Luận án Nghiên cứu bệnh đầu đen do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra ở gà tại tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang và biện pháp phòng trị bệnh

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu bệnh đầu đen do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra ở gà tại tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang và biện pháp phòng trị bệnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu bệnh đầu đen do đơn bào Histomonas meleagridis gây ra ở gà tại tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang và biện pháp phòng trị bệnh

quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của các tác giả trên. 76 3.2.2.4. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo phương thức chăn nuôi gà Để xác định phương thức chăn nuôi có ảnh hưởng như thế nào đến tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà, chúng tôi đã tiến hành mổ khám 1276 gà nuôi theo 3 phương thức khác nhau. Kết quả được trình bày ở bảng 3.6. và biểu đồ ở hình 3.6, 3.7. Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo phương thức chăn nuôi Phƣơng thức chăn nuôi Số gà mổ khám (con) Số gà nhiễm (con) Tỷ lệ (%) Chăn thả hoàn toàn 239 60 25,10a Bán chăn thả 351 128 36,47b Nuôi nhốt 686 56 8,16c - Gà thịt nuôi nền 202 15 7,43 - Gà sinh sản + Nuôi lồng 126 0 0,00 + Nuôi nền 358 41 11,45 Tính chung 1276 244 19,12 Ghi chú: Theo cột dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê. Hình 3.6. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo phƣơng thức chăn nuôi 77 Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà nuôi nhốt Bảng 3.6 và hình 3.6, 3.7 cho thấy: gà được nuôi theo phương thức bán chăn thả có tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen cao nhất (36,47%), cao hơn 11,37% so với gà nuôi theo phương thức chăn thả hoàn toàn (25,10%). Tỷ lệ nhiễm thấp nhất là ở gà nuôi theo phương thức công nghiệp (8,16%). Cụ thể như sau: Phương thức chăn thả hoàn toàn: trong 239 gà mổ khám, có 60 gà nhiễm bệnh đầu đen, chiếm tỷ lệ 25,10%. Phương thức bán chăn thả: trong 351 gà mổ khám, có 128 gà nhiễm bệnh đầu đen, chiếm tỷ lệ 36,47%, cao hơn tỷ lệ nhiễm ở gà nuôi theo phương thức chăn thả hoàn toàn. Phương thức nuôi nhốt: trong 686 gà mổ khám, chỉ có 56 gà nhiễm bệnh đầu đen, chiếm tỷ lệ 8,16%. Trong 686 gà này có 126 gà công nghiệp sinh sản nuôi lồng (kiểm tra không có gà nào nhiễm H. meleagridis) và có 358 gà công nghiệp sinh sản nuôi nền (tỷ lệ nhiễm H. meleagridis là 11,45%), có 202 gà thịt nuôi nhốt, tỷ lệ nhiễm H. meleagridis là 7,43%. Như vậy, tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà nuôi theo phương thức nuôi nhốt thấp hơn rất nhiều so với phương thức nuôi bán chăn thả và chăn thả hoàn toàn. Sự sai khác này là rất rõ rệt với P < 0,001. 78 Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen của gà ở các phương thức chăn nuôi được chúng tôi giải thích như sau: - Đối với phương thức nuôi nhốt ở một số trại chăn nuôi gà, gồm nuôi lồng và nuôi chuồng nền. Nuôi lồng là phương thức nuôi tiên tiến nhất hiện nay. Trong phương thức nuôi này, người chăn nuôi đã sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật ở tất cả các khâu: giống, thức ăn, nước uống, chuồng trại, quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh thú y và phòng chống dịch bệnh. Do gà được ăn và uống nước sạch, phân được thu gom, quét dọn hàng ngày nên trứng, ấu trùng giun, sán và các loại mầm bệnh khác không có cơ hội nhiễm vào thức ăn, nước uống của gà. Đồng thời, ở phương thức nuôi này gà cũng không tiếp xúc với vật chủ chứa. Những lý do trên giúp cho gà khó bị nhiễm đơn bào H. meleagridis, mặc dù thời gian nuôi dài (80 – 100 tuần/ lứa). Nuôi chuồng nền cũng là phương thức nuôi khá phổ biến hiện nay. Trong phương thức nuôi này, tuy được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, được vệ sinh phòng bệnh đúng kỹ thuật nhưng gà vẫn thường xuyên tiếp xúc với phân, đất và chất đệm lót chuồng. Đó là lý do mà gà nuôi nhốt vẫn bị bệnh ký sinh trùng, trong đó có bệnh đầu đen. Gà sinh sản nuôi nền, thời gian nuôi 80 – 100 tuần, tương ứng với 80 - 100 tuần tuổi, tỷ lệ nhiễm H. meleagridis cao hơn so với gà nuôi thịt với thời gian 45 – 100 ngày/ lứa. - Đối với phương thức chăn thả hoàn toàn và bán chăn thả: Chăn thả hoàn toàn và bán chăn thả là phương thức chăn nuôi mang tính tận dụng, tình trạng vệ sinh kém. Gà được chăn thả ở vườn, đồi thường xuyên tiếp xúc với phân, đất - có chứa trứng, ấu trùng giun, sán và nhiều mầm bệnh khác. Vì vậy, gà nuôi ở 2 phương thức này có tỷ lệ nhiễm H. meleagridis cao (25,10% và 36,47%). Gà ở phương thức nuôi bán chăn thả, chuồng trại và các biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh thú y khá hơn so với phương thức chăn thả hoàn toàn. Mặc dù vậy, gà nuôi ở phương thức này lại có tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis cao nhất (36,47%), cao hơn so với gà nuôi thả hoàn toàn (25,10%). Theo chúng tôi, 79 nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà giữa 2 phương thức chăn nuôi trên có liên quan tới giống và quy mô đàn. Gà nuôi theo phương thức bán chăn thả thường được nuôi với quy mô đàn khá lớn, từ vài trăm, đến vài nghìn con/ hộ. Các giống gà nuôi theo phương thức này là các giống gà ngoại hoặc giống lai giữa gà ngoại với gà địa phương (gà Tam Hoàng, gà Lương Phượng, gà lai Mía ). Ngược lại, ở phương thức chăn thả hoàn toàn thường thấy nuôi quy mô đàn nhỏ, gà được nuôi phân tán, nhỏ lẻ trong các hộ dân, mỗi hộ chỉ nuôi vài chục đến vài ba trăm con tùy theo diện tích vườn đồi và khả năng cung cấp thức ăn cho gà. Các giống gà thả vườn thường là các giống gà địa phương như gà Ri, gà Chọi, gà Tre, gà Đông Cảo Các giống gà này có sức đề kháng và khả năng thích nghi tốt. Mặt khác, Histomonosis là bệnh mới xuất hiện tại các địa phương nên khu vực chăn thả gà bị ô nhiễm mầm bệnh chưa nhiều. Chính vì vậy, với phương thức chăn thả hoàn toàn, số lượng gà ít, lại được nuôi trên diện tích khá rộng thì khả năng gà tiếp xúc với mầm bệnh sẽ giảm đi. Đó là nguyên nhân dẫn đến gà nuôi thả vườn hoàn toàn có tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis thấp hơn so với gà nuôi bán chăn thả. 3.2.2.5. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo loại nền chuồng nuôi gà Để xác định kiểu nền chuồng có ảnh hưở ng như thế nào đến t ỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis, chúng tôi đã ti ến hành mổ khám 911 gà nuôi trên các kiểu nền chuồng khác nhau. Kết quả về tỷ lệ nhiễm H. meleagridis theo kiểu nền chuồng nuôi được trình bày ở bảng 3.7. và biểu đồ hình 3.8. Bảng 3.7. Tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà nuôi trên loại nền chuồng khác nhau Loại nền chuồng Số gà mổ khám (con) Số gà nhiễm (con) Tỷ lệ (%) Nền đất 540 133 24,63a Nền xi măng hoặc lát gạch 371 51 13,75b Tính chung 911 184 20,20 Ghi chú: Theo cột dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê. 80 0 5 10 15 20 25 Nền đất Nền xi măng hoặc lát gạch Tính chung 24,63 13,75 20,20 Tỷ lệ % Kiểu nền chuồng nuôi Hình 3.8. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà nuôi trên kiểu nền chuồng khác nhau Bảng 3.7 và hình 3.8 cho thấy: gà nuôi ở chuồng nền đất nhiễm H. meleagridis với tỷ lệ 24,63 %, cao hơn so với gà được nuôi ở chuồng nền xi măng hoặc lát gạch (13,75 %). Sự sai khác này rất rõ rệt với P < 0,001. Giải thích về sự khác nhau này, chúng tôi thấy rằng, vấn đề vệ sinh chuồng trại có liên quan mật thiết đến chất liệu làm nền chuồng. Bởi lẽ, nuôi gà trong chuồng nền đất, làm cho khâu vệ sinh chuồng trại khó khăn, nền đất thường ẩm ướt, bẩn do phân gà thải ra. Nếu trong đàn có một số gà đã nhiễm đơn bào H. meleagridis, đồng thời lại nhiễm giun kim thì trong phân thải ra có trứng giun kim, trứng giun kim sẽ lưu cữu trên nền đất, từ đó gà dễ dàng bị nhiễm giun kim và bị lây nhiễm bệnh đầu đen. Đặc biệt, nếu nuôi gà trong chuồng nền đất đã từng có gà ở các lứa trước bị bệnh đầu đen thì việc loại bỏ hoàn toàn mầm bệnh từ giun đất và trứng giun kim trên nền chuồng rất khó khăn. Những hộ chăn nuôi gà trong chuồng nền xi măng hoặc lát gạch thì việc thu gom phân và đệm lót dễ dàng, việc phun thuốc sát trùng tiêu độc chuồng trại có hiệu quả hơn. Vì vậy, nuôi gà trên kiểu nền chuồng này sẽ hạn chế được tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen ở đàn gà. Tyzzer E. E. và Collier J. (1925) [124] cho rằng, bệnh đầu đen xảy ra chủ yếu trên những đàn gà nuôi thả vườn, những đàn gà thường xuyên tiếp xúc với môi trường đất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét trên. 81 Như vậy, kiểu nền chuồng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà. Trong chăn nuôi, kể cả nuôi nhốt trong chuồng nền hoặc nuôi bán chăn thả đều không nên duy trì kiểu chuồng nền đất. 3.1.2.6. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y trong chăn nuôi Vấn đề vệ sinh thú y có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi. Để xác định tình trạng vệ sinh thú y có ảnh hưởng như thế nào đến tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà, chúng tôi đã tiến hành mổ khám gà nuôi ở 3 tình trạng vệ sinh thú y khác nhau. Kết quả được trình bày ở bảng 3.8. và biểu đồ hình 3.9 Bảng 3.8. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y Tình trạng VSTY Số gà mổ khám (con) Số gà nhiễm (con) Tỷ lệ (%) Tốt 415 24 5,78a Trung bình 362 58 16,02 b Kém 499 162 32,46 c Tính chung 1276 244 19,12 Ghi chú: Theo hàng dọc, các tỷ lệ nhiễm mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê. 0 5 10 15 20 25 30 35 Tốt Trung bình Kém Tính chung 5,78 16,02 32,46 19,12 Tỷ lệ % Tình trạng vệ sinh thú y Hình 3.9. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm H. meleagridis ở gà theo tình trạng vệ sinh thú y 82 Từ kết quả ở bảng 3.8 và hình 3.9 cho thấy: tình trạng vệ sinh thú y khác nhau thì tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà cũng khác nhau. Trong tổng số 1276 gà mổ khám có 244 gà nhiễm H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 19,12%, biến động từ 5,78 – 32,46%, phụ thuộc vào các mức độ vệ sinh thú y trong chăn nuôi. Cụ thể: Tình trạng vệ sinh thú y tốt: trong tổng số 415 gà mổ khám có 24 gà nhiễm bệnh đầu đen, chiếm tỷ lệ 5,78%. Tình trạng vệ sinh thú y trung bình: trong tổng số 362 gà mổ khám có 58 gà nhiễm bệnh đầu đen, chiếm tỷ lệ 16,02%. Tình trạng vệ sinh thú y kém: trong tổng số 499 gà mổ khám có 162 gà nhiễm bệnh đầu đen, chiếm tỷ lệ 32,46%. Như vậy, tình trạng vệ sinh thú y có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà. Gà được nuôi trong tình trạng vệ sinh thú y tốt thì tỷ lệ nhiễm H. meleagridis thấp hơn rất rõ rệt so với gà nuôi trong tình trạng vệ sinh thú y ở mức trung bình và kém (P < 0,001). Kết quả này cho thấy, người chăn nuôi cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề vệ sinh thú y trong chăn nuôi gà để hạn chế tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis ở gà. Những biện pháp cần thực hiện là: xây dựng chuồng trại chăn nuôi gà ở nơi cao ráo, thoáng mát, thường xuyên vệ sinh chuồng và khu vực chăn thả gà, định kỳ khử trùng, tiêu độc chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi; phát quang cây cỏ, khơi thông cống rãnh, cuốc xới vườn rồi rắc vôi bột nhằm tạo điều kiện bất lợi cho sự phát triển của ký chủ trung gian truyền bệnh đơn bào H. meleagridis. 3.2.3. Nghiên cứu sự liên quan giữa bệnh đầu đen và bệnh giun kim ở gà Ký chủ trung gian (KCTG ) giữ một vai trò quan trọng trong quá trình gây bệnh cũng như phát tán mầm bệnh ký sinh trùng. Theo nhiều tác giả, giun kim là KCTG của đơn bào H. meleagridis. Vì vậy, để xác định vai trò của giun kim trong bệnh đầu đen ở gà, chúng tôi đã nghiên cứu tương quan giữa tỷ lệ gà mắc bệnh đầu đen và tỷ lệ gà nhiễm giun kim trong cùng một số lượng gà mổ khám. 3.2.3.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám Kết quả xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim trên 1276 gà mổ khám được trình bày ở bảng 3.9 và biểu đồ ở hình 3.10. 83 Để xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà, chúng tôi đã mổ khám và kiểm tra 1276 gà ở các lứa tuổi khác nhau tại một số huyện thuộc tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang. Kết quả được trình bày ở bảng 3.9 và biểu đồ 3.10, 3.11. Bảng 3.9. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám Địa phương (tỉnh, huyện) Số gà mổ khám (con) Số gà nhiễm (con) Tỷ lệ (%) Cường độ nhiễm (số giun kim/gà) 300 n % n % n % Thái Nguyên Phú Bình 265 159 60,00 42 26,42 69 43,40 48 30,19 Võ Nhai 174 38 21,84 12 31,58 20 52,63 6 15,79 Phổ Yên 176 75 42,61 20 26,67 37 49,33 18 24,00 Σ 615 272 44,23 74 27,21 126 46,32 72 26,47 Bắc Giang Tân Yên 215 106 49,30 25 23,58 53 50,00 28 26,42 Yên Thế 264 177 67,05 43 24,29 78 44,07 56 31,64 Hiệp Hòa 182 62 34,07 19 30,65 30 48,39 13 20,97 Σ 661 345 52,19 87 25,22 161 46,67 97 28,12 Tính chung 1276 617 48,35 161 26,09 287 46,52 169 27,39 0 10 20 30 40 50 60 70 44,23 52,19 48,35 Thái Nguyên Bắc Giang Tính chung 60 42,61 21,84 49,3 67,05 34,07 48,35 Tỷ lệ % Địa phương Phú Bình Phổ Yên Võ Nhai Tân Yên Yên Thế Hiệp Hòa Hình 3.10. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm giun kim ở gà mổ khám tại Thái Nguyên và Bắc Giang 84 Hình 3.11. Biểu đồ cƣờng độ nhiễm giun kim ở gà mổ khám tại Thái Nguyên và Bắc Giang Kết quả bảng 3.9 và biểu đồ ở hình 3.10, 3.11 cho thấy, gà ở tất cả các địa phương nghiên cứu đều nhiễm giun kim. Tuy nhiên, tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở mỗi địa phương là khác nhau. Về tỷ lệ nhiễm: Qua mổ khám ngẫu nhiên 1276 gà tại 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang thấy có 617 gà nhiễm giun kim, tỷ lệ nhiễm là 48,35 %. Gà nuôi tại tỉnh Bắc Giang có tỷ lệ nhiễm giun kim là 52,19%, cao hơn so với gà nuôi tại tỉnh Thái Nguyên (44,23%). Cụ thể: Tỉnh Thái Nguyên: mổ khám 615 gà, có 272 con nhiễm giun kim, tỷ lệ nhiễm là 44,23 %. Trong đó, gà nuôi tại huyện Phú Bình tỷ lệ nhiễm giun kim cao nhất (60,00 %), sau đó đến huyện Phổ Yên (42,61 %) và thấp nhất là gà nuôi ở huyện Võ Nhai (21,84 %). 85 Tỉnh Bắc Giang: mổ khám 661 gà, có 345 con nhiễm giun kim, tỷ lệ nhiễm là 52,19 %. Trong đó, gà nuôi tại Yên Thế có tỷ lệ nhiễm giun kim cao nhất (67,05 %), sau đó đến huyện Tân Yên (49,30 %), và thấp nhất ở gà nuôi tại huyện Hiệp Hòa (30,07 %). Về cường độ nhiễm: Gà ở các địa phương nghiên cứu đều bị nhiễm giun kim cường độ từ nhẹ đến nặng. Trong tổng số 617 gà nhiễm giun kim, có 161 con nhiễm ở cường độ nhẹ, chiếm tỷ lệ 26,09 %; 287 con bị nhiễm ở cường độ trung bình, chiếm tỷ lệ 46,52 % và 169 con nhiễm ở cường độ nặng, chiếm tỷ lệ 27,39 %. Cường độ nhiễm giun kim gà ở từng tỉnh như sau: - Tỉnh Thái Nguyên: mổ khám 615 gà có 27,21 % số gà mổ khám nhiễm ở cường độ nhẹ, 46,32 % số gà nhiễm ở cường độ trung bình và 26,47 % số gà nhiễm ở cường độ nặng. Huyện Phú Bình có số gà nhiễm giun kim ở cường độ nặng nhiều nhất (30,19 %). - Tỉnh Bắc Giang: mổ khám 661 gà, có 87 gà nhiễm ở cường độ nhẹ (chiếm 25,22 %), 161 gà nhiễm ở cường độ trung bình (chiếm 46,67 %), 97 gà nhiễm ở cường độ nặng (chiếm 28,12 %). Huyện Yên Thế và Tân Yên có số gà nhiễm giun kim ở cường độ nặng nhiều nhất (31,64 %, 26,42 %). Sự khác nhau về tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kim ở gà các địa phương được chúng tôi giải thích như sau: Huyện Phú Bình, Yên Thế và Tân Yên là những địa phương chăn nuôi gà nhiều nhất của tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang. Gà nuôi tại các địa phương này chủ yếu được chăn thả trong những vườn vải thiều, hoặc dưới những tán cây rừng có độ cao và bóng mát che phủ. Do tận dụng lợi thế đất đai và vườn đồi nên người chăn nuôi đã không chú ý đầu tư xây dựng chuồng trại phù hợp, ban ngày gà ở vườn đồi bới đất ăn giun đất và côn trùng, tối ngủ trên cành cây hoặc nóc chuồng. Gà chủ yếu sống ngoài tự nhiên nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự thay đổi thời tiết khí hậu, dẫn đến sức đề kháng giảm. Hơn nữa, ở môi trường vườn, đồi gà có tập tính bới đất tìm kiếm thức ăn, vì vậy cơ hội tiếp xúc với mầm bệnh cao. Ngoài ra, phân gà thải ra trên vườn, đồi được tán cây che phủ, tạo nơi khu trú lý tưởng cho các loại mầm bệnh, đặc biệt là 86 mầm bệnh ký sinh trùng, trong đó có trứng giun kim tồn tại và phát triển. Việc nuôi gối đàn dẫn tới công tác khử trùng, tiêu độc định kỳ sau mỗi lứa gà xuất khó thực hiện, tạo cơ hội cho mầm bệnh lưu cữu. Đó là những nguyên nhân làm cho gà nuôi tại các địa phương của huyện Phú Bình, Yên Thế và Tân Yên có tỷ lệ nhiễm giun kim cao, nhiễm khá nhiều ở cường độ trung bình và nặng. Ngược lại, tại các huyện Phổ Yên, Hiệp Hòa và Võ Nhai nhiều hộ chăn nuôi gà trong chuồng lồng, chuồng sàn hoặc chăn thả ngoài tự nhiên với mật độ tương đối thưa, khả năng tiếp xúc với mầm bệnh ít nên tỷ lệ nhiễm giun kim thấp hơn, gà chủ yếu nhiễm giun kim ở cường độ trung bình và nhẹ. 3.2.3.2. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim và trong số gà không nhiễm giun kim * Để xác định tương quan giữa tỷ lệ nhiễm giun kim với tỷ lệ mắc bệnh đầu đen ở gà, chúng tôi đã mổ khám và xác định được 617 gà nhiễm giun kim ở các địa phương nghiên cứu. Từ những gà nhiễm giun kim này, chúng tôi đã tiến hành các biện pháp xét nghiệm để xác định tỷ lệ nhiễm đơn bào H. meleagridis. Kết quả nghiên cứu tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim được trình bày ở bảng 3.10. Bảng 3.10. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim Địa phƣơng (tỉnh, huyện) Số gà nhiễm giun kim (con) Số gà nhiễm H. meleagridis (con) Tỷ lệ (%) Thái Nguyên Phú Bình 159 69 43,40 Võ Nhai 38 6 15,79 Phổ Yên 75 12 16,00 Tổng 272 87 31,99 Bắc Giang Tân Yên 106 28 26,42 Yên Thế 177 81 45,76 Hiệp Hòa 62 12 19,35 Tổng 345 121 35,07 Tính chung 617 208 33,71 Kết quả bảng 3.10 cho thấy: trong tổng số 617 gà mổ khám nhiễm giun kim có 208 gà nhiễm đơn bào H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 33,71 %. Tại tỉnh Bắc Giang, tỷ lệ 87 nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim cao hơn so với gà nuôi tại tỉnh Thái Nguyên (35,07 % so với 31,99%). Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà nhiễm giun kim ở mỗi tỉnh như sau: - Tỉnh Thái Nguyên: trong 272 gà nhiễm giun kim có 87 gà nhiễm đơn bào H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 31,99 %. Trong đó, số gà nhiễm đơn bào H. meleagridis trong số nhiễm giun kim của huyện Phú Bình là 43,40 %; huyện Phổ Yên là 16,00 %; huyện Võ Nhai là 15,79 %. - Tỉnh Bắc Giang: trong 345 gà nhiễm giun kim có 121 gà nhiễm đơn bào H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 35,07 %. Trong đó, số gà nhiễm đơn bào H. meleagridis trong số nhiễm giun kim của huyện Tân Yên là 26,42 %; huyện Yên Thế là 45,76 %; huyện Hiệp Hòa là 19,35 %. Từ kết quả trên, chúng tôi nhận thấy, tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen có liên quan với tỷ lệ nhiễm giun kim ở gà, bởi địa phương nào gà nhiễm giun kim nhiều thì cũng nhiễm bệnh đầu đen nhiều hơn so với các địa phương khác, và ngược lại. * Để làm rõ hơn mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm giun kim với tỷ lệ mắc bệnh đầu đen, ngoài việc xác định tỷ lệ mắc bệnh đầu đen trong số gà nhiễm giun kim, chúng tôi còn xác định thêm tỷ lệ mắc bệnh đầu đen trong số gà không nhiễm giun kim. Kết quả nghiên cứu tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà không nhiễm giun kim được thể hiện qua bảng 3.11. Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà không nhiễm giun kim Địa phƣơng (tỉnh, huyện) Số gà không nhiễm giun kim (con) Số gà nhiễm H. meleagridis (con) Tỷ lệ (%) Thái Nguyên Phú Bình 106 9 8,49 Võ Nhai 136 2 1,47 Phổ Yên 101 3 2,97 Tổng 343 14 4,08 Bắc Giang Tân Yên 109 8 7,34 Yên Thế 87 11 12,64 Hiệp Hòa 120 3 2,50 Tổng 316 22 6,96 Tính chung 659 36 5,46 88 Kết quả bảng 3.11 cho thấy: trong số 659 gà mổ khám không nhiễm giun kim, có 36 gà nhiễm đơn bào H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 5,46 %. So sánh thấy tỷ lệ nhiễm H. meleagridis trong số gà không nhiễm giun kim thấp hơn nhiều so với tỷ lệ này trên gà nhiễm giun kim (5,46 % so với 33,71 %). - Tỉnh Thái Nguyên: trong 343 gà không nhiễm giun kim, có 14 gà nhiễm H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 4,08 %. Kết quả nghiên cứu ở từng huyện cụ thể như sau: Huyện Phú Bình, trong số 106 gà không nhiễm giun kim, có 9 gà nhiễm H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 8,49 %. Huyện Võ Nhai, trong số 136 gà không nhiễm giun kim, có 2 gà nhiễm H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 1,47 %. Huyện Phổ Yên, trong số 101 gà không nhiễm giun kim, có 3 gà nhiễm H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 2,97 %. - Tỉnh Bắc Giang: trong số 316 gà không nhiễm giun kim có 22 gà nhiễm H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 6,96 %. Cụ thể: Huyện Tân Yên, trong số 109 gà không nhiễm giun kim, có 8 gà nhiễm H. meleagridis, chiếm tỷ lệ 7,34 %. Huyện Yên Thế, trong số 87 gà không nhiễm giun kim có 11 gà nhiễm H. meleagridis, chiếm tỷ lệ
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_benh_dau_den_do_don_bao_histomonas_meleag.pdf
Tom tat Tieng Anh NCS Truong Thi Tinh DHTN 03-2016.pdf
Tom tat Tieng Viet NCS Truong Thi Tinh DHTN 03-2016.pdf
Trang TT LA NCS Truong Thi Tinh DHTN 03-2016.doc