Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 178 trang nguyenduy 01/08/2025 150
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế
ợp với vai trò sinh lý của đạm đối với cây trồng nhất là với các loại cây họ hoà thảo, thậm chí bón đạm cao và không đúng thời kỳ còn làm cho lúa đẻ lai rai vô hiệu và từ đó cho thấy đạm có tác dụng làm tăng số nhánh đẻ tối đa.
Kết quả phân tích cho thấy số nhánh hữu hiệu và tỷ lệ nhánh hữu hiệu thể hiện ưu thế đối với dạng đạm urê trên cả 02 liều lượng bón là 80 kg N/ha và 120 kg N/ha.
3.1.4. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến khối lượng tươi và khô của lúa qua các giai đoạn sinh trưởng, phát triển
Khối lượng vật chất khô là lượng vật chất như tinh bột, khoáng chất, vitamin, chất xơ ... còn lại trong cây sau khi sấy khô trong vòng 6 giờ ở nhiệt độ 1050C. Việc nghiên cứu khối lượng vật chất khô có ý nghĩa rất quan trọng để biết khả năng quang hợp, hút chất dinh dưỡng trong môi trường tốt hay không, hàm lượng dinh dưỡng cao hay thấp. Kết quả nghiên cứu về khối lượng chất tươi và khô được thể hiện ở bảng 3.4 trong vụ hè thu và bảng 3.5 trong vụ đông xuân.
* Vụ hè thu 2014:
Bảng 3.4 cho thấy khối lượng tươi và chất khô ở các giai đoạn có sự khác biệt có ý nghĩa ở mức 0,05 ở các công thức thí nghiệm. Lượng đạm bón càng cao thì khả năng tích lũy chất tươi, chất khô càng cao và ngược lại.
Tại giai đoạn bắt đầu đẻ nhánh: Khối lượng tươi và khô đạt cao nhất ở đạm amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha lần lượt là 2,48 gam/cây và 0,38 gam/cây; sau đó đến đạm urê với lượng bón 80 kg N/ha lần lượt là 2,38 gam/cây và 0,37 gam/cây, đạm amôn clorua với lượng bón 80 kg N/ha lần lượt là 2,35 gam/cây và 0,38 gam/cây. Khối lượng khô và tươi đạt thấp nhất ở các công thức không bón, đặc biệt là đạm canxinitrat với khối lượng tươi và khô lần lượt là 1,20 gam/cây và 0,19 gam/cây.
Tại giai đoạn kết thúc đẻ nhánh: Khối lượng tươi và khô thể hiện sự sai khác có ý nghĩa về mặt sinh khối giữa các công thức, khối lượng tươi biến động 12,16 gam/cây - 20,82 gam/cây (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha và amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha), khối lượng khô biến động 2,41 gam/cây - 3,89 gam/cây (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha và amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha).
Đối với giai đoạn làm đòng: Khối lượng tươi và khô đạt mức cao nhất ở đạm amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha lần lượt là 27,46 gam/cây và 5,36 gam/cây, đạt thấp nhất ở đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha lần lượt là 17,39 gam/cây và 3,70 gam/cây.
Giai đoạn thu hoạch: Khối lượng tươi và khô tăng mạnh so với các giai đoạn khác, các công thức khác nhau thể hiện rất rõ rệt sự sai khác có ý nghĩa với p<0,05, tuy nhiên khi lượng đạm bón càng cao thì khối lượng tươi và khô càng lớn. Trong giai đoạn này, khối lượng khô đạt cao nhất ở đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha với 16,37 gam/cây và thấp nhất ở đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha với 10,64 gam/cây.
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến khối lượng tươi và khô ở cây lúa trong vụ hè thu 2014
Đơn vị tính: g/cây
Công thức
Bắt đầu
 đẻ nhánh
Kết thúc 
đẻ nhánh
Làm đòng
Thu hoạch
Khối lượng tươi
Khối lượng khô
Khối lượng tươi
Khối lượng khô
Khối lượng tươi
Khối lượng khô
Khối lượng tươi
Khối lượng khô
D1N0
1,21h
0,21f
12,17j
2,48j
17,47j
3,71i
47,93j
10,92i
D1N40
1,87f
0,31c
14,69h
2,80h
20,95h
4,51g
59,91h
13,47g
D1N80
2,25c
0,35b
16,78e
3,27d
22,47e
4,81d
68,17e
16,26b
D1N120
2,38b
0,37ab
19,21b
3,40c
26,54b
5,13b
75,82b
16,37a
D2N0
1,21h
0,20fg
12,29j
2,51j
17,49j
3,74i
48,02j
11,05i
D2N40
1,88ef
0,32c
14,98g
2,86g
21,37g
4,53g
60,53g
13,59f
D2N80
2,35b
0,38a
18,61c
3,70b
23,92d
4,97c
70,07d
15,41d
D2N120
2,48a
0,38a
20,82a
3,89a
27,46a
5,36a
79,66a
16,28b
D3N0
1,20h
0,19g
12,16j
2,47j
17,45j
3,70i
47,92j
10,91i
D3N40
1,63g
0,25e
14,27i
2,72i
20,36i
4,29h
58,78i
13,11h
D3N80
1,91e
0,29d
16,19f
2,92f
22,15f
4,61f
67,97f
15,12e
D3N120
2,12d
0,32c
18,31d
3,08e
24,63c
4,74e
73,37c
15,69c
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức 0,05.
* Vụ đông xuân 2014 - 2015:
Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.5 cũng cho thấy khối lượng tươi và khô ở các công thức thí nghiệm cũng thể hiện sự khác biệt rất rõ rệt và tương tự như vụ hè thu 2014.
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến khối lượng tươi và khô ở cây lúa trong vụ đông xuân 2014 - 2015
Đơn vị tính: gam/cây
Công thức
Bắt đầu đẻ nhánh
Kết thúc đẻ nhánh
Làm đòng
Thu hoạch
Khối lượng tươi
Khối lượng khô
Khối lượng tươi
Khối lượng khô
Khối lượng tươi
Khối lượng khô
Khối lượng tươi
Khối lượng khô
D1N0
1,33k
0,23gh
13,98j
2,71j
18,32g
3,95i
48,07l
11,43j
D1N40
1,77h
0,30e
16,37g
3,12g
21,41f
4,59g
60,27h
13,73h
D1N80
2,31e
0,39c
18,15e
3,47d
23,48e
4,95e
73,61e
16,53d
D1N120
2,56b
0,42b
21,38b
3,92b
27,28b
5,37b
78,73b
17,53b
D2N0
1,46j
0,25g
14,86i
2,84i
18,56g
3,98i
48,19k
11,21l
D2N40
1,81g
0,31e
17,37f
3,32e
22,79e
4,87f
63,67g
14,43g
D2N80
2,48c
0,42b
18,72d
3,58c
25,64d
5,22c
76,47c
17,25c
D2N120
2,79a
0,47a
22,47a
4,18a
28,93a
5,57a
80,93a
18,05a
D3N0
1,31k
0,22h
13,46k
2,56k
18,42g
3,84j
48,27j
11,33k
D3N40
1,69i
0,28f
16,18h
3,08h
21,00f
4,37h
57,33i
13,01i
D3N80
2,11f
0,35d
17,35f
3,28f
23,33e
4,87f
71,61f
15,72f
D3N120
2,34d
0,38c
19,36c
3,57c
26,57c
5,18d
75,73c
16,07e
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức 0,05.
Trong vụ đông xuân, khối lượng tươi và khô đạt cao nhất ở đạm amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha, sau đó ở đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha và thấp nhất ở đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha.
Khối lượng khô ở giai đoạn thu hoạch đạt cao nhất là 18,05 gam/cây ở đạm amôn clorua với lượng bón 120 kg N/ha và thấp nhất là 11,33 gam/cây ở đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha.
Kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Hồng Tươi và cs (2008) [83], Nguyễn Thị Lan và cs (2007) [38] cho thấy lượng đạm bón có tương quan thuận với khả năng tích lũy chất khô, ở mức đạm bón thấp thì khả năng tích lũy chất khô càng thấp và ngược lại. Khả năng tích lũy chất khô tăng từ giai đoạn đẻ nhánh rộ đến giai đoạn chính sữa và trong cùng một giai đoạn sinh trưởng, phát triển khi tăng mức đạm bón thì khả năng tích lũy chất khô càng tăng.
Tóm lại: Sử dụng liều lượng và dạng phân đạm cho lúa đã ảnh hưởng đến khối lượng tươi và khô của cây lúa. Lượng đạm bón 120 kg N/ha ở dạng đạm amôn clorua đều thu được khối lượng tươi và khô lớn nhất vào thời kỳ thu hoạch (79,66 gam/cây và 16,28 gam/cây trong vụ hè thu, 80,93 gam/cây và 18,05 gam/cây trong vụ đông xuân), sau đó đến dạng đạm urê.
3.1.5. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến tình hình sâu bệnh hại
Sâu bệnh hại là một đối tượng gây hại nguy hiểm đối với cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng. Thiệt hại do sâu bệnh hại gây ra cho lúa có thể làm giảm năng suất 10 - 30%, đặc biệt vào các giai đoạn làm đòng, trỗ bông và chín nếu bị sâu bệnh phá hại nặng, có thể không cho thu hoạch. Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và thâm canh cây lúa nói riêng, với điều kiện khí hậu thời tiết và từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây lúa, sâu bệnh có khả năng phát sinh, phát triển gây hại. Vì vậy cần phải thường xuyên thăm đồng, phát hiện kịp thời để phòng trừ sâu bệnh hại hiệu quả. 
Qua điều tra theo dõi, nhận thấy tăng lượng đạm bón có tác động rất lớn đến quá trình phát sinh, phát triển sâu bệnh hại. Qua số liệu theo dõi, chúng tôi thấy trong vụ hè thu và đông xuân thì sâu cuốn lá nhỏ đều gây hại, ngoài ra còn có bệnh khô vằn và bệnh đạo ôn gây hại chủ yếu ở các công thức thí nghiệm. Số liệu điều tra được thể hiện qua bảng 3.6.
Mức độ gây hại của bệnh khô vằn, bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá trong 02 vụ ở mức thấp, đặc biệt là trong vụ hè thu. Trong vụ hè thu, mức độ gây hại của bệnh khô vằn và sâu cuốn lá đều ở điểm 1. Trong vụ đông xuân, mức độ gây hại của sâu cuốn lá ở mức thấp nhất (điểm 1), riêng đối với bệnh đạo ôn hại lúa thì mức độ gây hại thể hiện ở điểm 2 đối với các công thức có bón đạm.
Bảng 3.6. Mức độ ảnh hưởng của liều lượng và dạng đạm bón đến sâu bệnh hại
Đơn vị tính: điểm
Công thức
Vụ hè thu 2014
Vụ đông xuân 2014 - 2015
Bệnh khô vằn
Sâu cuốn lá
Bệnh đạo ôn hại lá
Sâu cuốn lá
D1N0
1
1
1
1
D1N40
1
1
2
1
D1N80
1
1
2
1
D1N120
1
1
2
1
D2N0
1
1
1
1
D2N40
1
1
2
1
D2N80
1
1
2
1
D2N120
1
1
2
1
D3N0
1
1
1
1
D3N40
1
1
2
1
D3N80
1
1
2
1
D3N120
1
1
2
1
Kết quả phân tích cho thấy, sâu bệnh gây hại ở các công thức thí nghiệm đều ở điểm thấp (điểm 1 đến điểm 2), như vậy mức độ ảnh hưởng của liều lượng và dạng đạm bón ở các công thức thí nghiệm chưa được thể hiện rõ rệt.
3.1.6. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
Năng suất là kết quả và mục tiêu cuối cùng của quá trình sản xuất, là chỉ tiêu đánh giá toàn diện và đầy đủ nhất các quá trình sinh trưởng, phát triển của cây, đồng thời là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư. Trong thí nghiệm, năng suất là chỉ tiêu được dùng để đánh giá sự sai khác giữa các công thức thí nghiệm. Năng suất lúa được tạo thành bởi các yếu tố: số bông/đơn vị diện tích, số hạt chắc/bông và khối lượng 1000 hạt. Khi các yếu tố này đạt tối ưu thì năng suất lúa sẽ đạt cao nhất. Trong các yếu tố cấu thành năng suất lúa thì số bông là yếu tố có tính chất quyết định nhất và sớm nhất, số bông có thể đóng góp 74% năng suất trong khi đó số hạt/bông đóng góp khoảng 20% năng suất. Qua nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến giống lúa Khang Dân 18 trong vụ hè thu 2014 và đông xuân 2014 - 2015 chúng tôi thu được một số kết quả ở bảng 3.7 và 3.8.
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa trong vụ hè thu 2014
Công thức
Các yếu tố cấu thành năng suất
Năng suất (tấn/ha)
Số bông/m2
(bông)
Số hạt chắc/bông 
(hạt)
P1000 hạt
(gam)
Lý thuyết
Thực thu
D1N0
292h
92,1h
19,13bcd
5,14d
4,24c
D1N40
298g
100,5de
19,20b
5,76c
5,12b
D1N80
326d
110,4a
19,33a
6,96b
6,04a
D1N120
361a
108,3b
19,03d
7,44a
6,09a
D2N0
278j
88,8i
19,13bcd
4,73e
4,10c
D2N40
295h
97,7f
19,17bc
5,52cd
4,59bc
D2N80
320e
107,5b
19,17bc
6,59b
5,75a
D2N120
353b
102,9c
19,10bcd
6,93b
5,86a
D3N0
256k
88,4i
18,73e
4,63e
4,17c
D3N40
285i
95,9g
18,77e
5,14d
4,48bc
D3N80
312f
99,5e
19,07cd
5,92b
5,67ab
D3N120
344c
101,9cd
19,17bc
6,72b
5,71a
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức 0,05.
Các số liệu nghiên cứu ở bảng 3.7 và 3.8 cho thấy:
Số bông/m2: Đây là yếu tố mang tính di truyền và chịu ảnh hưởng không nhỏ của điều kiện canh tác, là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất. Thời kỳ quyết định là từ đẻ nhánh rộ trở về trước còn sau đó không ảnh hưởng lớn, ngoài ra nó còn phụ thuộc nhiều vào mật độ gieo cấy và thời gian đẻ nhánh hữu hiệu. Để tăng số bông trên đơn vị diện tích chúng ta cần tác động đồng thời nhiều biện pháp kỹ thuật khác nhau như: chọn đúng thời vụ, mật độ gieo cấy thích hợp, bón phân cân đối, hợp lý, điều khiển quá trình đẻ nhánh thích hợp.
Kết quả đo đếm số bông/m2 đã thể hiện rằng các công thức thí nghiệm khác nhau có ảnh hưởng rất rõ rệt đến số bông/m2 trong cả 02 vụ. Trong vụ hè thu 2014 số bông/m2 ở các công thức thí nghiệm biến động từ 256 bông (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 361 bông (đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha). Còn trong vụ đông xuân 2014 - 2015 thì sự biến động cũng thể hiện rõ rệt ở các mức bón khác nhau, tuy nhiên trong vụ này thì ảnh hưởng của liều lượng và dạng đạm bón ở các công thức thí nghiệm đến số bông/m2 biến động từ 326 bông (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 428 bông (đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha). Qua đó chúng ta thấy ở công thức không bón thì số bông/m2 đạt thấp nhất và công thức bón 120 kg N/ha đạt số bông/m2 cao nhất đối với dạng đạm urê và amôn clorua.
Số hạt chắc/bông: Đây là yếu tố ảnh hưởng đến năng suất rất rõ và chịu tác động rất lớn của môi trường xung quanh. Số hạt chắc/bông có mối tương quan thuận với năng suất lúa. Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy thời kỳ quyết định số hạt chắc/bông là khoảng 32 ngày trước trỗ đến kết thúc thời kỳ chín sữa. Số hạt chắc/bông của các công thức thí nghiệm trong 02 mùa vụ được thể hiện rất rõ từ các dạng đạm bón và liều lượng bón. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng số hạt chắc trên bông của các công thức thí nghiệm trong vụ hè thu 2014 biến động từ 88,4 hạt (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 110,4 hạt (đạm urê với lượng bón 80 kg N/ha). Nhưng trong vụ đông xuân 2014 - 2015 thì biến động từ 76,0 hạt (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 97,7 hạt (đạm amôn clorua với lượng bón 80 kg N/ha).
Khối lượng 1.000 hạt: Là yếu tố cuối cùng cấu thành năng suất lúa. Khối lượng 1.000 hạt chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố di truyền của giống, ngoài ra chế độ canh tác cũng có ảnh hưởng nhưng không đáng kể. Thời kỳ ảnh hưởng đến khối lượng 1.000 hạt là từ thời kỳ giảm nhiễm đến thời kỳ chín sáp. Từ những kết quả đo đếm được chúng tôi thấy khối lượng 1.000 hạt ở các công thức thí nghiệm có sự sai khác nhau không đáng kể. Từ những kết quả đo đếm được chúng tôi thấy khối lượng 1.000 hạt ở các công thức trong vụ hè thu dao động từ 18,73 gam (đạm canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 19,33 gam (đạm urê với lượng bón 80 kg N/ha), trong vụ đông xuân dao động từ 19,77 gam (đạm amôn clorua và canxi nitrat với lượng bón 0 kg N/ha) đến 20,05 gam (đạm urê với lượng bón 120 kg N/ha).
Từ kết quả ở bảng 3.7 và 3.8 ta thấy, năng suất lý thuyết thu được ở các công thức thí nghiệm có sự khác nhau rõ rệt, năng suất lý thuyết dao động 4,63 tấn/ha - 7,44 tấn/ha trong vụ hè thu và 4,90 tấn/ha - 7,92 tấn/ha trong vụ đông xuân, năng suất tăng dần theo lượng bón, nhưng ở lượng bón 120 kg N/ha thì năng suất thu được không sai khác so với lượng bón 80 kg N/ha ở cả hai dạng phân đạm thí nghiệm (urê và amôn clorua). Năng suất lý thuyết thu được cao nhất ở dạng đạm amôn clorua, tiếp theo đến đạng đạm urê.
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa trong vụ đông xuân 2014 - 2015
Công thức
Các yếu tố cấu thành năng suất
Năng suất (tấn/ha)
Số bông/m2
(bông)
Số hạt chắc/bông
(hạt)
P1000 hạt
(gam)
Lý thuyết
Thực thu
D1N0
336h
82,1e
19,80e
5,47e
4,57h
D1N40
357f
86,2d
20,27bcd
6,24d
5,34e
D1N80
392cd
92,2bc
20,43ab
7,39b
6,27b
D1N120
428a
85,5d
20,50a
7,50a
6,37a
D2N0
328h
79,6f
19,77e
5,17e
4,56h
D2N40
389d
91,5b
20,17cd
7,19b
5,24f
D2N80
398c
97,7a
20,33abcd
7,92a
6,08c
D2N120
420b
89,4c
20,37abc
7,64a
6,01d
D3N0
326h
76,0g
19,77e
4,90e
4,53h
D3N40
343g
89,2c
20,13d
6,15g
5,15g
D3N80
360f
92,4b
20,27bcd
6,74c
6,03d
D3N120
373e
91,6b
20,27bcd
6,92c
6,02d
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức 0,05.
Năng suất thực thu: là chỉ tiêu phản ánh kết quả thực tế của một chu kỳ sản xuất trên đồng ruộng. Công thức cho năng suất cao chứng tỏ công thức đó thích ứng và phát triển tốt trong điều kiện của vùng, địa phương sản xuất. Trong vụ hè thu, năng suất thực thu đạt cao nhất là 5,86 - 6,09 tấn/ha tại lượng bón 120 kg N/ha ở dạng đạm amôn clorua và urê theo thứ tự. Trong vụ đông xuân, năng suất thực thu thấp nhất ở các dạng đạm bón tại công thức không bón phân đạm, năng suất cao nhất là 6,37 tấn/ha (ở công thức bón 120 kg N/ha), tiếp đến là 6,27 tấn/ha (tại lượng bón 80 kg N/ha) đối với dạng đạm urê. Tuy nhiên, không tìm thấy sai khác có ý nghĩa thống kê ở lượng bón 80 - 120 kg N/ha ở cả ba dạng đạm bón. Tương tự như vụ hè thu, trong vụ đông xuân không có sự sai khác về mặt thống kê đối với năng suất thực thu ở lượng bón 80 - 120 kg N/ha.
Tăng năng suất lúa đã được công nhận do tăng chỉ số năng suất thay vì tăng hàm lượng hợp chất khô (Ju và cs, 2012) [122]. Ngoài ra, Chen và cs (2010) [100] cho rằng việc tăng năng suất lúa do phụ thuộc vào sự gia tăng hàm lượng chất khô. Tóm lại, năng suất hạt tăng lên song song với việc tăng lượng N bón. Tuy nhiên, khi bón mức N cao nhất, năng suất hạt không tăng nhiều và dường như làm giảm do giảm tỷ lệ hạt chắc. Kết quả này cũng có thể được giải thích do việc sử dụng phân bón N cao làm cho cây trồng dễ bị tổn thương (Islam và cs, 2012) [119]. Murtaza và cs (2014) [139] cho thấy rằng năng suất lúa cao hơn dường như do sử dụng phân bón N cao hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ N cao như vậy không phải lúc nào cũng đóng góp vào năng suất. Do đó, sử dụng N đòi hỏi phải thận trọng để giảm thiệt hại do N rửa trôi và gây ô nhiễm môi trường. Năng suất lúa thấp hơn ở vụ hè thu là do thời gian sinh trưởng ngắn hơn, nhiệt độ cao hơn và thiếu nước tưới, dẫn đến tăng lượng đạm bốc hơi.
3.1.7. Mối tương quan giữa liều lượng và dạng đạm bón với năng suất thực thu trong vụ hè thu 2014 và đông xuân 2014 - 2015
Bảng 3.9. Tương quan giữa liều lượng và dạng phân đạm bón với năng suất thực thu trong vụ hè thu 2014 và vụ đông xuân 2014 - 2015
Tương quan
Vụ
Phương trình hồi quy
 tuyến tính (y)
Hệ số tương quan bội (R)
Hè thu 2014
y = 3,96 - 0,18 D + 0,62 N
R = 0,95**
Đông xuân 2014 - 2015
y = 4,30 - 0,11 D + 0,57 N
R = 0,95**
Ghi chú: y - Năng suất thực thu, D - Dạng đạm bón, N - Liều lượng đạm bón; ** tương quan rất có ý nghĩa P < 0,01.
Qua bảng 3.9 chúng tôi nhận thấy sự tương quan giữa năng suất thực thu với liều lượng và dạng đạm bón trong cả 02 vụ đều thể hiện mối tương quan chặt và rất có ý nghĩa (P < 0,01), hệ số tương quan R = 0,95; chứng tỏ liều lượng và dạng đạm bón có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất thực thu.
3.1.8. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến một số tính chất hóa học đất
Đất là nhân tố quan trọng hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng. Kết quả nghiên cứu về tính chất hóa học đất trước và sau thí nghiệm được thể hiện qua bảng 3.10.
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến tính chất đất
Công thức
pHKCl
OM
(%)
N
(%)
P2O5
(%)
K2O
(%)
Đất trước thí nghiệm
TTN
4,01
2,80
0,060
0,030
0,39
Đất sau thí nghiệm
D1N0
4,11
2,84
0,064
0,031
0,39
D1N40
4,13
2,89
0,067
0,030
0,42
D1N80
4,10
3,04
0,068
0,034
0,47
D1N120
4,07
3,10
0,070
0,034
0,44
D2N0
4,04
2,82
0,062
0,030
0,40
D2N40
4,11
2,84
0,066
0,030
0,43
D2N80
4,08
2,90
0,068
0,035
0,45
D2N120
4,06
3,01
0,069
0,034
0,48
D3N0
4,18
2,80
0,063
0,029
0,40
D3N40
4,24
2,85
0,064
0,031
0,43
D3N80
4,26
2,91
0,068
0,032
0,42
D3N120
4,30
2,96
0,069
0,033
0,46
Độ chua của đất (pHKCl): Độ chua của đất sinh ra do các nguyên nhân như bản thân đất có ít chất kiềm nên đất bị chua; các cation kiềm trong đất bị rửa trôi ra khỏi đất nên đất bị chua .... Kết quả phân tích đất ở bảng 3.10 cho chúng ta thấy độ chua trao đổi trước và sau khi thí nghiệm có sự thay đổi nhưng vẫn nằm trong khoảng rất chua. Trước thí nghiệm thì pH là 4,01, sau thí nghiệm thì pH ở các công thức thí nghiệm dao động từ 4,04 đến 4,30. Như vậy, sau khi bón phân thì độ chua của đất đã giảm đáng kể nhưng chưa thể hiện rõ tầm ảnh hưởng của dạng đạm bón cũng như liều lượng bón đối với pHKCl.
Hợp chất hữu cơ trong đất (OM%): Là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ phì của đất, kho dự trữ thức ăn cho cây trồng. Đất có hàm lượng chất hữu cơ cao sẽ là điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng và vi sinh vật đất. Trên đất có hàm lượng hữu cơ cao, hệ số sử dụng chất dinh dưỡng trong đất và trong phân bón thường cao hơn. Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng OM sau thí nghiệm dao động 2,84 - 3,10%.
Hàm lượng đạm tổng số (N%): Đạm là nguyên tố dinh dưỡng cần thiết đầu tiên và quyết định năng suất cây trồng. Hàm lượng đạm tổng số và chất hữu cơ trong đất là nguồn dự trữ và cung cấp đạm cho cây trồng. Trong đất, đạm tồn tại dưới 02 dạng là đạm vô cơ và đạm hữu cơ, trong đó lượng đạm vô cơ rất ít, chiếm 1 - 2% lượng đạm tổng số của đất (khoảng 1 - 50 ppm). Nói chung, N trong từng loại đất phụ thuộc vào hàm lượng chất hữu cơ trong đất, những đất giàu chất hữu cơ thì cũng giàu đạm tổng số. Từ bảng số liệu ta thấy rằng hàm lượng đạm tổng số trong đất tăng lên sau khi tiến hành thí nghiệm, dao động 0,062% - 0,070%, ở công thức bón nhiều đạm thì hàm lượng đạm trong đất cao, cao nhất ở công thức bón 120 kg N/ha đối với cả 03 dạng đạm bón.
Hàm lượng lân tổng số (P2O5%): Đây là nguyên tố rất cần thiết đối với cây trồng, nó có ý nghĩa về mặt 

File đính kèm:

  • docluan_an_nghien_cuu_anh_huong_cua_phan_bon_va_tuoi_nuoc_den_n.doc