Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của biến dạng nút khung tới phản ứng của khung bê tông cốt thép chịu động đất
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của biến dạng nút khung tới phản ứng của khung bê tông cốt thép chịu động đất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của biến dạng nút khung tới phản ứng của khung bê tông cốt thép chịu động đất
trong tình huống thiết kế động đất P = 300 kN. Hình 3.11 Sơ đồ xác định độ bền lý tưởng của mẫu thí nghiệm 62 Lực ngang tác động lên mẫu thí nghiệm tại đỉnh phần cột trên đổi chiều theo theo chu kỳ và có độ lớn thay đổi trong quá trình thí nghiệm. Tải trọng này có mục đích tạo ra các lực mô phỏng các cấp biến dạng không đàn hồi cao có thể xẩy ra ở nút khung trong quá trình chịu chuyển động nền đất mạnh. Lịch sử quá trình chất tải ngang được cho ở Hình 3.12, gồm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là giai đoạn kiểm soát lực và giai đoạn thứ hai là giai đoạn kiểm soát chuyển vị. 1. Giai đoạn kiểm soát lực Trong giai đoạn này, ở hai chu kỳ đầu tiên mẫu thí nghiệm chịu tác động lực ngang V = 0,75Vi = 0,75 x 59,23 = 45 kN. Mục đích của các chu kỳ chất tải này nhằm xác định chuyển vị chảy dẻo ∆y và độ cứng thực tế Kt. nghiệm của các mẫu thí nghiệm. Chuyển vị chảy dẻo ∆y,t.nghiem được xác định bằng cách ngoại suy chuyển vị đo được ở cấp chất tải này (Hình 3.10b). Cụ thể 331,nghiem.th,y (3.8) inghiemt V K 75,0 . (3.9) Bảng 3.5 Các kết quả thí nghiệm thu được từ giai đoạn kiểm soát lực Mẫu thí nghiệm NK1 NK2 NK3 0,75Vi (kN) 45 45 45 ∆* (mm) 13 13,5 20,25 ∆y,t.nghiem =1,33∆* 17,3 18 27 Kt.nghiem (kN/cm) 34.6 33.3 22.2 Các số liệu thu được từ giai đoạn này được cho trong Bảng 3.5. 2. Giai đoạn kiểm soát chuyển vị Sau khi xác định được chuyển vị chảy ∆y,t.nghiem từ các chu kỳ đàn hồi, mẫu thí nghiệm chịu một sự gia tăng dần chuyển vị cưỡng bức Δ tương ứng với độ dẻo chuyển Hình 3.12 Lịch sử quá trình chất tải 63 vị ngang µ∆ = ∆/∆y,t.nghiem. Mục tiêu của việc gia tăng dần độ dẻo cưỡng bức lên mẫu thử nhằm xác định một cách gần đúng nhất độ dẻo yêu cầu khi xuất hiện phá hoại ở mẫu thử, cũng như để quan sát được ứng xử cả trước và sau khi phá hoại. Ở giai đoạn này, các mẫu thí nghiệm bị cưỡng bức chuyển vị ngang với quy trình như sau: hai chu kỳ đầu tiên 3 và 4 với µ∆ = 1,5, hai chu kỳ tiếp theo 5 và 6 với µ∆ = 2, các chu kỳ tiếp theo 8 và 9, 11 và 12, 14 và 15 ... lần lượt chịu các chuyển vị cưỡng bức tương ứng µ∆ = 3, 4, 5...; giữa các cặp chu kỳ này là một chu kỳ trung gian ký hiệu 7, 10, 13 ... chịu một chuyển vị cưỡng bức ứng với độ dẻo µ∆ = 0,75. Mục đích của các chu kỳ trung gian này là để cho các mẫu thí nghiệm và các thiết bị thí nghiệm ổn định trở lại sau các chu kỳ không đàn hồi lớn xẩy ra trước đó (Hình 3.12). Thí nghiệm được tiến hành cho tới khi mẫu thử mất khả năng chịu tải 20% tải trọng cực hạn. Việc thực hiện thí nghiệm tiếp tục sau giới hạn này sẽ cho thấy khả năng biến dạng dẻo yêu cầu cao của mẫu thử và giúp cho việc nhận diện các nguyên nhân gây ra phá hoại hoặc mất khả năng chịu lực của mẫu thí nghiệm. Các thí nghiệm được dừng lại ở các cấp dẻo sau: µ∆ = 7 ở chu kỳ 19 cho mẫu NK1, µ∆ = 5,5 ở chu kỳ 17 cho mẫu NK2 và µ∆ = 5 ở chu kỳ 15 cho mẫu NK3. 3.5. CÁC SỐ LIỆU THÍ NGHIỆM VÀ SƠ ĐỒ BỐ TRÍ CÁC THIẾT BỊ ĐO 3.5.1. Các số liệu thí nghiệm Để đạt được mục tiêu thí nghiệm dự kiến, các số liệu sau sẽ được thu thập trong quá trình thí nghiệm ở mỗi cấp tăng và dỡ tải trong mỗi chiều âm và dương của tải trọng. 1 - Lực tác động ngang ở đầu mút cột; 2 - Chuyển vị ngang ở đầu mút cột, ngang cao trình tác động lực; 3 - Biến dạng cắt của nút khung 4 - Biến dạng cắt và uốn của dầm 5 - Chuyển vị xoay của dầm và cột 6 - Biến dạng của bê tông và cốt thép tại các vùng tới hạn của dầm, cột và trong nút khung. 7 - Quá trình hình thành, phát triển và mở rộng các khe nứt trong bê tông ở các vùng xung quanh nút khung và trong nút khung. 64 3.5.2. Các thiết bị đo Các thiết bị đo sau đây đã được sử dụng để thu thập các số liệu thí nghiệm: 1 - Các đầu đo LVDT (Linear Variable Differential Transformers) (Hình 3.13a); 2 - Các phiến đo biến dạng có độ giãn dài cao (Hình 3.13b); 3 - Thiết bị đo chuyển vị ngang chuyên dùng; 4 - Máy TDS 530 và máy tính ghi dữ liệu (Hình 3.13c); 5 - Các thiết bị kiểm soát kích thủy lực. Hình 3.13 Các thiết bị đo: a) Lắp đặt đầu đo LVDT b) Các phiến đo biến dạng; c) Máy đọc tín hiệu TDS 530: 30 kênh 3.5.3. Sơ đồ bố trí các thiết bị đo và cách sử dụng các dữ liệu thu được 1 - Lực tác động ngang ở đầu mút cột và chuyển vị ngang ở đầu mút cột, ngang cao trình tác động lực. Sơ đồ bố trí kích thủy lực được thể hiện ở Hình 3.9. Các số liệu về lực tác động ngang và chuyển vị ngang thu được qua cảm biến đo chuyển vị ngang và đầu đo chuyển vị ngang LVDT trong quá trình thí nghiệm cho phép tính toán được lực cắt dầm và góc lệch của dầm và cột mẫu thí nghiệm khi biến dạng (Hình 3.8b): • Lực cắt dầm trong trường hợp không xét tới hiệu ứng bậc hai: i V h F l (3.10) • Góc lệch của cột tương đối theo tầng, gọi là góc (độ) lệch tầng (Hình 3.8b): h (3.11) 2 - Biến dạng cắt của nút khung và của dầm Các đầu đo LVDT được gắn trên các thanh thép đường kính 6mm chôn sâu vào trong bê tông để tránh bị mất dữ liệu do bê tông ở mặt mẫu thí nghiệm có thể bị 65 bong tách trong quá trình thí nghiệm. Chúng được bố trí tại các vị trí có khả năng xác định sự góp phần của dầm, cột và nút vào biến dạng tổng thể của khung. (a) (b) (c) Hình 3.14 Sơ đồ bố trí các đầu LVDT đo biến dạng cắt của nút khung và dầm Để đo các biến dạng cắt của nút khung và của các dầm sử dụng các đầu đo LVDT được bố trí như ở Hình 3.14a,b. Biến dạng cắt của nút khung là hiệu giữa góc xoay theo phương đứng α và góc xoay theo phương ngang được tính toán theo phương trình sau (Hình 3.14c): 1 2 sin 2 tb D (3.12) trong đó: D – chiều dài đường chéo panô nút khung trước khi biến dạng (khoảng cách giữa hai điểm gắn LVDT theo phương đường chéo); tanθ = b/h với b và h tương ứng là khoảng cách giữa các điểm gắn LVDT theo phương ngang và đứng. 3 - Chuyển vị xoay và biến dạng uốn của dầm và cột Các đầu đo LVDT dùng để xác định biến dạng uốn và chuyển vị xoay của dầm và cột được bố trí như trong Hình 3.15a và b tại các vị trí khớp dẻo có khả năng xuất hiện. Vị trí các đầu đo LVDT dùng để xác định chuyển vị xoay của dầm được thể hiện ở Hình 3.15a. (a) (b) Hình 3.15. Vị trí các đầu đo LVDT dùng để đo chuyển vị xoay của dầm và cột 66 Các đầu đo được đặt ở cả dầm bên trái và phải của nút khung cũng như ở mặt trên và dưới dầm, tại ba tiết diện cách mặt cột lần lượt là 50mm, 300mm và 550mm. Vị trí các đầu đo LVDT dùng để xác định chuyển vị xoay của cột được thể hiện ở Hình 3.15b. Ở phần cột trên nút khung, các đầu đo được đặt tại hai tiết diện cách mặt trên của dầm lần lượt bằng 100 mm và 450 mm. Ở phần cột dưới, các đầu đo được đặt cách mặt dưới dầm 100 mm. Biến dạng uốn của dầm (cột) được biểu thị qua độ cong của trục dầm (cột), hoặc chuyển vị xoay các tiết diện dầm (cột). Góc xoay θ của tiết diện dầm (cột) được tính toán theo biểu thức sau: θ = (∆1 + ∆2)/d (3.13) trong đó ∆1 và ∆2 – tương ứng là độ dãn dài và co ngắn đo ở mặt bị kéo và bị nén của dầm (cột), d – khoảng cách theo phương đứng đối với dầm và theo phương ngang đối với cột giữa hai đầu đo. Độ cong trung bình của cột và dầm được xác định bằng cách chia chuyển vị xoay tương đối đo được tại mỗi tiết diện cho chiều dài dọc theo cấu kiện mà trên đó nó xuất hiện. 4 - Biến dạng của cốt thép tại các vùng tới hạn của dầm, cột và trong nút khung. Các biến dạng này được đo bằng cách sử dụng các phiến đo biến dạng (electrical strain gauges) có độ giãn dài cao. Vị trí của các phiến đo trên cốt thép được thể hiện ở Hình 3.16. Mục đích của việc đo biến dạng này nhằm xác định các chuyển vị và biến dạng của các thanh cốt thép chịu lực trong vùng nút khung và xung quanh nút khung trong các giai đoạn chất tải. Việc thí nghiệm đã được thực hiện tại Phòng thí nghiệm động đất – Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng (IBST) – Bộ Xây Dựng. (a) Mẫu NK1 (b) Mẫu NK2,3 Hình 3.16 Vị trí các phiến đo biến dạng cốt thép 67 3.6. ỨNG XỬ CỦA CÁC MẪU THÍ NGHIỆM 3.6.1. Mẫu thí nghiệm NK1. 1. Sự phá hoại của mẫu thí nghiệm Mẫu thí nghiệm NK1 được thiết kế theo đúng các quy định của TCVN 9386:2012, dựa trên sơ đồ phá hoại khung được chọn là sơ đồ phá hoại dẻo. Với sơ đồ phá hoại này, các khớp dẻo buộc phải xuất hiện trước hết ở dầm, phá hoại cắt xẩy ra sau phá hoại uốn và nút khung là bộ phận bị phá hoại cuối cùng sau dầm và cột. Do đó khác với các mẫu thí nghiệm NK2 và NK3, cốt thép đai trong vùng nút khung và ở đầu các mút cột được bố trí nhiều và dày hơn, lượng cốt thép dọc trong cột cũng nhiều hơn (xem Bảng 3.1). Tỷ số giữa mômen chảy dẻo lý thuyết của cột và dầm ở mẫu NK1: Myi,c/Myi,d = 1,29 lớn hơn mẫu NK2 (1,02) và NK3 (1,12) (Bảng 3.4). Kết quả thí nghiệm cho thấy, mẫu NK1 có khả năng chịu được 19 chu kỳ chất – dỡ tải so với 17 chu kỳ của mẫu NK2 và 14 chu kỳ của mẫu NK3, đạt độ dẻo tối đa µ∆ = 7, chịu được chuyển vị ngang cưỡng bức ∆ = 121 mm ở cả chiều dương lẫn chiều âm tương (ứng với góc lệch tầng bằng 4,03%), tải trọng V = 63 kN ở chiều dương và 56 kN ở chiều âm. Hình 3.17a và b là hình ảnh các khe nứt ở cuối chu kỳ 19 chiều dương và chiều âm, lúc kết thúc thí nghiệm. Để dễ quan sát, hình dạng phát triển của các khe nứt đã được vẽ kèm theo bằng bút phớt, màu đỏ cho chiều dương và màu xanh cho chiều âm. (a) Chiều dương (b) Chiều âm Hình 3.17 Hình ảnh các khe nứt ở mẫu NK1 lúc kết thúc thí nghiệm - Chu kỳ 19 68 Hình ảnh các khe nứt ở mẫu thí nghiệm NK1 có một số các đặc điểm sau: • Các đầu mút dầm kế cận các mặt cột có nhiều khe nứt thẳng góc hoặc gần thẳng góc với trục dầm, phân bố gần đều trên một đoạn chiều dài khá lớn, gần gần bằng 2hd (hd - chiều cao tiết diện dầm). Các khe nứt này xuất hiện gần như đối xứng ở mặt trên và dưới dầm, kéo dài và nối với nhau dưới tác động đổi chiều của tác động, tạo nên các khe nứt thẳng góc chạy suốt chiều cao dầm. Trong số các khe nứt đó, khe nứt có bề rộng lớn nhất nằm tại tiết diện sát mặt cột. • Các vùng cột trên và dưới nút khung, cũng xuất hiện các khe nứt uốn vuông góc với trục cột ở khoảng cách gần bằng nhau ở hai bên mặt cột do tác động đổi chiều. So với dầm, các khe nứt này có số lượng ít hơn với bề rộng không lớn, nằm rải rác trên một đoạn chiều dài cột bằng 1,5hc (hc - chiều cao tiết diện cột). • Vùng nút khung là một mạng lưới các khe nứt xiên chạy song song với phương đường chéo của pano nút ở khoảng cách gần giống nhau. Dưới tác động đổi chiều, các khe nứt theo hai phương giao nhau phân chia mặt nút khung thành các ô hình quả trám.Căn cứ vào các đặc điểm phá hoại của dầm, cột và nút khung có thể kết luận rằng, phá hoại của mẫu NK1 là phá hoại dẻo với các khớp dẻo uốn xuất hiện ở các dầm sát mặt cột. Các đầu cột cũng xuất hiện biến dạng uốn nhưng ở thời điểm muộn hơn và mức độ nhỏ hơn so với dầm. Phá hoại vùng nút khung cũng thuộc dạng phá hoại dẻo và có biến dạng tương đối đều trên toàn bộ vùng nút. Hình ảnh các khe nứt cũng cho thấy, cơ cấu phá hoại của nút khung thuộc mẫu NK1 hoàn toàn giống như kết quả thí nghiệm của nhiều tác giả khác đã thực hiện trước đây (xem Hình 1.11a) [41][52]. 2. Quá trình phát triển các khe nứt. Ở chu kỳ chất - dỡ tải số 2 khi tác động V = 45 kN (tương ứng với góc lệch tầng ∆/h = 0,043%), các khe nứt rất nhỏ và mảnh bắt đầu xuất hiện tại hai đầu dầm trong đoạn có chiều dài bằng 2hd kể từ mặt cột. Các khe nứt này chủ yếu là các khe nứt uốn theo phương thẳng đứng vuông góc với trục dầm và một vài khe nứt xiên rất dốc do kết hợp giữa cắt và uốn xuất hiện gần như hoàn toàn đối xứng khi đổi chiều tác động. Một vài khe nứt uốn rất nhỏ cũng xuất hiện ở cột tại vùng kế cận 69 nút. Các khe nứt này tiếp tục phát triển và mở rộng hơn (những vẫn ở trong giới hạn cho phép trong điều kiện sử dụng bình thường) ở các chu kỳ chất – dỡ tải 3 và 4 khi mẫu thử đạt độ dẻo chuyển vị µ∆ = 1,5 (tương ứng với góc lệch tầng ∆/h = 0,085%), lực cắt tầng V = 70,5 kN theo chiều dương và 61,5 kN theo chiều âm. Ở đầu mút cột xuất hiện thêm một số khe nứt uốn rất mảnh, khó quan sát. Trong vùng các góc trên và dưới ở phía bên trái của pano nút khung xuất hiện một vài khe nứt nứt xiên vuông góc với phương các đường chéo (Hình 3.18a và b). (a) Chiều dương (b) Chiều âm Hình 3.18. Hình ảnh các khe nứt ở mẫu NK1 - Chu kỳ 4 (a) Chiều dương (b) Chiều âm Hình 3.19. Hình ảnh các khe nứt ở mẫu NK1 - Chu kỳ 11 Ở các chu kỳ chất dỡ tải tiếp theo, khi nâng cấp độ dẻo chuyển vị lên 2, 3 và 4 các khe nứt ở cột hầu như không phát triển và mở rộng, cột làm việc hoàn toàn đàn hồi. Biến dạng dẻo của mẫu thí nghiệm tập trung vào vùng đầu mút dầm kế cận nút biểu hiện qua việc mở rộng các khe nứt cũ và xuất hiện thêm nhiều khe nứt uốn mới. Các khe nứt ở vùng tiếp giáp với hai bên mặt cột, mở rộng và kéo dài, nối với các khe nứt ở chiều tác động ngược lại. Trong vùng nút khung xuất hiện nhiều khe 70 nứt chạy theo các phương đường chéo của panô nút khung. Các khe nứt xiên này giao nhau tạo thành những ô hình thoi, trong khi đó các khe nứt xiên ở góc xuất hiện trước đây ở chu kỳ 4 khép lại. Hình 3.19a và b là hình ảnh các khe nứt của mẫu NK1 ở chu kỳ 11 khi độ dẻo chuyển vị µ∆ = 4, chuyển vị ngang ∆ = 69,2 mm (tương ứng với góc lệch tầng ∆/h = 2,3%), lực cắt tầng đạt giá trị lớn nhất V = 77,2 kN theo chiều dương và 65 kN theo chiều âm. 3.6.2. Mẫu thí nghiệm NK2 1. Sự phá hoại của mẫu thí nghiệm Tương tự như mẫu NK1, mẫu thí nghiệm NK2 được trích xuất từ một khung chịu các hệ quả tác động trong tình huống thiết kế động đất theo TCVN 9386:2012 như mẫu NK1, nhưng lại được thiết kế và cấu tạo theo tiêu chuẩn thiết kế kết cấu BTCT không kháng chấn (TCVN 5574: 2012). Như vậy, khác với mẫu NK1, các bộ phận của mẫu NK2 (cột và dầm) được thiết kế theo khả năng chịu lực (uốn và cắt) truyền thống. Trong điều kiện này, sự phá hoại uốn và cắt của dầm và cột có thể xẩy ra độc lập với nhau, không theo một trình tự định trước như mẫu NK1, nghĩa là nguy cơ xẩy ra phá hoại giữa uốn và cắt, cũng như giữa dầm và cột là hoàn toàn giống nhau. Kết quả tính toán lý thuyết ở Bảng 3.4 cho thấy, tỷ số giữa mômen chảy dẻo lý thuyết của cột và dầm ở mẫu NK2: Myi,c/Myi,d = 1,02. Điều này càng khẳng định các nguy cơ trên là hoàn toàn hiện hữu. Cũng theo quy định của TCVN 5574:2012, cốt thép đai trong vùng nút khung được cấu tạo tương tự như vùng đầu mút cột liền kề. Với quy định này, hàm lượng cốt thép đai trong vùng nút khung của mẫu NK2: ρw = 0,00101 nhỏ thua hơn 3,6 lần khi so sánh với ρw = 0,00368 của mẫu NK1 (Bảng 3.1). Hình 3.20a và b là hình ảnh các khe nứt của mẫu NK2 ở chu kỳ chất - dỡ tải 17 lúc kết thúc thí nghiệm. Ở chu kỳ này, mẫu thí nghiệm đạt độ dẻo tối đa µ∆ = 5,5 tương ứng với chuyển vị cưỡng bức ∆ = 108 mm (độ lệch tầng Δ/h = 3,6%) và lực cắt tầng V = 75 kN cho chiều dương và 63 kN cho chiều âm. Các hình ảnh này cho thấy sự phá hoại ở vùng nút khung và xung quanh nút khung của mẫu NK2 hoàn toàn khác với mẫu NK1, với các đặc điểm cơ bản sau: 71 • Các khe nứt uốn ở các dầm hai bên nút khung xuất hiện ít hơn, trên một đoạn chiều dài nhỏ hơn (gần bằng 1,5hd) và phần lớn không kéo dài để nối với các khe nứt ở mặt đối diện. Bên cạnh đó xuất hiện nhiều khe nứt xiên trong vùng dầm kế cận nút ở cả trên và dưới dầm. Khe nứt ở tiết diện sát sát hai bên mặt cột có bề rộng nhỏ thua so với mẫu NK1. • Các khe nứt uốn trong cột trên và dưới nút xuất hiện rất ít và rất nhỏ, chiều dài không lớn và hầu như không mở rộng trong quá trình gia tải. • Ở bốn góc của panô nút có nhiều khe nứt vuông góc và song song với phương đường chéo. Các khe nứt này giao nhau thành các ô hình bình hành, tập trung chủ yếu ở gần hai cạnh nút khung kế cận đầu mút dầm và không lan sâu vào vùng giữa nút. Do đó một vùng rộng lớn hình quả trám nằm giữa nút giữ nguyên không bị biến dạng, trong khi ở vùng mép lại bị bóc tách rất mạnh thành hai dải bê thông thẳng đứng dọc theo cốt thép cột, chạy hết toàn bộ chiều cao nút và lan một phần sang cột. (a) Chiều dương (b) Chiều âm Hình 3.20. Hình ảnh các khe nứt mẫu NK2 khi kết thúc thí nghiệm - Chu kỳ 17 Như vậy, sự phá hoại của mẫu thí nghiệm NK2 thuộc loại phá hoại giòn. Biến dạng của các dầm và cột quanh nút khung không phải là một dạng biến dạng uốn hoàn chỉnh. Phần lớn biến dạng của các cấu kiện này gần như tập trung vào vùng xung quanh lõi nút khung. Panô nút khung chủ yếu bị phá hoại nén cục bộ dưới tác động của các cột và dầm. Cơ cấu phá hoại nút khung NK2 không phải là cơ cấu phá hoại đã được nghiên cứu lâu nay và dạng phá hoại của nó cũng hết sức đặc biệt chưa được phản ánh trong các tài liệu chuyên ngành. 72 2. Quá trình phát triển các khe nứt. Ở chu kỳ chất – dỡ tải số 2, khi lực cắt tầng V = 45 kN (tương ứng với góc lệch tầng ∆/h = 0,043%) tại hai đầu dầm trong đoạn có chiều dài bằng 1,5hd kể từ mặt cột xuất hiện các khe khe nứt uốn theo phương thẳng đứng rất nhỏ và mảnh. Ngoài các khe nứt này, ở các chu kỳ tiếp theo 3 và 4 xuất hiện thêm hai khe nứt uốn ở vùng chân cột trên và dưới, cùng một vài khe nứt xiên vuông góc với hai đường chéo ở cả 4 góc của panô nút khung. Các khe nứt này nhìn chung rất nhỏ và mảnh, khó phát hiện. Hình 3.21a và b là hình ảnh các khe nứt xuất hiện ở chu kỳ 4 khi mẫu thử đạt độ dẻo chuyển vị µ∆ = 1,5 chuyển vị ∆ = 27 mm (tương ứng với góc lệch tầng ∆/h = 0,09%) khi lực cắt tầng V = 70 kN theo chiều dương và 58,1 kN theo chiều âm. (a) Chiều dương (b) Chiều âm Hình 3.21. Hình ảnh các khe nứt ở mẫu NK2 - Chu kỳ 4 (a) Chiều dương (b) Chiều âm Hình 3.22. Hình ảnh các khe nứt ở mẫu NK2 - Chu kỳ 11 Ở các chu kỳ chất - dỡ tải tiếp theo, khi mẫu thí nghiệm đạt độ dẻo chuyển vị μΔ = 2, 3 và 4 trong vùng nút khung tiếp tục xuất hiện thêm nhiều khe nứt chéo song song với các khe nứt cũ và vuông góc với hai phương đường chéo của pa nô nút 73 khung. Các khe nứt này phát triển, tiến tới giao nhau và tạo nên các khối dạng hình bình hành ôm lấy vùng lõi nút. Các khe nứt uốn ở cột hầu như không phát triển, còn các khe nứt uốn ở dầm dọc sát hai bên mép cột mở rộng nhưng hẹp hơn so với ở mẫu NK1. Một số khe nứt xiên xuất hiện ở mép dầm nhưng rất nhỏ và ngắn, tập trong chủ yếu tại vùng sát mặt cột. Hình 3.22a và b là hình ảnh các khe nứt xuất hiện ở chu kỳ 11 khi mẫu NK2 đạt độ dẻo chuyển vị µ∆ = 4; ∆ = 72 mm (tương ứng với góc lệch tầng bằng 2,4%), lực cắt tầng V = 77 kN ở chiều âm và 63,3 kN ở chiều âm. 3.6.3. Mẫu thí nghiệm NK3 1. Sự phá hoại của mẫu thí nghiệm. Mẫu thí nghiệm NK3 được trích xuất từ một kết cấu có cấu tạo giống với nhà khung dùng để thiết kế các mẫu thí nghiệm NK1 và NK2, nhưng được thiết kế và cấu tạo hoàn toàn theo tiểu chuẩn thiết kế kháng chấn của Nga SP14.13330-2014 [69]. Do đó, các hệ quả tác động trong tình huống thiết kế động đất cũng như cấu tạo cốt thép của mẫu NK3 về nguyên tắc sẽ khác với các mẫu NK1 và NK3, nhưng kết quả tính toán cho thấy, mẫu NK3 chỉ khác mẫu NK2 ở lực tác động do động đất gây ra nên cốt thép dọc của cột ở mẫu NK3 là 4Φ18 – AII thay cho 4Φ16 – AII của mẫu NK2, còn cốt thép dầm (cốt thép dọc và đai) lẫn cốt đai cột và vùng nút khung hoàn toàn giống mẫu NK2 (do hai tiêu chuẩn TCVN 5574:2012 và SP14.13330- 2014 có cùng một xuất xứ và có nhiều chỗ quy định giống nhau). Hình 3.23a và b là hình ảnh các khe nứt trước khi kết thúc thí nghiệm ở chu kỳ chất – dỡ tải 14 của mẫu NK3. Ở chu kỳ này, mẫu thí nghiệm đạt độ dẻo chuyể
File đính kèm:
- luan_an_nghien_cuu_anh_huong_cua_bien_dang_nut_khung_toi_pha.pdf
- trich yeu luan an Vo Manh Tung.pdf
- tom tat tieng viet Vo Manh Tung.pdf
- tom tat tieng anh Vo Manh Tung.pdf
- tính moi cua luan an tieng viet Vo Manh Tung.pdf
- tính moi cua luan an tieng anh Vo Manh Tung.pdf