Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của nước mưa chảy tràn đến chất lượng nước mặt sông Sài Gòn

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của nước mưa chảy tràn đến chất lượng nước mặt sông Sài Gòn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của nước mưa chảy tràn đến chất lượng nước mặt sông Sài Gòn

ính toán và mô phỏng mực nước tại trạm Nhà Bè và Phú An cho thấy, kết quả hiệu chỉnh kiểm định ở trên đều cho hệ số tương quan theo chỉ tiêu Nash trên 70% nên bộ thông số đó là đủ độ tin cậy để tính toán chất lượng nước tại lưu vực cho năm 2014. 2.5.4.2 Hiệu chỉnh kiểm định mô hình truyền tải và khuếch tán a. Hiệu chỉnh mô hình Số liệu thực đo tháng 5 năm 2014 làm số liệu hiệu chỉnh mô hình chất lượng nước. Kết quả hiệu chỉnh mô hình chất lượng nước được trình bày trong các Hình 2-15 đến 2-18. Hình 2-15: Kết quả tính toán hiệu chỉnh N-NH4+ và thực đo 05/2014 59 Hình 2-16: Kết quả tính toán hiệu chỉnh N-NO3- và thực đo 05/2014 Hình 2-17: Kết quả tính toán hiệu chỉnh BOD5 và thực đo 5/2014 60 Hình 2-18: Kết quả tính toán hiệu chỉnh P-PO43- và thực đo 5/2014 Do hiện trạng số liệu chất lượng nước nói chung và số liệu tại lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai nói riêng không được đo đạc thường xuyên và liên tục, nên kết quả thường không được tối ưu, nhưng vẫn nằm trong sai số cho phép. Cụ thể, kết quả hiệu chỉnh chất lượng nước thể hiện trong các Hình 2-21 đến 2-24 đều cho kết quả hợp lý. b. Kiểm định mô hình Mô hình chất lượng nước được kiểm định với số liệu thực đo tháng 7 năm 2014. Kết quả kiểm định chất lượng nước được thể hiện trong các Hình 2-19 – Hình 2-22 đều cho kết quả hợp lý. 61 Hình 2-19: Kết quả tính toán kiểm định N-NH4+ và thực đo 7/2014 Hình 2-20: Kết quả tính toán kiểm định N-NO3- và thực đo 7/2014 62 Hình 2-21: Kết quả tính toán kiểm định BOD5 và thực đo 7/2014 Hình 2-22: Kết quả tính toán kiểm định PO43- và thực đo 7/2014 Kết quả tính toán hiệu chỉnh và kiểm định mô hình lan truyền ô nhiễm cho thấy không có sự chênh lệch lớn giữa số liệu tính toán và số liệu thực đo. Vì vậy, bộ thông số của mô hình lan truyền ô nhiễm sẽ được sử dụng tính toán cho hiện trạng và kịch bản mưa. 63 2.5.5 Xây dựng các kịch bản nguồn thải Kịch bản hiện trạng (nền) các nguồn ô nhiễm khi không mưa: Do các diễn biến và xu thế chất lượng nước đều được xác định dựa vào mô hình đã được hiệu chỉnh và kiểm định, vì vậy các kịch bản nguồn thải vào hệ thống sông Sài Gòn khi không tính yếu tố mưa bao gồm: Nước thải từ các khu vực đô thị, khu dân cư tập trung trên lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai chưa được xử lý theo tiêu chuẩn trước khi thải vào nguồn nước và nước thải từ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nước thải trong chăn nuôi. Các số liệu nguồn thải kế thừa từ đề tài, dự án như: Nghiên cứu ứng dụng mô hình toán, xác định nguồn ô nhiễm và xác định nguồn gây ô nhiễm cho hạ lưu sông Sài Gòn Đồng Nai, mục 4.1; Danh sách các nguồn thải chính trên lưu vực hệ thống sông Đồng Nai, Văn Phòng Uỷ ban BVMT lưu vực hệ thống sông Đồng Nai, 2014; Khảo sát nguồn ô nhiễm phục vụ cho việc tăng cường kiểm kê nguồn ô nhiễm môi trường nước tại thành phố Hồ Chí Minh (khu vực Củ Chi, Quận 9 và Thủ Đức) và tại Bà Rịa Vũng Tàu (các khu công nghiệp), trong khuôn khổ dự án tăng cường năng lực quản lý môi trường nước tại Việt Nam, do Phân viện KH Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu thực hiện). Kịch bản các nguồn ô nhiễm khi mưa: Để tính toán và mô phỏng mức độ ô nhiễm do tác động của nước mưa chảy tràn đối với sông Sài Gòn, trong luận án này xây dựng kịch bản cho hai trận mưa với cường độ mưa khác nhau trong tháng 5 (đầu mùa mưa) và tháng 8 (mùa mưa). Để tính toán tổng lượng nước mưa trên lưu vực nghiên cứu, tác giả đưa ra các giả thiết sau: - Mưa đồng thời trên toàn lưu vực nghiên cứu với lượng mưa tại các lưu vực như nhau. - Cường độ mưa không đổi trong suốt các trận mưa. - Cường độ thấm xem như đồng đều trên toàn bộ lưu vực. - Lưu lượng tính toán thoát nước mưa, được tính toán theo công thức tổng quát sau (TCXDVN 51:2008): - Q = q * C * F (2.6) 64 Trong đó: + q: cường độ mưa tính toán (l/s.ha), (mm/phút); Cường độ mưa dựa trên số liệu thực đo tại trạm Tân Sơn Hoà ngày 20/5/2014 và ngày 19/8/2014 (Hình 2-23). + C: hệ số dòng chảy; + F: Diện tích lưu vực (ha) Hệ số dòng chảy C phụ thuộc vào loại mặt phủ (xác định theo bảng 3-4 của TCXDVN 51:2008); Căn cứ vào loại mặt phủ và chu kỳ lặp lại trận mưa tại khu vực nghiên cứu, chọn C = 0,75 (khu vực củ chi chọn C = 0,53). Hình 2-23: Biểu đồ phân bố lượng mưa ngày 20/5/2014 và 19/8/2014 65 Kịch bản khi mưa: kịch bản các nguồn ô nhiễm khi mưa với lượng mưa thực R = 36 mm và R = 43,3 mm - Xác định lưu lượng thoát nước mưa chảy tràn dựa vào công thức (2.6); tính tải lượng ô nhiễm của nước mưa chảy tràn cho từng khu vực dựa vào phương pháp khảo sát, đo đạc, phân tích mẫu nước mưa tại các lưu vực đại diện và lưu lượng thoát nước mưa của dòng chảy tràn (phụ lục III.1) 2.6 Kết luận chương 2 Tác giả đã sử dụng phương pháp quan trắc, so sánh cũng như phương pháp xác suất thống kê để đánh giá nước mưa chảy tràn tại các khu vực có mục đích sử dụng đất khác nhau, đánh giá đặc trưng dòng chảy mặt tại các tiểu lưu vực khi mưa và chất lượng nước mặt sông Sài Gòn. Tác giả đã sử dụng phương pháp mô hình cụ thể là bộ mô hình MIKE để đánh giá ảnh hưởng của nước mưa chảy tràn đến chất lượng nước sông. Các mô đun được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: Mô đun thủy lực, tải khuyếch tán và mô đun chất lượng nước. Luận án đã xây dựng bộ cơ sở dữ liệu đầu vào, và tiến hành hiệu chỉnh, kiểm định mô hình, phục vụ tính toán cho kịch bản khi không mưa và khi mưa. Để kiểm định tính đúng đắn của mô hình, sẽ tính toán thử nghiệm cho các trận mưa thực. 66 CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ ĐẶC TRƯNG NGUỒN NƯỚC MƯA CHẢY TRÀN VÀ CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG SÀI GÒN 3.1 Đặc điểm mưa, chế độ thuỷ văn và chất lượng nước 3.1.1. Lượng mưa Mưa là một yếu tố mang tính biến động lớn cả về không gian lẫn thời gian vì mưa chỉ xuất hiện khi có những nhiễu động lực trong khí quyển. Nhiễu động càng mạnh mưa càng lớn, phạm vi nhiễu động lực càng rộng mưa càng nhiều, thời gian nhiễu động càng lâu mưa càng kéo dài. Bởi vậy, trong cùng một thời điểm trên các địa phương ở lân cận nhau nhưng có nơi có mưa, có nơi lại không mưa, có khu vực mưa to, có khu vực lại mưa nhỏ. Khí hậu khu vực nghiên cứu có hai mùa đặc trưng: mùa khô (ứng với hướng gió Đông Bắc) và mùa mưa (ứng với hướng gió Tây Nam). Phân chia giữa mùa mưa – khô ở khu vực nghiên cứu như sau: mùa khô – từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa – từ tháng 5 đến tháng 11. Mùa mưa có lượng mưa trung bình từ 1.300 – 1.950 mm, chiếm từ 93,6 – 96,8% lượng mưa cả năm. Trong năm có hai khoảng thời gian giao mùa: thời gian giao mùa của mùa khô – mùa mưa là các tháng 4 và 5; thời gian giao mùa của mùa mưa – mùa khô là các tháng 11 và 12. Trong thời kỳ 34 năm (1980 -2014) có những năm ngày bắt đầu mưa rất muộn (1998, 2005, 2010) hoặc rất sớm (1999, 2008) nhưng phần lớn trùng vào các thời kỳ mùa mưa (tháng 5 đến tháng 11), mùa khô (tháng 12 đến tháng 4 năm sau). Trong thời kỳ gió mùa Tây Nam thịnh hành (thổi từng đợt từ 5 đến 7 ngày) đem lại lượng mưa rất phong phú cho khu vực nghiên cứu. Tuy nhiên, do tính không ổn định của hoàn lưu cũng như điều kiện địa hình và nhiệt độ bề mặt của mặt đệm mà có sự phân bố không đồng đều trên lưu vực. a. Xu thế biến đổi lượng mưa theo thời gian Để tính toán xu thế, mức độ biến đổi lượng mưa tại khu vực nghiên cứu theo thời gian, một số trạm đo mưa được đưa vào sử dụng tính toán như trạm Tân Sơn Hòa (1980-2014) và Củ Chi (1980-2014). Vị trí của các trạm này gần với các vị trí lấy mẫu nước mưa chảy tràn trong khu vực nghiên cứu. 67 Xu thế biến đổi trạm Tân Sơn Hòa Hình 3-1: Lượng mưa năm (mm) tại Tân Sơn Hòa (1980-2014) Hàm xu thế biến đổi có dạng y = 2,8x – 3611,5 (y là lượng mưa, x là năm), như vậy giai đoạn này lượng mưa có xu thế tăng nhẹ với tốc độ tăng 2,8 mm/năm. Giai đoạn từ 1986 -2005 lượng mưa không có xu hướng tăng rõ rệt, tốc độ chỉ vào khoảng 1,4 mm/năm. Từ 2006-2014 lượng mưa không có xu hướng giảm rõ rệt như trong Hình 3-1. Hình 3-2: Lượng mưa trung bình tháng (mm) tại Tân Sơn Hòa 0 50 100 150 200 250 300 350 Tháng I Tháng II Tháng III Tháng IV Tháng V Tháng VI Tháng VII Tháng VIII Tháng IX Tháng X Tháng XI Tháng XII LƯỢNG MƯA TRUNG BÌNH TẠI TÂN SƠN HOÀ (1980-2014)(mm) 68 Lượng mưa tháng trung bình cao nhất là tháng X, thấp nhất vào các tháng từ tháng I đến tháng III (Hình 3-2). Xu thế biến đổi trạm Củ Chi Trong toàn bộ giai đoạn từ 1980-2014 lượng mưa ở Củ Chi có xu hướng tăng nhẹ, hàm xu thế biến đổi có daṇg y = 1,63x - 1600 (y là lươṇg mưa, x là năm), tốc đô ̣tăng trung bình 1,63 mm/năm. Giai đoạn từ 1986-2005 lượng mưa có xu hướng tăng với tốc độ tăng khoảng 12,3 mm/năm, riêng từ năm 2006-2014 lượng mưa lại có xu hướng giảm mạnh (32,6 mm/năm), đặc biệt trong các năm 2013, 2014 lượng mưa liên tiếp thấp hơn trung bình nhiều năm (Hình 3-3). Hình 3-3: Lượng mưa năm (mm) tại Củ Chi (1980-2014) Hình 3-4: Lượng mưa trung bình tháng (mm) tại Củ Chi 69 Lượng mưa trong năm cao nhất vào các tháng từ tháng V đến tháng X dao động từ 170 mm đến 300 mm, thấp nhất vào các tháng từ tháng I đến tháng III, lượng mưa thường dưới 20 mm. Tổng lượng mưa trung bình năm khoảng 1655 mm (Hình 3-4). Số ngày mưa (lượng mưa ngày ≥ 0,1 mm) tại các trạm trên lưu vực nghiên cứu từ 100 ngày trở lên và tập trung vào các tháng mùa mưa. Số ngày mưa trong các tháng mùa mưa chiếm từ 88% - 94% số ngày mưa cả năm. Tháng có số ngày mưa nhiều nhất là tháng VII, tháng VIII và tháng IX, và có số ngày mưa từ 20 ngày trở lên. Xu thế biến đổi lượng mưa theo không gian Lươṇg mưa trung bình năm phân bố trên toàn lưu vực sông Sài Gòn giai đoạn 1980-2014 dao đôṇg từ 1.000mm đến 2.000mm. Lượng mưa phân bố không đều và cao nhất ở phía Tây và khu vực giáp ranh giữa ba tỉnh Bình Dương, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Lượng mưa trung bình năm có xu hướng giảm dần về hạ lưu của lưu vực sông (Hình 3-5). 70 Hình 3-5: Phân bố lượng mưa trung bình năm giai đoạn 1980-2014 Số ngày mưa trung bình tháng trong các tháng giữa mùa mưa (V–XI) trên khu vực nghiên cứu nói chung là xấp xỉ nhau, trừ vùng ven phía Đông (như Bến Cát) hơi ít hơn nhưng cũng từ 14 ngày trở lên. Số ngày mưa trung bình năm cao nhất 167 ngày và thấp nhất 97 ngày. Đặc điểm này phù hợp với sự phân bố lượng mưa theo không gian, nơi nào có số ngày mưa nhiều thì lượng mưa tháng và năm đều lớn và ngược lại. Số liệu thống kê từ năm 1981-2014 tại các trạm cho thấy, nhóm ngày mưa liên tục thường xuyên xuất hiện là 3 ngày, rất ít xuất hiện nhóm 5 ngày mưa liên tục. Số ngày mưa có lượng mưa trên 10 mm/ngày khá cao, trên 56 ngày ở mỗi trạm và số ngày mưa có lượng mưa xuất hiện trên 40 mm/ngày bình quân trên 11 trận/năm. Với 56 ngày mưa trên 10 mm/ngày, các trận mưa này có lượng mưa tổng cộng trên 1100 mm, chiếm 68,7% lượng mưa năm. Trên khu vực thành phố Hồ Chí Minh, tổng lượng mưa bình quân khoảng gần 3,3 tỷ m3. Tháng 9 là tháng có khả năng thu hoạch nước mưa cao nhất trong năm, khoảng hơn 0,5 tỷ m3 [10, tr.32]. 71 3.1.2 Chế độ dòng chảy, mực nước triều sông Sài Gòn Chế độ dòng chảy ở sông Sài Gòn gồm hai chế độ tương ứng: chế độ dòng chảy mùa lũ và mùa kiệt. Sự biến đổi dòng chảy của hai mùa rất tương phản nhau. Mùa lũ, bắt đầu từ một hoặc hai tháng sau mùa mưa, khoảng tháng 6, tháng 7 hàng năm, kết thúc vào tháng 11 và chiếm khoảng 70-80% tổng lượng cả năm. Hai tháng có lượng nước cao nhất thường là tháng 8 và tháng 9 với mô đun dòng chảy vào khoảng 60-80 l/s.km2 đối với lưu vực lớn và khoảng 100-150 l/s.km2 đối với lưu vực vừa và nhỏ. Mùa kiệt, bắt đầu từ tháng 12 và kéo dài 6 tháng cho đến tận tháng 5 năm sau và chiếm khoảng 20-30% tổng lượng cả năm. Mô đun dòng chảy trong tháng kiệt nhất vào khoảng 2-8 l/s.km2. Nhìn chung, chế độ dòng chảy của phạm vi nghiên cứu thuộc lưu vực sông Sài Gòn còn phụ thuộc vào chế độ mưa và thủy triều Biển Đông. Môđun dòng chảy trung bình vào mùa mưa khoảng 25 l/s.km2, còn vào mùa kiệt rất nhỏ từ 2 - 8 l/s.km2 tùy vùng. Dòng chảy biến đổi không đều trong năm phụ thuộc vào mưa và sự điều tiết của các hồ chứa thượng nguồn. Trên sông Sài Gòn, lưu lượng nhỏ nhất vào các tháng 5, 6, 7 và lớn nhất vào các tháng 9 và 10. Theo số liệu thống kê từ năm 1981-2015, đỉnh triều cao nhất trong năm tại trạm Vũng Tàu xuất hiện trong các tháng 10, 11, 12. Chân triều thấp nhất trong năm tại trạm Vũng Tàu xuất hiện vào các tháng 5, 6, 7. Vì vậy, từ tháng 5 đến tháng 7 là thời gian tiêu thoát nước thuận lợi nhất trong năm (Hình 3-6 và Hình 3-7). Hình 3-6: Biểu đồ mực nước lớn nhất tháng tại Vũng Tàu 72 Hình 3-7: Biểu đồ mực nước nhỏ nhất tháng tại Vũng Tàu Vùng nghiên cứu chịu ảnh hưởng của thủy triều Biển Đông thuộc loại bán nhật triều không đều, biên độ lên đến 3,5 – 4,0 m, lên xuống ngày 2 lần, với 2 đỉnh xấp xỉ nhau và hai chân lệch nhau khá lớn. Hàng tháng có hai kỳ triều cường và hai kỳ triều kém. Trong năm, đỉnh triều có xu thế cao hơn vào tháng 10 và tháng 11 và chân triều có xu thế thấp hơn vào tháng 5 và tháng 6. Cơ chế hoạt động chung của dòng nước ở hạ lưu sông Sài Gòn là dòng hai chiều, với các dao động theo nhịp thuỷ triều. Chế độ thuỷ văn vùng sông ảnh hưởng triều chịu chi phối bởi các yếu tố: chế độ dòng chảy thượng nguồn, chế độ thuỷ triều ở biển Đông, các khai thác tài nguyên nước trên dòng sông. Khi triều truyền vào sông, do tác động của nguồn nước ngọt thượng lưu và hình thái chung của lòng sông (độ dốc, độ uốn khúc, mặt cắt thuỷ lực..), thuỷ triều bị biến dạng dần cả về biên độ lẫn chu kỳ các bước sóng, và điều này ảnh hưởng đến các đặc trưng của triều là mực nước Max, Min và bình quân. Càng vào sâu trong sông, biên độ giảm càng nhanh và thời gian giữa hai nhánh lên, xuống càng khác biệt. Thời gian triều lên càng ngắn và thời gian triều xuống càng dài ra. Với biên độ lớn, lòng sông sâu và độ dốc nhỏ, triều truyền vào rất sâu trong sông với vận tốc trung bình 20 – 25 km/h đến tận đập Dầu Tiếng và Trị An. Lưu lượng triều lớn gấp chục lần so với lưu lượng thượng nguồn vào mùa kiệt và gấp vài lần vào mùa lũ. Lưu tốc lớn nhất trung bình mặt cắt trên sông Sài Gòn không quá 0,8 m/s khi triều lên và 1,1 m/s khi triều xuống. 73 3.1.3 Hiện trạng chất lượng nước mặt sông Sài Gòn Trên cơ sở điều tra, đo đạc tại hiện trường, phân tích mẫu nước của các sông trên phạm vi lưu vực sông Sài Gòn, có thể đánh giá khách quan chất lượng nước mặt sông Sài Gòn theo thời gian (mùa mưa và mùa khô giai đoạn 2011-2015) và không gian. Vị trí các điểm lấy mẫu (Hình 2-8) phân bố đều theo không gian trên địa bàn nghiên cứu tập trung vào các hệ thống sông, suối, hồ có tầm quan trọng đáng kể đối với các hoạt động dân sinh và kinh tế. Các kết quả phân tích đối chiếu với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN08:2015/BTNMT) tương ứng để xác định các nguồn nước bị ô nhiễm. Nhìn chung, giá trị pH trên sông Sài Gòn tại các vị trí quan trắc khá ổn định, không có sự biến động lớn giữa các năm. Giá trị pH dao động trong khoảng từ 5,62 đến 8,75 và hầu hết các giá trị đều đạt QCVN 08:2015 cột A2. Giá trị pH quan trắc trong đợt mùa khô (đợt 1 và đợt 4) thường có giá trị cao hơn các đợt quan trắc mùa mưa (đợt 2 và đợt 3) và giá trị pH đoạn từ cầu Bến Súc đến Thủ Dầu Một có xu hướng thấp hơn so với các điểm khu vực thượng lưu và hạ lưu do chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm điển hình của địa chất sông Sài Gòn đoạn này (Hình 3-8). Hình 3-8: Diễn biến giá trị pH trên sông Sài Gòn Giá trị TSS trong 5 năm 2011-2015 biến động không đều theo không gian và thời gian tùy theo từng khu vực. Giá trị TSS dao động từ 5,5 mg/l đến 622 mg/l, TSS trong đợt 1 (tháng 5 - mùa khô) thường thấp hơn các đợt còn lại. Bắt đầu qua 74 đợt 2, khu vực bước vào mùa mưa, TSS tại các vị trí quan trắc và tỷ lệ vượt chuẩn tăng dần. Trong 14 vị trí quan trắc, TSS tại khu vực Hồ Dầu Tiếng đạt giá trị thấp nhất, khu vực cầu Sài Gòn - Tống Lê Chân đạt giá trị cao nhất, đây là vị trí thượng nguồn vào mùa mưa nước chảy mạnh. Hiện tượng rửa trôi đất đỏ Bazan ở khu vực thượng nguồn diễn ra mạnh, làm cho nước sông tại vị trí này trong đợt 2, 3, 4 chuyển sang màu nâu đỏ. Các vị trí quan trắc sau hồ Dầu Tiếng có giá trị TSS tăng dần, đặc biệt tại các vị trí tiếp nhận nước thải từ một số khu công nghiệp và nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư trong khu vực nội thành thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương như cầu Bến Súc, cửa sông Thị Tính, sông Sài Gòn – Thủ Dầu Một, cầu Phú Long, nhà máy đóng tàu Ba Son, cảng Tân Thuận. Hình 3-9, cho thấy khoảng dao động của các giá trị tổng chất rắn lơ lửng năm 2015 là cao nhất. Giá trị lớn nhất năm 2015 tăng đột biến cao hơn 2 đến 4 lần so với các năm 2011-2014. Tuy nhiên, các vị trí 25%, trung vị và 75% chuỗi số liệu năm 2015 có xu hướng giảm so với năm 2014 (Hình 3-10). Điều này chứng tỏ phần lớn các vị trí có giá trị tổng chất rắn lơ lửng năm 2015 giảm so với năm 2014. Vị trí có giá trị cao đột biến trong năm 2015 là cầu Tống Lê Chân (622 mg/l) vươṭ QCVN 08:2015, loaị A2 gấp 20 lần; đây là điểm thượng nguồn, có dòng chảy mạnh, địa hình dốc, thời điểm quan trắc đang trong mùa mưa nên hàm lượng phù sa cao đã làm tăng giá tri ̣ TSS. Hình 3-9: Biểu đồ diễn biến TSS sông Sài Gòn 2011-2015 75 Hình 3-10: Biểu đồ kết quả quan trắc TSS 2011-2015 Kết quả thống kê tỷ lệ vượt chuẩn của 14 điểm quan trắc trên sông Sài Gòn trong 5 năm cho thấy, năm 2014 có tỷ lệ vượt chuẩn TSS cao nhất; năm 2015 có tỷ lệ vượt chuẩn là 33,9%, giảm 1,3 lần so với năm 2014, Hình 3-11. Hình 3-11: Diễn biến tỷ lệ vượt chuẩn của thông số TSS sông Sài Gòn 2011-2015 Kết quả quan trắc DO trên sông Sài Gòn có sự biến động lớn theo không gian và thời gian, dao động từ 0,43 mg/l đến 8,81 mg/l. Khu vực thượng nguồn cầu Tha La, hồ Dầu Tiếng chưa bị tác động nhiều, giá trị DO ổn định cao. Các vị trí từ Cầu Bến Sức về phía hạ lưu chịu tác động của nước thải từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nước thải sinh hoạt của các khu đô thị lớn trong vùng làm cho giá trị DO suy giảm nhanh chóng (Hình 3-12). 76 Khu vực thượng nguồn tại vị trí cầu Tống Lê Chân và Hồ Dầu Tiếng có giá trị DO khá cao (4,2 – 8,8 mg/l), tương ứng tỷ lệ vượt QCVN 08/2015/BTNMT, loại A2 đối với thông số DO thấp nhất trong 3/5 năm quan trắc từ năm 2011 - 2015. Khu vực trung lưu (vị trí cửa sông Thị Tính đến cảng Tân Thuận) có giá trị DO khá thấp, hầu hết các đợt quan trắc đều < 4 mg/l và tỷ lệ vượt chuẩn của thông số DO trong 5 năm qua luôn ở mức cao, từ 75% - 100%. Vị trí cầu Bình Triệu có giá trị DO thấp nhất trong các vị trí quan trắc khu vực hạ lưu sông Sài Gòn (0,43 mg/l đến 3,3 mg/l), đây là khu vực tiếp nhận nước thải sinh hoạt và công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh thông qua rạch Xuyên Tâm và sông Vàm Thuật. Ngoài ra, khu vực trạm bơm Hòa Phú (khu vực cấp nước thô cho nhà máy nước Tân Hiệp) cũng có giá trị DO khá thấp (1,3 mg/l đến 3,5 mg/l) do chịu tác động lan truyền ô nhiễm từ các KCN, chăn nuôi heo ở thị xã Bến Cát thông qua sông Thị Tính. Giá trị DO lớn nhất năm 2015 tại các vị trí quan trắc tuy có xu hướng giảm so với năm 2014, nhưng tỷ lệ không đạt QCVN 08:2015/BTNMT trong năm 2015 tại 13/14 điểm quan trắc đều có xu hướng tăng hoặc không đổi so với năm 2014. Hình 3-12: Diễn biến giá trị DO trên sông Sài Gòn Phân tích chuỗi số liệu COD và BOD5 quan trắc được trên sông Sài Gòn trong 5 năm 2011-2015 cho thấy: giá trị phân vị có xu hướng giảm dần giữa các năm (Hình 3-13). Tuy nhiên, giá trị lớn nhất của 2 thông số COD và BOD5 trong năm 2015 có xu hướng tăng nhẹ so với năm 2014 và các giá trị lớn nhất thường đạt được trong các tháng mùa mưa (đợt 2, 3 có giá trị Max BOD5 từ 6 – 30 mg/l, Max 77 COD từ 10 -56 mg/l; tương ứng tháng mùa khô - đợt 1 và 4 có giá trị Max BOD5 từ 5 – 23 mg/l, Max COD từ 9 -37 mg/l). Hình 3-13: Biểu đồ kết quả quan trắc BOD5 và COD năm 2011 – 2015 Hầu hết các vị trí quan tr
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_anh_huong_cua_nuoc_mua_chay_tran_den_chat.pdf
Tom tat_Luan an Tieng Anh (1).pdf
Tom tat_Luan an Tieng Viet (1).pdf
Trang thong tin luan an Tieng Anh.pdf
Trang thong tin luan an Tieng Viet.pdf