Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế

ợp với vai trò sinh lý của đạm đối với cây trồng nhất là với các loại cây họ hoà thảo, thậm chí bón đạm cao và không đúng thời kỳ còn làm cho lúa đẻ lai rai vô hiệu và từ đó cho thấy đạm có tác dụng làm tăng số nhánh đẻ tối đa. Kết quả phân tích cho thấy số nhánh hữu hiệu và tỷ lệ nhánh hữu hiệu thể hiện ưu thế đối với dạng đạm urê trên cả 02 liều lượng bón là 80 kg N/ha và 120 kg N/ha. 3.1.4. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến khối lượng tươi và khô của lúa qua các giai đoạn sinh trưởng, phát triển Khối lượng vật chất khô là lượng vật chất như tinh bột, khoáng chất, vitamin, chất xơ ... còn lại trong cây sau khi sấy khô trong vòng 6 giờ ở nhiệt độ 1050C. Việc nghiên cứu khối lượng vật chất khô có ý nghĩa rất quan trọng để biết khả năng quang hợp, hút chất dinh dưỡng trong môi trường tốt hay không, hàm lượng dinh dưỡng cao hay thấp. Kết quả nghiên cứu về khối lượng chất tươi và khô được thể hiện ở bảng 3.4 trong vụ hè thu và bảng 3.5 trong vụ đông xuân. * Vụ hè thu 2014: Bảng 3.4 cho thấy khối lượng tươi và chất khô ở các giai đoạn có sự khác biệt có ý nghĩa ở mức 0,05 ở các công thức thí nghiệm. Lượng đạm bón càng cao thì khả năng tích lũy chất tươi, chất khô càng cao và ngược lại. Tại giai đoạn bắt đầu đẻ nhánh: Khối lượng tươi và khô đạt cao nhất ở đạm amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha lần lượt là 2,48 gam/cây và 0,38 gam/cây; sau đó đến đạm urê với lượng bón 80 kg N/ha lần lượt là 2,38 gam/cây và 0,37 gam/cây, đạm amôn clorua với lượng bón 80 kg N/ha lần lượt là 2,35 gam/cây và 0,38 gam/cây. Khối lượng khô và tươi đạt thấp nhất ở các công thức không bón, đặc biệt là đạm canxinitrat với khối lượng tươi và khô lần lượt là 1,20 gam/cây và 0,19 gam/cây. Tại giai đoạn kết thúc đẻ nhánh: Khối lượng tươi và khô thể hiện sự sai khác có ý nghĩa về mặt sinh khối giữa các công thức, khối lượng tươi biến động 12,16 gam/cây - 20,82 gam/cây (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha và amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha), khối lượng khô biến động 2,41 gam/cây - 3,89 gam/cây (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha và amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha). Đối với giai đoạn làm đòng: Khối lượng tươi và khô đạt mức cao nhất ở đạm amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha lần lượt là 27,46 gam/cây và 5,36 gam/cây, đạt thấp nhất ở đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha lần lượt là 17,39 gam/cây và 3,70 gam/cây. Giai đoạn thu hoạch: Khối lượng tươi và khô tăng mạnh so với các giai đoạn khác, các công thức khác nhau thể hiện rất rõ rệt sự sai khác có ý nghĩa với p<0,05, tuy nhiên khi lượng đạm bón càng cao thì khối lượng tươi và khô càng lớn. Trong giai đoạn này, khối lượng khô đạt cao nhất ở đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha với 16,37 gam/cây và thấp nhất ở đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha với 10,64 gam/cây. Bảng 3.4. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến khối lượng tươi và khô ở cây lúa trong vụ hè thu 2014 Đơn vị tính: g/cây Công thức Bắt đầu đẻ nhánh Kết thúc đẻ nhánh Làm đòng Thu hoạch Khối lượng tươi Khối lượng khô Khối lượng tươi Khối lượng khô Khối lượng tươi Khối lượng khô Khối lượng tươi Khối lượng khô D1N0 1,21h 0,21f 12,17j 2,48j 17,47j 3,71i 47,93j 10,92i D1N40 1,87f 0,31c 14,69h 2,80h 20,95h 4,51g 59,91h 13,47g D1N80 2,25c 0,35b 16,78e 3,27d 22,47e 4,81d 68,17e 16,26b D1N120 2,38b 0,37ab 19,21b 3,40c 26,54b 5,13b 75,82b 16,37a D2N0 1,21h 0,20fg 12,29j 2,51j 17,49j 3,74i 48,02j 11,05i D2N40 1,88ef 0,32c 14,98g 2,86g 21,37g 4,53g 60,53g 13,59f D2N80 2,35b 0,38a 18,61c 3,70b 23,92d 4,97c 70,07d 15,41d D2N120 2,48a 0,38a 20,82a 3,89a 27,46a 5,36a 79,66a 16,28b D3N0 1,20h 0,19g 12,16j 2,47j 17,45j 3,70i 47,92j 10,91i D3N40 1,63g 0,25e 14,27i 2,72i 20,36i 4,29h 58,78i 13,11h D3N80 1,91e 0,29d 16,19f 2,92f 22,15f 4,61f 67,97f 15,12e D3N120 2,12d 0,32c 18,31d 3,08e 24,63c 4,74e 73,37c 15,69c Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức 0,05. * Vụ đông xuân 2014 - 2015: Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.5 cũng cho thấy khối lượng tươi và khô ở các công thức thí nghiệm cũng thể hiện sự khác biệt rất rõ rệt và tương tự như vụ hè thu 2014. Bảng 3.5. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến khối lượng tươi và khô ở cây lúa trong vụ đông xuân 2014 - 2015 Đơn vị tính: gam/cây Công thức Bắt đầu đẻ nhánh Kết thúc đẻ nhánh Làm đòng Thu hoạch Khối lượng tươi Khối lượng khô Khối lượng tươi Khối lượng khô Khối lượng tươi Khối lượng khô Khối lượng tươi Khối lượng khô D1N0 1,33k 0,23gh 13,98j 2,71j 18,32g 3,95i 48,07l 11,43j D1N40 1,77h 0,30e 16,37g 3,12g 21,41f 4,59g 60,27h 13,73h D1N80 2,31e 0,39c 18,15e 3,47d 23,48e 4,95e 73,61e 16,53d D1N120 2,56b 0,42b 21,38b 3,92b 27,28b 5,37b 78,73b 17,53b D2N0 1,46j 0,25g 14,86i 2,84i 18,56g 3,98i 48,19k 11,21l D2N40 1,81g 0,31e 17,37f 3,32e 22,79e 4,87f 63,67g 14,43g D2N80 2,48c 0,42b 18,72d 3,58c 25,64d 5,22c 76,47c 17,25c D2N120 2,79a 0,47a 22,47a 4,18a 28,93a 5,57a 80,93a 18,05a D3N0 1,31k 0,22h 13,46k 2,56k 18,42g 3,84j 48,27j 11,33k D3N40 1,69i 0,28f 16,18h 3,08h 21,00f 4,37h 57,33i 13,01i D3N80 2,11f 0,35d 17,35f 3,28f 23,33e 4,87f 71,61f 15,72f D3N120 2,34d 0,38c 19,36c 3,57c 26,57c 5,18d 75,73c 16,07e Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức 0,05. Trong vụ đông xuân, khối lượng tươi và khô đạt cao nhất ở đạm amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha, sau đó ở đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha và thấp nhất ở đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha. Khối lượng khô ở giai đoạn thu hoạch đạt cao nhất là 18,05 gam/cây ở đạm amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha và thấp nhất là 11,33 gam/cây ở đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha. Kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Hồng Tươi và cs (2008) [83], Nguyễn Thị Lan và cs (2007) [38] cho thấy lượng đạm bón có tương quan thuận với khả năng tích lũy chất khô, ở mức đạm bón thấp thì khả năng tích lũy chất khô càng thấp và ngược lại. Khả năng tích lũy chất khô tăng từ giai đoạn đẻ nhánh rộ đến giai đoạn chính sữa và trong cùng một giai đoạn sinh trưởng, phát triển khi tăng mức đạm bón thì khả năng tích lũy chất khô càng tăng. Tóm lại: Sử dụng liều lượng và dạng phân đạm cho lúa đã ảnh hưởng đến khối lượng tươi và khô của cây lúa. Lượng đạm bón 120 kg N/ha ở dạng đạm amôn clorua đều thu được khối lượng tươi và khô lớn nhất vào thời kỳ thu hoạch (79,66 gam/cây và 16,28 gam/cây trong vụ hè thu, 80,93 gam/cây và 18,05 gam/cây trong vụ đông xuân), sau đó đến dạng đạm urê. 3.1.5. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến tình hình sâu bệnh hại Sâu bệnh hại là một đối tượng gây hại nguy hiểm đối với cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng. Thiệt hại do sâu bệnh hại gây ra cho lúa có thể làm giảm năng suất 10 - 30%, đặc biệt vào các giai đoạn làm đòng, trỗ bông và chín nếu bị sâu bệnh phá hại nặng, có thể không cho thu hoạch. Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và thâm canh cây lúa nói riêng, với điều kiện khí hậu thời tiết và từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây lúa, sâu bệnh có khả năng phát sinh, phát triển gây hại. Vì vậy cần phải thường xuyên thăm đồng, phát hiện kịp thời để phòng trừ sâu bệnh hại hiệu quả. Qua điều tra theo dõi, nhận thấy tăng lượng đạm bón có tác động rất lớn đến quá trình phát sinh, phát triển sâu bệnh hại. Qua số liệu theo dõi, chúng tôi thấy trong vụ hè thu và đông xuân thì sâu cuốn lá nhỏ đều gây hại, ngoài ra còn có bệnh khô vằn và bệnh đạo ôn gây hại chủ yếu ở các công thức thí nghiệm. Số liệu điều tra được thể hiện qua bảng 3.6. Mức độ gây hại của bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá trong 02 vụ ở mức thấp, đặc biệt là trong vụ hè thu. Trong vụ hè thu, mức độ gây hại của bệnh khô vằn và sâu cuốn lá đều ở điểm 1. Trong vụ đông xuân, mức độ gây hại của sâu cuốn lá ở mức thấp nhất (điểm 1), riêng đối với bệnh đạo ôn hại lúa thì mức độ gây hại thể hiện ở điểm 2 đối với các công thức có bón đạm. Bảng 3.6. Mức độ ảnh hưởng của liều lượng và dạng đạm bón đến sâu bệnh hại Đơn vị tính: điểm Công thức Vụ hè thu 2014 Vụ đông xuân 2014 - 2015 Bệnh khô vằn Sâu cuốn lá Bệnh đạo ôn hại lá Sâu cuốn lá D1N0 1 1 1 1 D1N40 1 1 2 1 D1N80 1 1 2 1 D1N120 1 1 2 1 D2N0 1 1 1 1 D2N40 1 1 2 1 D2N80 1 1 2 1 D2N120 1 1 2 1 D3N0 1 1 1 1 D3N40 1 1 2 1 D3N80 1 1 2 1 D3N120 1 1 2 1 Kết quả phân tích cho thấy, sâu bệnh gây hại ở các công thức thí nghiệm đều ở điểm thấp (điểm 1 đến điểm 2), như vậy mức độ ảnh hưởng của liều lượng và dạng đạm bón ở các công thức thí nghiệm chưa được thể hiện rõ rệt. 3.1.6. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất Năng suất là kết quả và mục tiêu cuối cùng của quá trình sản xuất, là chỉ tiêu đánh giá toàn diện và đầy đủ nhất các quá trình sinh trưởng, phát triển của cây, đồng thời là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư. Trong thí nghiệm, năng suất là chỉ tiêu được dùng để đánh giá sự sai khác giữa các công thức thí nghiệm. Năng suất lúa được tạo thành bởi các yếu tố: số bông/đơn vị diện tích, số hạt chắc/bông và khối lượng 1000 hạt. Khi các yếu tố này đạt tối ưu thì năng suất lúa sẽ đạt cao nhất. Trong các yếu tố cấu thành năng suất lúa thì số bông là yếu tố có tính chất quyết định nhất và sớm nhất, số bông có thể đóng góp 74% năng suất trong khi đó số hạt/bông đóng góp khoảng 20% năng suất. Qua nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến giống lúa Khang Dân 18 trong vụ hè thu 2014 và đông xuân 2014 - 2015 chúng tôi thu được một số kết quả ở bảng 3.7 và 3.8. Bảng 3.7. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa trong vụ hè thu 2014 Công thức Các yếu tố cấu thành năng suất Năng suất (tấn/ha) Số bông/m2 (bông) Số hạt chắc/bông (hạt) P1000 hạt (gam) Lý thuyết Thực thu D1N0 292h 92,1h 19,13bcd 5,14d 4,24c D1N40 298g 100,5de 19,20b 5,76c 5,12b D1N80 326d 110,4a 19,33a 6,96b 6,04a D1N120 361a 108,3b 19,03d 7,44a 6,09a D2N0 278j 88,8i 19,13bcd 4,73e 4,10c D2N40 295h 97,7f 19,17bc 5,52cd 4,59bc D2N80 320e 107,5b 19,17bc 6,59b 5,75a D2N120 353b 102,9c 19,10bcd 6,93b 5,86a D3N0 256k 88,4i 18,73e 4,63e 4,17c D3N40 285i 95,9g 18,77e 5,14d 4,48bc D3N80 312f 99,5e 19,07cd 5,92b 5,67ab D3N120 344c 101,9cd 19,17bc 6,72b 5,71a Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức 0,05. Các số liệu nghiên cứu ở bảng 3.7 và 3.8 cho thấy: Số bông/m2: Đây là yếu tố mang tính di truyền và chịu ảnh hưởng không nhỏ của điều kiện canh tác, là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất. Thời kỳ quyết định là từ đẻ nhánh rộ trở về trước còn sau đó không ảnh hưởng lớn, ngoài ra nó còn phụ thuộc nhiều vào mật độ gieo cấy và thời gian đẻ nhánh hữu hiệu. Để tăng số bông trên đơn vị diện tích chúng ta cần tác động đồng thời nhiều biện pháp kỹ thuật khác nhau như: chọn đúng thời vụ, mật độ gieo cấy thích hợp, bón phân cân đối, hợp lý, điều khiển quá trình đẻ nhánh thích hợp. Kết quả đo đếm số bông/m2 đã thể hiện rằng các công thức thí nghiệm khác nhau có ảnh hưởng rất rõ rệt đến số bông/m2 trong cả 02 vụ. Trong vụ hè thu 2014 số bông/m2 ở các công thức thí nghiệm biến động từ 256 bông (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 361 bông (đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha). Còn trong vụ đông xuân 2014 - 2015 thì sự biến động cũng thể hiện rõ rệt ở các mức bón khác nhau, tuy nhiên trong vụ này thì ảnh hưởng của liều lượng và dạng đạm bón ở các công thức thí nghiệm đến số bông/m2 biến động từ 326 bông (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 428 bông (đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha). Qua đó chúng ta thấy ở công thức không bón thì số bông/m2 đạt thấp nhất và công thức bón 120 kg N/ha đạt số bông/m2 cao nhất đối với dạng đạm urê và amôn clorua. Số hạt chắc/bông: Đây là yếu tố ảnh hưởng đến năng suất rất rõ và chịu tác động rất lớn của môi trường xung quanh. Số hạt chắc/bông có mối tương quan thuận với năng suất lúa. Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy thời kỳ quyết định số hạt chắc/bông là khoảng 32 ngày trước trỗ đến kết thúc thời kỳ chín sữa. Số hạt chắc/bông của các công thức thí nghiệm trong 02 mùa vụ được thể hiện rất rõ từ các dạng đạm bón và liều lượng bón. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng số hạt chắc trên bông của các công thức thí nghiệm trong vụ hè thu 2014 biến động từ 88,4 hạt (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 110,4 hạt (đạm urê với lượng bón 80 kg N/ha). Nhưng trong vụ đông xuân 2014 - 2015 thì biến động từ 76,0 hạt (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 97,7 hạt (đạm amôn clorua với lượng bón 80 kg N/ha). Khối lượng 1.000 hạt: Là yếu tố cuối cùng cấu thành năng suất lúa. Khối lượng 1.000 hạt chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố di truyền của giống, ngoài ra chế độ canh tác cũng có ảnh hưởng nhưng không đáng kể. Thời kỳ ảnh hưởng đến khối lượng 1.000 hạt là từ thời kỳ giảm nhiễm đến thời kỳ chín sáp. Từ những kết quả đo đếm được chúng tôi thấy khối lượng 1.000 hạt ở các công thức thí nghiệm có sự sai khác nhau không đáng kể. Từ những kết quả đo đếm được chúng tôi thấy khối lượng 1.000 hạt ở các công thức trong vụ hè thu dao động từ 18,73 gam (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 19,33 gam (đạm urê với lượng bón 80 kg N/ha), trong vụ đông xuân dao động từ 19,77 gam (đạm amôn clorua và canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 20,05 gam (đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha). Từ kết quả ở bảng 3.7 và 3.8 ta thấy, năng suất lý thuyết thu được ở các công thức thí nghiệm có sự khác nhau rõ rệt, năng suất lý thuyết dao động 4,63 tấn/ha - 7,44 tấn/ha trong vụ hè thu và 4,90 tấn/ha - 7,92 tấn/ha trong vụ đông xuân, năng suất tăng dần theo lượng bón, nhưng ở lượng bón 120 kg N/ha thì năng suất thu được không sai khác so với lượng bón 80 kg N/ha ở cả hai dạng phân đạm thí nghiệm (urê và amôn clorua). Năng suất lý thuyết thu được cao nhất ở dạng đạm amôn clorua, tiếp theo đến đạng đạm urê. Bảng 3.8. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa trong vụ đông xuân 2014 - 2015 Công thức Các yếu tố cấu thành năng suất Năng suất (tấn/ha) Số bông/m2 (bông) Số hạt chắc/bông (hạt) P1000 hạt (gam) Lý thuyết Thực thu D1N0 336h 82,1e 19,80e 5,47e 4,57h D1N40 357f 86,2d 20,27bcd 6,24d 5,34e D1N80 392cd 92,2bc 20,43ab 7,39b 6,27b D1N120 428a 85,5d 20,50a 7,50a 6,37a D2N0 328h 79,6f 19,77e 5,17e 4,56h D2N40 389d 91,5b 20,17cd 7,19b 5,24f D2N80 398c 97,7a 20,33abcd 7,92a 6,08c D2N120 420b 89,4c 20,37abc 7,64a 6,01d D3N0 326h 76,0g 19,77e 4,90e 4,53h D3N40 343g 89,2c 20,13d 6,15g 5,15g D3N80 360f 92,4b 20,27bcd 6,74c 6,03d D3N120 373e 91,6b 20,27bcd 6,92c 6,02d Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức 0,05. Năng suất thực thu: là chỉ tiêu phản ánh kết quả thực tế của một chu kỳ sản xuất trên đồng ruộng. Công thức cho năng suất cao chứng tỏ công thức đó thích ứng và phát triển tốt trong điều kiện của vùng, địa phương sản xuất. Trong vụ hè thu, năng suất thực thu đạt cao nhất là 5,86 - 6,09 tấn/ha tại lượng bón 120 kg N/ha ở dạng đạm amôn clorua và urê theo thứ tự. Trong vụ đông xuân, năng suất thực thu thấp nhất ở các dạng đạm bón tại công thức không bón phân đạm, năng suất cao nhất là 6,37 tấn/ha (ở công thức bón 120 kg N/ha), tiếp đến là 6,27 tấn/ha (tại lượng bón 80 kg N/ha) đối với dạng đạm urê. Tuy nhiên, không tìm thấy sai khác có ý nghĩa thống kê ở lượng bón 80 - 120 kg N/ha ở cả ba dạng đạm bón. Tương tự như vụ hè thu, trong vụ đông xuân không có sự sai khác về mặt thống kê đối với năng suất thực thu ở lượng bón 80 - 120 kg N/ha. Tăng năng suất lúa đã được công nhận do tăng chỉ số năng suất thay vì tăng hàm lượng hợp chất khô (Ju và cs, 2012) [122]. Ngoài ra, Chen và cs (2010) [100] cho rằng việc tăng năng suất lúa do phụ thuộc vào sự gia tăng hàm lượng chất khô. Tóm lại, năng suất hạt tăng lên song song với việc tăng lượng N bón. Tuy nhiên, khi bón mức N cao nhất, năng suất hạt không tăng nhiều và dường như làm giảm do giảm tỷ lệ hạt chắc. Kết quả này cũng có thể được giải thích do việc sử dụng phân bón N cao làm cho cây trồng dễ bị tổn thương (Islam và cs, 2012) [119]. Murtaza và cs (2014) [139] cho thấy rằng năng suất lúa cao hơn dường như do sử dụng phân bón N cao hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ N cao như vậy không phải lúc nào cũng đóng góp vào năng suất. Do đó, sử dụng N đòi hỏi phải thận trọng để giảm thiệt hại do N rửa trôi và gây ô nhiễm môi trường. Năng suất lúa thấp hơn ở vụ hè thu là do thời gian sinh trưởng ngắn hơn, nhiệt độ cao hơn và thiếu nước tưới, dẫn đến tăng lượng đạm bốc hơi. 3.1.7. Mối tương quan giữa liều lượng và dạng đạm bón với năng suất thực thu trong vụ hè thu 2014 và đông xuân 2014 - 2015 Bảng 3.9. Tương quan giữa liều lượng và dạng phân đạm bón với năng suất thực thu trong vụ hè thu 2014 và vụ đông xuân 2014 - 2015 Tương quan Vụ Phương trình hồi quy tuyến tính (y) Hệ số tương quan bội (R) Hè thu 2014 y = 3,96 - 0,18 D + 0,62 N R = 0,95** Đông xuân 2014 - 2015 y = 4,30 - 0,11 D + 0,57 N R = 0,95** Ghi chú: y - Năng suất thực thu, D - Dạng đạm bón, N - Liều lượng đạm bón; ** tương quan rất có ý nghĩa P < 0,01. Qua bảng 3.9 chúng tôi nhận thấy sự tương quan giữa năng suất thực thu với liều lượng và dạng đạm bón trong cả 02 vụ đều thể hiện mối tương quan chặt và rất có ý nghĩa (P < 0,01), hệ số tương quan R = 0,95; chứng tỏ liều lượng và dạng đạm bón có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất thực thu. 3.1.8. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến một số tính chất hóa học đất Đất là nhân tố quan trọng hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng. Kết quả nghiên cứu về tính chất hóa học đất trước và sau thí nghiệm được thể hiện qua bảng 3.10. Bảng 3.10. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến tính chất đất Công thức pHKCl OM (%) N (%) P2O5 (%) K2O (%) Đất trước thí nghiệm TTN 4,01 2,80 0,060 0,030 0,39 Đất sau thí nghiệm D1N0 4,11 2,84 0,064 0,031 0,39 D1N40 4,13 2,89 0,067 0,030 0,42 D1N80 4,10 3,04 0,068 0,034 0,47 D1N120 4,07 3,10 0,070 0,034 0,44 D2N0 4,04 2,82 0,062 0,030 0,40 D2N40 4,11 2,84 0,066 0,030 0,43 D2N80 4,08 2,90 0,068 0,035 0,45 D2N120 4,06 3,01 0,069 0,034 0,48 D3N0 4,18 2,80 0,063 0,029 0,40 D3N40 4,24 2,85 0,064 0,031 0,43 D3N80 4,26 2,91 0,068 0,032 0,42 D3N120 4,30 2,96 0,069 0,033 0,46 Độ chua của đất (pHKCl): Độ chua của đất sinh ra do các nguyên nhân như bản thân đất có ít chất kiềm nên đất bị chua; các cation kiềm trong đất bị rửa trôi ra khỏi đất nên đất bị chua .... Kết quả phân tích đất ở bảng 3.10 cho chúng ta thấy độ chua trao đổi trước và sau khi thí nghiệm có sự thay đổi nhưng vẫn nằm trong khoảng rất chua. Trước thí nghiệm thì pH là 4,01, sau thí nghiệm thì pH ở các công thức thí nghiệm dao động từ 4,04 đến 4,30. Như vậy, sau khi bón phân thì độ chua của đất đã giảm đáng kể nhưng chưa thể hiện rõ tầm ảnh hưởng của dạng đạm bón cũng như liều lượng bón đối với pHKCl. Hợp chất hữu cơ trong đất (OM%): Là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ phì của đất, kho dự trữ thức ăn cho cây trồng. Đất có hàm lượng chất hữu cơ cao sẽ là điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng và vi sinh vật đất. Trên đất có hàm lượng hữu cơ cao, hệ số sử dụng chất dinh dưỡng trong đất và trong phân bón thường cao hơn. Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng OM sau thí nghiệm dao động 2,84 - 3,10%. Hàm lượng đạm tổng số (N%): Đạm là nguyên tố dinh dưỡng cần thiết đầu tiên và quyết định năng suất cây trồng. Hàm lượng đạm tổng số và chất hữu cơ trong đất là nguồn dự trữ và cung cấp đạm cho cây trồng. Trong đất, đạm tồn tại dưới 02 dạng là đạm vô cơ và đạm hữu cơ, trong đó lượng đạm vô cơ rất ít, chiếm 1 - 2% lượng đạm tổng số của đất (khoảng 1 - 50 ppm). Nói chung, N trong từng loại đất phụ thuộc vào hàm lượng chất hữu cơ trong đất, những đất giàu chất hữu cơ thì cũng giàu đạm tổng số. Từ bảng số liệu ta thấy rằng hàm lượng đạm tổng số trong đất tăng lên sau khi tiến hành thí nghiệm, dao động 0,062% - 0,070%, ở công thức bón nhiều đạm thì hàm lượng đạm trong đất cao, cao nhất ở công thức bón 120 kg N/ha đối với cả 03 dạng đạm bón. Hàm lượng lân tổng số (P2O5%): Đây là nguyên tố rất cần thiết đối với cây trồng, nó có ý nghĩa về mặt
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_anh_huong_cua_phan_bon_va_tuoi_nuoc_den_n.doc