Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 230 trang nguyenduy 01/10/2025 130
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An

Luận án Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An
cứu cho thấy, khi lây 
nhiễm trên lá 5 tuần tuổi thì đường kính vết bệnh đạt mức lớn nhất là 3,52 mm. 
Tiếp đến là đường kính vết bệnh trên lá 4 tuần tuổi và lá 6 tuần tuổi có giá trị 
tương đương nhau, lần lượt là 2,51 mm cà 2,82 mm. Khi lây nhiễm trên lá 7 tuần 
tuổi thì đường kính vết bệnh là 2,20 mm. Như vậy, có thể thấy giai đoạn xung 
quanh thời điểm ra hoa thuận lợi cho sự phát triển của bệnh. Ngược lại, khi cây 
còn non thì sự phát triển của vết bệnh không thuận lợi. Đường kính vết bệnh trên 
lá 3 tuần tuổi là 1,76 mm. Khi lây nhiễm trên lá 2 tuần tuổi thì đường kính vết 
bệnh đạt mức nhỏ nhất là 1,41 mm (bảng 4.15). 
 Tương tự, các giá trị như số vết bệnh, tỷ lệ diện tích lá nhiễm bệnh và tần số 
nhiễm cũng đạt mức cao nhất khi lây nhiễm trên lá 5 tuần tuổi. Còn các tuổi lá 
khác có mức độ gây hại thấp hơn (bảng 4.15). 
Kết quả nghiên cứu trên cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Zhang 
et al. (2001) là khi lây nhiễm nhân tạo nấm C. personatum lên giống lạc 
Florunner trong nhà lưới thì chỉ số bệnh trên cây 3 tuần tuổi thấp hơn so với cây 
được 4, 5 hoặc 6 tuần tuổi và chỉ số bệnh trên cây 5 tuần tuổi đạt cao nhất. 
106
 Như vậy, có thể khẳng định rằng, giai đoạn cây lạc bắt đầu ra hoa là giai 
đoạn mẫn cảm nhất của cây lạc đối với bệnh đốm đen. Tiếp đến là các giai đoạn 
lạc xung quanh thời điểm ra hoa của cây lạc cũng tương đối mẫn cảm đối với 
bệnh. Giai đoạn cây con là giai đoạn ít mẫn cảm nhất. Chính vì vậy, trên đồng 
ruộng bệnh đốm đen ít khi gây hại ở giai đoạn cây con. Bệnh thường xuất hiện và 
gây hại muộn, khi cây bước vào giai đoạn sinh trưởng sinh thực nên bệnh đốm 
đen còn được gọi là bệnh đốm lá muộn (bảng 4.15). 
 Kết quả này là cơ sở khoa học để đưa ra khuyến cáo cho công tác phòng trừ 
bệnh. Để nâng cao hiệu quả của các biện pháp phòng trừ cần tiến hành phun thuốc khi 
cây lạc bắt đầu ra hoa. Đây là thời điểm bào tử nấm P. personata trong đất bắt đầu 
tiếp xúc với tầng lá phía dưới và thực thiện quá trình xâm nhập, lây bệnh. Do đó khi 
xử lý vào thời điểm này sẽ làm giảm đáng kể lượng bào tử xâm nhập, gây hại cho cây 
do việc ức chế sự nảy mầm của bào tử và sự phát triển của sợi nấm khi mới bắt đầu 
xâm nhiễm (bảng 4.15). 
4.3.3. Xác định hình thức sinh sản hữu tính của nấm P. personata trong điều 
kiện tự nhiên 
 Nguồn bệnh là yếu tố liên quan trực tiếp đến quá trình phát sinh phát triển 
của bệnh trên đồng ruộng. Trong đó, nguồn bệnh hữu tính đóng vai trò quan 
trọng, tạo nên sự đa dạng của nấm bệnh trong tự nhiên, từ đó liên quan đến mức 
độ gây hại của bệnh trên đồng ruộng và hiệu quả của các biện pháp phòng trừ. 
 Theo McDonald et al. (1985), trong chu kỳ bệnh của nấm P. personata có 
giai đoạn sinh sản hữu tính. Vì vậy, để xác định các dạng nguồn bệnh đốm đen 
tại Nghệ An nhằm giải thich sự phát sinh phát triển của bệnh đốm đen trên đồng 
ruộng, các mẫu bệnh đã được thu thập liên tiếp trong 2 năm từ 2013 đến 2014, 
trong cả vụ xuân và vụ thu để quan sát quả thể của nấm. 
 Kết quả quan sát trên khoảng 3000 vết bệnh của 200 mẫu bệnh thu thập tại 
Nghệ An cho thấy nấm P. personata không hình thành quả thể trên vết bệnh. 
Điều này chứng tỏ rằng hình thức sinh sản hữu tính của nấm P. personata chưa 
tìm thấy trong điều kiện tự nhiên ở Nghệ An. Kết quả này phù hợp với kết quả 
phân tích đa dạng di truyền bằng kỹ thuật Rep – PCR của 33 mẫu nấm thu thập 
tại Nghệ An là các mẫu nấm có mức tương đồng di truyền cao, mức độ đa dạng 
di truyền thấp vì nếu có hình thức sinh sản hữu tính thì quần thể nấm thường có 
mức độ đa dạng di truyền cao. 
Kết quả quan sát trên cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của 
107
McDonald et al. (1985) là giai đoạn sinh sản hữu tính của nấm P. personata ít 
khi hình thành trong điều kiện tự nhiên và không phải là nguồn bệnh quan trọng 
đối với sự phát sinh phát triển của bệnh đốm đen trên đồng ruộng. 
4.4. NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ BỆNH ĐỐM ĐEN HẠI 
LẠC DO NẤM P. PERSONATA GÂY RA 
 Bệnh đốm đen là một trong những bệnh hại lá nguy hiểm nhất trên cây lạc 
trên toàn thế giời. Tuy nhiên tại Việt Nam, cho đến nay bệnh chưa được chú 
trọng nghiên cứu. Đặc biệt, các nghiên cứu về biện pháp phòng trừ bệnh cũng 
chưa được quan tâm. Tại Nghệ An, người trồng lạc hầu như không áp dụng biện 
pháp nào để phòng trừ bệnh, kể cả biện pháp hóa học. Chính vì vậy, việc nghiên 
cứu về các biện pháp phòng trừ trong điều kiện Việt Nam là hết sức cần thiết. 
Một loạt các biện pháp được tập trung nghiên cứu gồm biện pháp hóa học, biện 
pháp sử dụng chất kích kháng và biện pháp sinh học nhằm tìm ra sản phẩm 
phòng trừ hiệu quả bệnh đốm đen, từ đó giúp khống chế sự phát triển của bệnh 
trên đồng ruộng, góp phần nâng cao năng suất và phẩm chất lạc. 
 Các biện pháp phòng trừ bệnh được đánh giá từ trong phòng thí nghiệm 
đến nhà lưới và ra ngoài đồng ruộng (hình 4.39, hình 4.40, hình 4.41, hình 4.42). 
Hình 4.39. Thí nghiệm đánh giá hiệu lực ức chế khả năng nảy mầm 
của nấm P. personata của các các chế phẩm trong phòng thí nghiệm 
108
Hình 4.40 Thí nghiệm phòng trừ bệnh trong điều kiện in vivo 
Hình 4.41. Thí nghiệm phòng trừ bệnh trong nhà lưới 
Hình 4.42. Thí nghiệm phòng trừ bệnh ngoài đồng ruộng (thí nghiệm ô nhỏ 
109
4.4.1. Nghiên cứu khả năng phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc bằng biện pháp 
hóa học 
 Biện pháp hóa học là biện pháp phòng trừ bệnh hại cây trồng hiệu quả, 
ngay cả khi bệnh phát triển mạnh. Do khả năng trừ bệnh nhanh chóng và thuận 
tiện khi sử dụng nên biện pháp hóa học được người nông dân ưa dùng. Tuy 
nhiên, để giảm thiểu chi phí và nâng cao hiệu quả phòng trừ cũng như giảm 
những tác động xấu của thuốc hóa học đến mối trường cần xác định đúng thuốc, 
đúng liều lượng va nồng độ nhằm khống chế bệnh hiệu quả nhất. Một số loại 
thuốc hóa học đang sử dụng phổ biến trên thị trường Việt Nam được tập trung 
nghiên cứu, bao gồm Topsin M 70WP, Anvil 5SC, Daconil 75WP, Carbenvil 
50SC nhằm mục đích tìm ra loại thuốc hóa học có khả năng phòng chống hiệu 
quả bệnh đốm đen. Hiệu lực của từng loại thuốc được đánh giá từ trong phòng thí 
nghiệm, đến nhà lưới và ra ngoài đồng ruộng trên giống lạc L14. 
4.4.1.1. Ảnh hưởng của thuốc hoá học đến khả năng nảy mầm của bào tử nấm 
P. personata trong điều kiện in vitro. 
Thí nghiệm trong điều kiện in vitro nhằm bước đầu xác định hiệu lực của 
từng nồng độ, từng loại thuốc trong việc ức chế sự nảy mầm của của bào tử nấm 
P. personata. 
 Mỗi loại thuốc được sử dụng với 4 nồng độ khác nhau gồm: nồng độ 
0,04%, 0,06%, 0,08% và 0,10%. Bào tử sau khi cấy trên các đĩa petri được để ở 
điều kiện 12 giờ chiếu sáng/ngày, ở nhiệt độ 250C. Số lượng bào tử nảy mầm 
được theo dõi và xác định ở 12 giờ, 24 giờ và 48 giờ sau khi cấy. Kết quả nghiên 
cứu được thể hiện ở bảng 4.16. 
Thuốc Anvil 5SC có hiệu quả thấp nhất trong việc ức chế sự nảy mầm của 
bào tử nấm P. personata. Ở 12 giờ và 24 giờ sau khi cấy, hiệu lực của tất cả nồng 
độ thử nghiệm đều đạt 100%. Nhưng đến 48 giờ sau khi cấy thì bào tử bắt đầu nảy 
mầm do đó hiệu lực của thuốc giảm xuống. Ở nồng độ 0,1%, hiệu lực của thuốc 
thấp nhất, chỉ đạt 62,22%. Tiếp đến, hiệu lực ức chế của thuốc ở nồng độ 0,15% 
đạt 74,45%. Khi sử dụng nồng độ 0,2% thì hiệu lực của thuốc đạt 90,0%. Nồng độ 
0,25% có hiệu lực cao nhất, đạt 100% (bảng 4.16). 
 Thuốc Topsin M 70WP có khả năng ức chế sự nảy mầm của bào tử P. 
personata tốt hơn so với Anvil 5SC. Sau 48h\ giờ, hiệu lực ức chế của nồng độ 
0,04% đạt 92,22%. Các nồng độ 0,06%, 0,08% và 0,1% đều có hiệu lực ức chế 
đạt mức tối đa là 100% sau 48 giờ (bảng 4.16). 
Bảng 4.16. Hiệu lực ức chế của thuốc hóa học đến khả năng nảy mầm của bào tử nấm P. personata 
trong điều kiện in vitro 
Công 
thức 
Tên thuốc Nồng độ 
Tổng số 
bào tử 
Số bào tử nảy mầm trung bình Hiệu lực ức chế (%) 
Sau 
12 giờ 
Sau 
24 giờ 
Sau 
48 giờ 
Sau 
12 giờ 
Sau 
24 giờ 
Sau 
48 giờ 
CT1 
Topsin M 70WP 
1/2 khuyến cáo 0,04% 30 0,0 0,0 2,33 100,0a 100,0a 92,22b 
CT2 3/4 khuyến cáo 0,06% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT3 Khuyến cáo 0,08% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT4 5/4 khuyến cáo 0,10% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT5 
Anvil 5SC 
1/2 khuyến cáo 0,10% 30 0,0 0,0 11,33 100,0a 100,0a 62,22d 
CT6 3/4 khuyến cáo 0,15% 30 0,0 0,0 6,67 100,0a 100,0a 74,45c 
CT7 Khuyến cáo 0,20% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 90,00b 
CT8 5/4 khuyến cáo 0,25% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT9 
Daconil 75WP 
1/2 khuyến cáo 0,08% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT10 3/4 khuyến cáo 0,11% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT11 Khuyến cáo 0,15% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT12 5/4 khuyến cáo 0,19% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT13 
Carbenvil 50SC 
1/2 khuyến cáo 0,13% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT14 3/4 khuyến cáo 0,19% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT15 Khuyến cáo 0,25% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT16 5/4 khuyến cáo 0,31% 30 0,0 0,0 0,0 100,0a 100,0a 100,0a 
CT17 Đối chứng(Môi trường WA 2%) 30 8.33 30,0 30,0 - - - 
LSD0,05 0,0 0,0 3,19 
 Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa ở mức α = 0,0
110 
111
 Daconil 75WP và Carbenvil 50SC là hai loại thuốc có hiệu quả cao nhất 
trong việc ức sự nảy mầm của bào tử P. personata. Kết quả quan sát tại thời điểm 
12 giờ, 24 giờ, 48 giờ sau khi cấy ở tất cả các nồng độ thử nghiệm đều có hiệu 
lực đạt mức cao nhất là 100% (bảng 4.16). 
4.4.1.2. Ảnh hưởng củai thuốc hoá học đến khả năng gây bệnh của nấm P. 
personata trên giống lạc L14 trong điều kiện in vivo 
 Từ kết quả thí nghiệm trong điều kiện in vitro, tiến hành lựa chọn các 
nồng độ tối ưu của từng loại thuốc để tiếp tực đánh giá khả năng gây bệnh của 
nấm P. personata trên cây lạc, bước đầu xác định hiệu lực của thuốc trong phòng 
trừ bệnh đốm đen trên giống lạc L14. 
 Với từng loại thuốc, tiến hành thử nghiệm với nồng độ 3/4 khuyến cáo, 
nồng độ khuyến cáo và nồng độ 5/4 khuyến cáo. Cây lạc được trồng trong thùng 
xốp với cát sông đã được hấp khử trùng. Khi cây được mọc được 5 tuần (bắt đầu ra 
hoa) thì phun thuốc hóa học, sau 24 giờ tiến hành lây bệnh với nồng độ 5.104 bào 
tử/ml. Do trong 4 loại thuốc sử dụng cho thí nghiệm có 3 loại thuốc gồm Topsin M 
70WP, Anvil 5SC và Carbenvil 50SC là thuốc thấm sâu và thuốc Daconil 75WP là 
thuốc tiếp xúc. Vì vậy, chỉ lựa chọn phương pháp phun thuốc trước khi lây bệnh 24 
giờ để đảm bảo hiệu quả cho tất cả các loại thuốc. Quan sát hàng ngày để xác định 
thời gian ủ bệnh và đo đếm đường kính vết bệnh, số lượng vết bệnh trên cây ở 28 
ngày sau khi lây nhiễm. Kết quả thí nghiệm được thể hiện qua bảng 4.17. 
 Thuốc Anvil 5SC không hiệu quả trong việc ức chế sự xâm nhập và phát 
triển của nấm P. personata. Thuốc Anvil không có tác dụng kéo dài thời gian ủ 
bệnh, không có tác dụng làm giảm đường kính vết bệnh trên cây đồng thời số vết 
bệnh ở các công thức thí nghiệm cũng giảm xuống không đáng kể so với đối 
chứng. Ở nồng độ 0,2 và 0,25, số vết bệnh trên cây cũng chỉ giảm xuống mức 
69,56 vết và 63,67 vết (bảng 4.17). 
 Tương tự, thuốc Topsin M 70WP cũng không có tác dụng kéo dài thời gian ủ 
bệnh và cũng không có tác dụng làm giảm đường kính vết bệnh trên cây. Tuy 
nhiên, khi sử dụng thuốc này ở nồng độ 0,08 và 0,10% thì số vết bệnh trên cây 
giảm xuống đáng kể, lần lượt là 50,44 vết và 42,78 vết (bảng 4.17). 
 Tương tự như nghiên cứu của Labrinos and Nutte (1993), thuốc Daconil 
75WP không có tác dụng trong việc kéo dài thời gian ủ bệnh, đồng thời cũng 
không có tác dụng làm giảm đường kính vết bệnh trên cây. Tuy nhiên, do ức chế 
112
tốt sự nảy mầm của bào tử nên thuốc có tác dụng làm giảm mạnh số vết bệnh 
trên cây. Thuốc Daconil 75WP ở nồng 0,19% có tác dụng làm giảm số vết bệnh 
trên cây xuống mức thấp nhất là 30,33 vết (bảng 4.17). 
Bảng 4.17. Ảnh hưởng của thuốc hóa học đến khả năng gây bệnh của nấm P. 
personata trên giống lạc L14 trong điều kiện in vivo 
CT Tên thuốc Nồng độ 
TGUB 
(ngày) 
SVB 
(vết/cây) 
ĐKVB 
(mm) 
CT1 
Topsin M 
70WP 
3/4 khuyến cáo 0,06% 14,67c 70,22b 3,14a 
CT2 Khuyến cáo 0,08% 15,67c 50,44c 3,08a 
CT3 5/4 khuyến cáo 0,10% 15,89c 42,78cd 3,00a 
CT4 
Anvil 5SC 
3/4 khuyến cáo 0,15% 14,78c 80,44a 3,23a 
CT5 Khuyến cáo 0,20% 14,67c 69,56b 3,22a 
CT6 5/4 khuyến cáo 0,25% 15,67c 63,67b 3,10a 
CT7 
Daconil 
75WP 
3/4 khuyến cáo 0,11% 15,11c 50,22cd 3,31a 
CT8 Khuyến cáo 0,15% 15,00c 32,11de 3,19a 
CT9 5/4 khuyến cáo 0,19% 15,22c 30,33e 3,21a 
CT10 
Carbenvil 
50SC 
3/4 khuyến cáo 0,19% 21,33b 40,44d 2,48b 
CT11 Khuyến cáo 0,25% 26,78a 27,78e 1,53c 
CT12 5/4 khuyến cáo 0,31% 27,00a 26,67e 1,33c 
CT13 
(Đ/C) 
Phun nước 
lã 
 15,00c 85,00a 3,38a 
LSD0,05 1,43 9,09 0,49 
 Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa 
ở mức α = 0,05. 
 Tương tự như kết quả nghiên cứu của Culbreath et al. (2002), Carbenvil 
50SC là thuốc có hiệu quả tốt nhất trong việc ức chế tính gây bệnh của nấm P. 
personata. Ngoài khả năng khống chế hiệu quả số vết bệnh xuất hiện trên cây, 
thuốc còn có khả năng ức chế sự phát triển của đường kính vết bệnh. Quan trọng 
hơn, thuốc có tác dụng kéo dài thời gian ủ bệnh, làm chậm sự xuất hiện triệu 
chứng bệnh trên cây, từ đó làm giảm số lượng chu kỳ xâm nhiễm trên đồng 
ruộng hay giảm số lần tái xâm nhiễm trong vụ trồng, do đó giảm được mức độ 
gây hại của bệnh. So với công thức đối chứng, ở nồng độ 0,19%, thuốc đã có tác 
động rõ ràng đến thời gian ủ bệnh, đạt 21,33 ngày. Nồng độ 0,25% có hiệu quả 
tối ưu nhất với thời gian ủ bệnh đạt mức dài nhất là 26,78 ngày, số vết bệnh đạt 
mức thấp nhất là 27,78 vết và đường kính vết bệnh cũng ở mức thấp nhất là 1,53 
mm (bảng 4.17). 
113
 Như vậy, thuốc Carbenvil 50SC có tác dụng ức chế tính gây bệnh của nấm 
P. personata tốt nhất, tiếp đền là thuốc Daconil 75WP, thuốc Topsin M 70WP ở 
mức trung bình và kém nhất là thuốc Anvil 5SC. 
4.4.1.3. Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc trên giống L14 của 
thuốc hoá học trong trong điều kiện nhà lưới. 
 Từ kết quả nghiên cứu trong điều kiện in vivo cho thấy, thuốc Anvil 5SC 
có khả ức chế tính gây của nấm P. personata rất kém. Chính vì vậy, trong điều 
kiện nhà lưới chỉ lụa chọn 3 loại thuốc gồm Topsin M 70WP, Daconil 75WP, 
Carbenvil 50SC để tiếp tục nghiên cứu. Mỗi loại thuốc được tiếp tục thử nghiệm 
với nồng độ 3/4 khuyến cáo, nồng độ khuyến cáo và nồng độ 5/4 khuyến cáo. 
 Cây lạc được trồng trong các ô nhỏ trong nhà lưới. Khi cây mọc 5 tuần tiến 
hành phun thuốc hóa học, sau 24 giờ thì lây bệnh. Sau khi lây bệnh dùng nilon che 
phủ để tạo độ ẩm cao, đảm bảo cho sự nảy mầm của bào tử. Tỷ lệ bệnh và chỉ số 
bệnh được điều tra khi cây mọc 9 tuần và 12 tuần ở từng công thức thí nghiệm để 
xác định hiệu lực của thuốc. Do thời điểm cây mọc 9 tuần tương ứng với 4 tuần 
sau khi lây bệnh, lúc này các vết bệnh đã phát triển ổn định và các vết bệnh của lần 
xâm nhiễm tiếp theo chưa xuất hiện. Do thời gian ủ bệnh là 14 ngày nên ở thời 
điểm 28 ngày (4 tuần) sau khi lây nhiễm thì các bào tử hình thành từ vết bệnh đã 
phát tán, xâm nhập vào cây nhưng chưa hình thành triệu chứng. Thời điểm 12 tuần 
sau khi cây mọc là thời điểm bộ lá phát triển ổn định nhất đồng thời quả lạc cũng 
bắt đầu vào chắc. Thời điểm này bệnh ảnh hưởng lớn đến khả năng tích lũy chất 
khô về quả do đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến khối lượng quả chắc, từ đó làm 
giảm năng suất lạc. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.18. 
 Thuốc Carbenvil 50SC có khả năng phòng trừ bệnh đốm đen tốt nhất, tiếp 
đến là thuốc Daconil 75WP và thuốc Topsin M 70WP có hiệu quả phòng trừ 
bệnh đốm đen kém nhất (bảng 4.18). 
 Thuốc Topsin M 70WP có hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen kém nhất. Khi 
tăng nồng độ sử dụng thì hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen tăng lên. Tuy nhiên, 
khi sử dụng nồng độ 5/4 khuyến cáo (0,1%) thì hiệu lực phòng trừ bệnh vẫn rất 
thấp. Ở nồng độ này, tại thời điểm 9 tuần và 12 tuần sau khi cây mọc, hiệu lực 
phòng trừ bệnh chỉ đạt mức 54,63% và 59,82%. Vì vây, loại thuốc này không 
được sử dụng cho nghiên cứu tiếp theo ngoài đồng ruộng (bảng 4.18). 
 Đối với thuốc Carbenvil 50SC, ở nồng độ 0,19%, hiệu lực phòng trừ bệnh 
tại thời điểm 9 tuần và 12 tuần sau khi cây mọc đạt 60,65% và 67,85%. 
Carbenvil 50SC ở nồng độ khuyến cáo (0,25%) có hiệu quả cao nhất, tại thời 
114
điểm 9 tuần và sau khi cây mọc, hiệu lực phòng trừ đạt 65,9% và 78,59%. Khi 
tăng nồng độ sử dụng thì hiệu lực phòng trừ bệnh không tăng (bảng 4.18). 
Thuốc Daconil 75WP cũng có tác dụng phòng trừ bệnh đốm đen tương 
đối tốt. Tuy nhiên, để có hiệu quả tốt nhất cần sử dụng nồng độ 5/4 khuyến cáo 
(0,19%). Tại thời điểm 9 tuần và 12 tuần sau khi cây mọc, hiệu lực phòng trừ 
bệnh đạt mức 63,66% và 72,32% (bảng 4.18). 
Bảng 4.18. Hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của thuốc hóa học 
trên giống lạc L14 trong điều kiện nhà lưới 
CT 
Tên 
thuốc 
Nồng độ (%) 
9 tuần 12 tuần 
TLB 
(%) 
CSB 
(%) 
HLPT 
(%) 
TLB 
(%) 
CSB 
(%) 
HLPT 
(%) 
CT1 
Topsin M 
70WP 
3/4 KC 0,06 100,0 20,25 37,94e 100,0 30,12 45,53e 
CT2 KC 0,08 100,0 17,04 47,76d 100,0 25,93 53,12d 
CT3 5/4 KC 0,10 100,0 14,81 54,63c 100,0 22,22 59,82cd 
CT4 
Daconil 
75WP 
3/4 KC 0,11 100,0 15,56 52,32c 100,0 23,70 57,14d 
CT5 KC 0,15 100,0 13,08 59,86b 100,0 19,26 65,18c 
CT6 5/4 KC 0,19 100,0 11,85 63,66ab 100,0 15,31 72,32b 
CT7 
Carbenvil 
50SC 
3/4 KC 0,19 100,0 12,84 60,65b 100,0 17,78 67,85bc 
CT8 KC 0,25 100,0 11,11 65,90a 100,0 11,85 78,59a 
CT9 5/4 KC 0,31 100,0 11,11 65,90a 100,0 11,11 79,91a 
CT10 
(Đ/C) 
Phun 
nước lã 
 100,0 32,59 - 100,0 55,31 - 
LSD0,05 4,99 6,54 
 Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa 
ở mức α = 0,05. 
 Vì vậy, Carbenvil 50SC nồng độ 0,25% và Daconil 75WP nồng độ 0,19% 
được tiếp tục sử dụng để nghiên cứu ngoài đồng ruộng. 
4.4.1.4. Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của thuốc hóa học trên giống 
lạc L14 ngoài đồng ruộng vụ xuân 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An 
Các thí nghiệm ngoài đồng ruộng được bố trí nhằm mục đích đánh giá 
hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của một số thuốc hóa học ở ngoài tự nhiên, 
nhằm thu được những kết quả sát thực hơn với điều kiện canh tác thực tế của 
người dân. Từ đó có được thông tin chính xác hơn để có thể khuyến cáo cho 
người trồng lạc. Thí nghiệm được thực hiện trên giống lạc L14, trong vụ xuân tại 
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. 
115
Thuốc Carbenvil 50SC nồng độ 0,25% và Daconil 75WP nồng độ 0,19% 
được phun vào 3 thời điểm gồm: 
 1) Phun khi cây mọc 5 tuần và 6 tuần, đây là thời điểm cây bắt đầu ra hoa, lúc 
này bào tử trong đất bắt đầu tiếp xúc để xâm nhập vào cây. Vì vậy phun vào thời điểm 
này nhằm khống chế lượng bào tử nảy mầm, xâm nhập vào cây ngay từ ban đầu. 
 2) Phun khi cây mọc 7 tuần là thời điểm bệnh chớm xuất hiện trên đồng 
ruộng. Thời điểm này được lựa chọn để phun như khuyến cáo của các thuốc trừ 
bệnh trên thị trường. 
 3) Phun khi cây mọc 8 tuần và 9 tuần, thời điểm này các vết bệnh xuất 
hiện nhiều trên cây và bắt đầu hình thành bào tử để phát tán, lây lan. Vì vậy, 
phun thời điểm này nhằm khống chế sự hình thành bào tử trên vết bệnh, đồng 
thời ức chế sự nảy mầm, xâm nhập của những bào tử đã phát tán. 
 Ba thời điểm trên cũng được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu về hiệu lực 
phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc của những sản phẩm khác như chất kích kháng, 
chế phẩm nấm đối kháng và dịch chiết thực vật. 
 Tỷ lệ bệnh, chỉ số bệnh được theo dõi để đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh 
ở 12 tuần sau khi mọc và khối lượng quả chắc/cây khi thu hoạch. 
 Kết quả thí nghiệm với thuốc Carbenvil 50SC được thể thể hiện ở bảng 4.19. 
Bảng 4.19. Hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của thuốc Carbenvil 50SC 
trên giống lạc L14 ngoài đồng ruộng vụ xuân 2014 tại huyện Nghi Lộc, 
tỉnh Nghệ An 
CT Nồng độ 
Thời điểm 
phun 
TLB 
(%) 
CSB 
(%) 
HLPT 
(%) 
Khối lượng quả 
chắc/cây (g) 
CT1 
Khuyến 
cáo 
(0,25%) 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_benh_dom_den_phaeoisariopsis_personata_ha.pdf
  • pdfBVTV - TTLA - Ngo Thi Mai Vi.pdf
  • pdfTTT - Ngo Thi Mai Vi.pdf