trong quá trình thực hiện nhiệm vụ QLNN theo lĩnh vực được phân công. Tuy nhiên không thể phủ nhận thực tế là phần lớn các gói thầu sử dụng VNN tại các doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư xây dựng thời gian qua, đặc biệt là đối với loại hình 80 công trình dân dụng hoàn toàn có thể áp dụng hình thức HĐXD trọn gói đối với trường hợp thi công xây dựng có quy mô nhỏ, thời gian xây dựng ngắn và khi đã đảm bảo các điều kiện nhưng Chủ đầu tư vẫn lựa chọn áp dụng hình thức HĐXD theo đơn giá điều chỉnh gây ra lãng phí rất lớn về thời gian, nguồn lực để thực hiện các thủ tục để điều chỉnh như: lập dự toán điều chỉnh, thẩm tra, thẩm định, phê duyệt dự toán điều chỉnh, thương thảo, ký kết phụ lục HĐXD,... 3.1.3.2. Một số tồn tại, bất cập về chất lượng của các quy định trong hệ thống pháp luật về hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước bộc lộ qua thực tế áp dụng các quy định pháp luật của các bên liên quan Thực trạng chất lượng các quy định, chế tài trong hệ thống pháp luật về HĐXD sử dụng VNN được phản ảnh qua các vướng mắc của các chủ thể và các bên liên quan khi tham gia HĐXD trong quá trình chấp hành các quy định pháp luật về HĐXD sử dụng VNN. Theo báo cáo tổng kết công tác hàng năm của Cục Kinh tế xây dựng - Bộ Xây dựng từ năm 2015 đến 2019, nội dung thực hiện nhiệm vụ trả lời văn bản hướng dẫn các vướng mắc trong áp dụng các quy định pháp luật về HĐXD các chủ thể tham gia HĐXD và các bên liên quan thì được đánh giá với nội dung quy định chi tiết về HĐXD của Luật Xây dựng năm 2014 tại Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 quy định chi tiết về HĐXD và các thông tư hướng dẫn (Bảng 3.2) đã cụ thể được các loại hợp đồng, phân định được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng, cũng như các chủ thể có liên quan. Nhìn chung, các quy định pháp luật được ban hành, hoành thiện theo quá trình thực tiễn đã được các chủ thể có liên quan đánh giá là đã góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng và chi phí của dự án đầu tư xây dựng công trình, góp phần chống thất thoát, lãng phí, giảm đáng kể nợ đọng vốn trong xây dựng; đảm bảo tính công bằng giữa các chủ thể và nâng cao hiệu quả đầu tư của dự án đầu tư xây dựng công trình. Tuy nhiên, trong thời gian áp dụng vừa qua, các quy định này đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp với thực tiễn, tạo ra các vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định, phần nào đã ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng tại nhiều dự án đầu tư xây dựng, các vướng mắc này được tổng kết cơ bản như sau: 81 Bảng 3.2. Tổng hợp nội dung các vướng mắc cơ bản trong áp dụng các quy định pháp luật về hợp đồng xây dựng TT Nội dung các vướng mắc chủ yếu khi áp dụng quy định về HĐXD Tỷ lệ phần trăm (%) trên tổng số lượng văn bản trả lời các chủ thể tham gia HĐXD 2015 2016 2017 2018 2019 1 Về điều chỉnh HĐXD 8,3 15,6 12,6 26,5 24,1 2 Về điều chỉnh giá HĐXD 61,2 69,5 58,3 42,1 39,7 3 Về tạm ứng,
File đính kèm:
- luan_an_nang_cao_hieu_luc_quan_ly_nha_nuoc_ve_hop_dong_xay_d.pdf
- Trích yếu luận án.pdf
- tóm tắt luận án tiếng Việt.pdf
- tóm tắt luận án tiếng Anh.pdf
- Tính mới tiếng việt.pdf
- Tính mới tiếng anh.pdf