Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

ọc Bích và Nguyễn Thị Mỹ Hiệp (2013), gà nuôi theo hình thức thả hoàn toàn có tỉ lệ mắc bệnh là 25% thấp hơn so với gà được nuôi nhốt hoàn toàn (60,0%) và bán chăn thả (33,3%). Kết quả nghiên cứu cũng phù hợp với nhận định của Lê Văn Năm (2004), bệnh Gumboro phát hiện chủ yếu ở những trại nuôi gà tập trung với quy Hinh thức chăn nuôi Số đàn nghi bệnh Số đàn bệnh Tỉ lệ (%) Thả hoàn toàn 50 14 28,0 Bán chăn thả 60 33 55,0 Nhốt hoàn toàn 21 12 57,1 Tổng 131 59 45,0 P = 0,009 65 mô đàn lớn và hình thức nuôi nhốt hoàn toàn với mật độ rất cao so với nuôi thả hoàn toàn hoặc bán chăn thả (Hình 4.1). Ngoài ra, điều kiện chăn nuôi dơ bẩn, virus có thể tồn tại trong môi trường nuôi tới 122 ngày và có khả năng kháng các điều kiện môi trường bất lợi, thậm chí sau khi được vệ sinh và sát trùng kỹ lưỡng (Eterradossi and Saif, 2013). Virus có khả năng chịu nhiệt, tia cực tím và cũng kháng với ether và chloroform. Sau khi bị nhiễm IBDV, gà có khả năng nhiễm virus trong phân trong vòng 16 ngày (Pooja Kundu, 2017). Virus được bài thải ra ngoài từ các gà bệnh, có sức đề kháng cao, khi có điều kiện thuận lợi virus sẽ theo thức ăn, nước uống xâm nhập đường tiêu hóa gà khỏe và làm lan truyền bệnh trên cả đàn cảm thụ. Hình 4.1: Hình thức chăn nuôi tại các đàn gà khảo sát (A: Hình thức nuôi bán chăn thả; B và D: nuôi nhốt hoàn toàn; C: nuôi thả hoàn toàn) 4.1.1.3 Tỉ lệ gà nhiễm bệnh Gumboro giữa các lứa tuổi Theo Aricibasi et al. (2010) đàn gà mắc bệnh Gumboro phụ thuộc vào giống gà, độ tuổi tại thời điểm nhiễm bệnh, miễn dịch trước đó hoặc hiệu giá kháng thể của mẹ truyền, chủng virus, liều tiêm chủng, đường tiêm chủng... Những con gà bị nhiễm bệnh ở độ tuổi sớm hơn thường có ít dấu hiệu lâm sàng hơn, nhưng vẫn bị ức chế miễn dịch (Bảng 4.3) A B C D 66 Bảng 4.3: Tỉ lệ gà nhiễm bệnh Gumboro giữa các lứa tuổi Lứa tuổi Số đàn nghi bệnh Số đàn bệnh Tỉ lệ (%) Từ 12- 21 ngày tuổi 43 20 46,5 Từ 21-42 ngày tuổi 54 31 57,4 Lớn hơn 42 ngày tuổi 34 8 23,5 Tổng 131 59 45,0 P = 0,008 Kết quả Bảng 4.3 cho thấy lứa tuổi gà mắc bệnh Gumboro cao nhất ở gà từ 21 - 42 ngày tuổi chiếm 57,4%, kế đến ở gà từ 12 – 21 ngày tuổi (46,5%), thấp ở gà trên 42 ngày tuổi chiếm tỉ lệ 23,5%. Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,05). Điều này cho thấy bệnh Gumboro chủ yếu tập trung ở giai đoạn gà từ 3 đến 6 tuần tuổi (21 - 42 ngày tuổi). Kết quả trên phù hợp với nhận định của Hồ Thị Việt Thu (2012a), gà ở 3 - 6 tuần tuổi mẫn cảm nhất với bệnh Gumboro vì lúc này lượng kháng thể mẹ truyền cho đàn gà đã suy giảm hoặc không còn nữa và ở độ tuổi trên 42 ngày tỉ lệ mắc bệnh (11,1%). Theo Ingrao et al. (2013), độ tuổi nhạy cảm với IBDV có biên độ dao động ngày càng lớn hơn và có thể xảy ra trong suốt thời gian sinh trưởng của gà, nếu như trước đây gà bị bệnh thường ở thể lâm sàng là chủ yếu và gà thường bị bệnh từ 3 - 6 tuần tuổi, thì ngày nay thể lâm sàng đã thấy xuất hiện ở gà 96 ngày tuổi. Ngoài ra, đã có báo cáo cho rằng những con gà bị nhiễm IBDV ở 14 ngày tuổi bị teo túi Fabricius nhiều hơn và số lượng bản sao RNA virus cao hơn so với những con bị nhiễm bệnh vào 1 ngày tuổi (Jayasundara et al., 2016). Tuy nhiên, kháng thể mẹ truyền có thể vô hiệu hóa virus vaccine và làm giảm hiệu quả của chúng. Do đó, cần phải đợi cho đến khi hiệu giá kháng thể của mẹ suy yếu trước khi sử dụng vaccine sống. Mặt khác, khi hàm lượng kháng thể của mẹ suy yếu dần, nguy cơ gà con có thể bị nhiễm IBDV thực địa. Do đó, thời điểm tối ưu để tiêm phòng rất khó dự đoán. Chiến lược sử dụng vaccine sống và chết đã được chứng minh là thành công trong việc cung cấp hàm lượng kháng thể mẹ truyền rất tốt ở gà con mới nở. Kháng thể mẹ truyền cho gà con và bảo vệ đàn gà con được 4 - 5 tuần tuổi. Tuy nhiên, nếu gà mẹ chỉ chủng ngừa bằng vaccine nhược độc thì kháng thể truyền chỉ bảo vệ cho gà con 1 - 3 tuần. Đồng thời do gà nhỏ có thể mắc 67 bệnh ở thể tiềm ẩn, không có biểu hiện triệu chứng nhưng ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến giai đoạn gà lớn hơn do ức chế khả năng tạo miễn dịch của gà (Muller et al., 2012). 4.1.1.4 Tỉ lệ bệnh Gumboro ở các đàn có và không tiêm vaccine Gumboro Trong quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy người chăn nuôi sử dụng vaccine chưa đúng kỹ thuật như: bảo quản không đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất (đường cấp, cách pha chế, liều lượng), thời gian sử dụng, vệ sinh chuồng trại kém ..., nên bệnh vẫn xảy ra trên những đàn đã được phòng vaccine (Bảng 4.4). Bảng 4.4: Tỉ lệ đàn gà bệnh theo số lần sử dụng vaccine Số lần sử dụng vaccine Số đàn sử dụng vaccine Số đàn bệnh Tỉ lệ (%) Không sử dụng 36 24 66,7 01 lần 42 22 52,4 02 lần 53 13 24,5 Tổng 131 59 45,0 P=0,001 Qua Bảng 4.4 cho thấy những đàn không được tiêm vaccine có tỉ lệ nhiễm bệnh cao nhất (66,7%), kế đến là tiêm vaccine một lần (52,4%), tỉ lệ mắc bệnh thấp nhất ở những đàn được tiêm nhắc lại lần hai (24,5%). So sánh tỉ lệ mắc bệnh ở những đàn gà không chủng ngừa vaccine với những đàn sử dụng vaccine 1 lần cho thấy có sự khác có ý nghĩa về mặt thống kê (P = 0,001). Kết quả trên hoàn toàn phù hợp với nhận định của Trần Thị Bích Liên (2001), khẳng định gà không được tiêm phòng vaccine khó tránh được bệnh và khi mắc bệnh tỉ lệ chết cao. Theo Hồ Thị Việt Thu (2010), bệnh thường xảy ra nhất ở các đàn không được tiêm vaccine (70,0%), kế đến là các gà chỉ được tiêm vaccine một lần (62,5%) và gà được tiêm vaccine hai lần (28,6%). Tuy nhiên, kết quả trên cũng cho thấy tiêm phòng 2 lần đàn gà vẫn mắc bệnh (24,5%). Theo nghiên cứu của Lê Văn Năm (2004), do thị trường vaccine Gumboro nước ta có nhiều loại khác nhau, được sản xuất từ nhiều nước. Sự đa dạng, phong phú về chủng loại, tên gọi của các loại vaccine phòng bệnh Gumboro đã gây không ít khó khăn cho người chăn nuôi khi muốn sử dụng vaccine. Có nhiều trường hợp lần đầu dùng vaccine này, lần sau lại sử dụng vaccine khác trên cùng 1 đàn gà và hậu quả là đàn gà được tiêm phòng vaccine nhưng bệnh vẫn xảy ra. Ngoài ra, một 68 số đàn gà khi được phòng bệnh bằng vaccine theo lịch hướng dẫn nhưng bệnh vẫn xảy ra có thể là do khả năng bảo hộ của vacine chưa cao, điều này phù hợp với Đái Duy Ban và Phạm Công Hoạt (2004), khi sử dụng vaccine không đúng liều lượng hướng dẫn, dung dịch pha không phù hợp, cách bảo quản và quy trình phòng bệnh không đúng yêu cầu về kỹ thuật làm giảm hiệu lực của vaccine, nguy hiểm hơn là sẽ làm cho đàn gà dễ mắc bệnh. Theo Nguyễn Bá Hiên (2007), khi tiêm vaccine lần 1 và lần 2 cách nhau 3 – 4 tuần thì đáp ứng miễn dịch sẽ nhanh hơn, mạnh hơn, có thể gấp hàng trăm lần và thời gian miễn dịch dài hơn. Ngoài ra, khả năng đáp ứng miễn dịch còn tùy thuộc tình hình sức khỏe của đàn gà khi tiêm phòng như đàn gà mắc bệnh cầu trùng, dinh dưỡng kém, đang sử dụng các thuốc gây ức chế miễn dịch, stress môi trường (nhiệt độ quá cao, độ thông thoáng kém), mật độ nuôi cao, (Trần Ngọc Bích và ctv, 2016). 4.1.2 Tần suất xuất hiện triệu chứng và bệnh tích của gà mắc bệnh Gumboro Kết quả khảo sát cho thấy trong 59 đàn gà bệnh Gumboro đều xuất hiện triệu chứng bỏ ăn, ủ rũ xù lông, uống nhiều nước, gục đầu chiếm tỉ lệ cao nhất là (100,0%) (Bảng 4.5). Bảng 4.5: Tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng trên đàn gà mắc bệnh (n=59) Đặc điểm lâm sàng Số mẫu Tần suất xuất hiện Tỉ lệ (%) Bỏ ăn, xù lông, uống nhiều nước 59 59 100 Ủ rũ, gục đầu và sà cánh 59 59 100 Tiêu chảy phân trắng, xanh nhiều nước 59 56 94,9 Hậu môn dính đầy phân 59 46 77,9 Da chân khô 59 45 76,3 Tự mổ vào hậu môn 59 21 35,6 Triệu chứng gà tiêu chảy phân trắng, xanh nhiều nước (94,9%), hậu môn dính đầy phân với tỉ lệ (77,9%), da chân khô với tỉ lệ (76,3%) thấp nhất là triệu chứng 69 gà tự mổ vào hậu môn chiếm tỉ lệ (35,6%). Kết quả trên cũng phù hợp với ghi nhận của Nguyễn Bá Thành (2006); Eterradossi and Saif (2008), gà bệnh Gumboro có triệu chứng mệt mỏi, xù lông, thường dồn về một gốc chuồng, phân dính hậu môn, có niêm dịch lợn cợn, nhiều nước, đôi khi có máu. Gà kiệt sức nằm sải cánh. Hình 4.2: Một số triệu chứng lâm sàng gà mắc bệnh Gumboro (A: Hậu môn ướt, dính phân vấy bẩn; B: Gà xù lông, gụt đầu) Qua mổ khám 59 gà đại diện cho 59 đàn bệnh Gumboro chúng tôi ghi nhận tần suất xuất hiện bệnh tích đại thể được thể hiện ở Bảng 4.6 như sau: Bảng 4.6: Tần suất xuất hiện bệnh tích trên đàn gà mắc bệnh Gumboro (n=59) Cơ quan Bệnh tích Tần suất xuất hiện Số mẫu Tỉ lệ (%) Túi Fabricius Sưng, xuất huyết 41 70 Teo 18 30 Cơ đùi Xuất huyết 45 76,2 Cơ ngực Xuất huyết 32 54,2 Lách Sưng và/hoặc hoại tử 19 32,2 Thận Sưng 8 13,5 Ruột Xuất huyết 19 32,2 Phần tiếp giáp dạ dày tuyến và dạ dày cơ Xuất huyết 26 44,1 A B 70 Qua kết quả ghi nhận cho thấy gà nhiễm bệnh Gumboro trên các đàn khảo sát cho bệnh tích đại thể trên các cơ quan rất điển hình, đặc biệt là trên túi Fabricius và các cơ. Túi Fabricius: qua khảo sát hầu hết các gà nhiễm bệnh đều có bệnh tích ở túi Fabricius với tỉ lệ 100%. Các bệnh tích xuất hiện như túi sưng hoặc teo, thủy thủng, sung huyết, xuất huyết. Những trường hợp gà nhiễm bệnh nặng túi Fabricius xuất huyết rất nặng có màu đỏ sậm. Mặc dù gà sau khi nhiễm Gumboro khỏi bệnh nhanh nhưng thiệt hại đối với túi Fabricius là không thể phục hồi và dẫn đến ức chế miễn dịch, sau đó tăng tính nhạy cảm với các bệnh khác và gây thất bại trong tiêm chủng (Withers et al., 2006). Kết quả này phù hợp với rất nhiều tác giả khác nghiên cứu trên bệnh Gumboro như Nguyễn Bá Thành (1999; 2006), Nguyễn Văn Cảm (2000), Trần Ngọc Bích và ctv (2016), tất cả đều cho kết quả nghiên cứu bệnh tích đại thể trên túi Fabricius đạt 100%. Diễn tiến của bệnh Gumboro trong tự nhiên sau 3 ngày bệnh mổ khám thấy túi Fabricius đều sưng rất to, có dịch nhầy gelatin bao quanh, màu vàng, một số túi xuất huyết lấm chấm. Điều này có thể được giải thích do virus Gumboro có đặc tính hướng các cơ quan lâm ba, đặc biệt là túi Fabricius (Eterradossi and Saif 2008). Khi gà mắc bệnh Gumboro, virus sẽ tác động đến túi Fabricius và gây ra những biến đổi. Túi Fabricius bắt đầu tăng về kích thước và trọng lượng trong khoảng 48 – 72 giờ sau khi nhiễm do thủy thủng và xuất huyết. Kích thước túi có thể tăng gấp 2 – 3 lần so với bình thường. Vào ngày thứ 4 sau nhiễm, kích thước túi vẫn còn to gấp đôi, sau đó mới nhỏ dần lại. Ngày thứ 5 sau nhiễm trọng lượng túi bằng trọng lượng ban đầu và teo đi. Đến ngày thứ 8 trọng lượng túi chỉ bằng 1/3 trọng lượng ban đầu. Theo nghiên cứu của Lombardo et al. (2000) chứng minh VP5 là một loại protein không cấu trúc, không có vai trò trong sự nhân lên của virus nhưng có chức năng trong quá trình điều hòa sao chép và tổng hợp protein, đặc biệt trong quá trình khởi phát sự “chết tự nguyện” (apoptosis) của tế bào dẫn đến suy giảm miễn dịch và chức năng ly giải tế bào để giải phóng virus, làm vỡ tế bào dẫn đến teo túi Fabricius. Các phản ứng miễn dịch dịch thể đã được chứng minh là không có hiệu quả sau nhiễm IBDV và gà mà có tiền sử nhiễm IBDV là nhạy cảm hơn với một loạt các bệnh bao gồm: viêm gan, cầu trùng, Marek, viêm da, viêm thanh phế quản truyền nhiễm, thiếu máu truyền nhiễm ở gà, nhiễm khuẩn Salmonella, Colibacillosis, Campylobacter và cúm gia cầm (Ramirez-Nieto et al., 2010). Gà sống sót sau khi nhiễm bệnh, có sự tái sinh Fabricius với các tế bào lympho B, tuy nhiên, hai loại nang tế bào B khác biệt đã được quan sát thấy: các nang lớn, rất có 71 thể được tái sinh từ các tế bào gốc bursal nội sinh và các nang nhỏ, phát triển kém (Withers et al., 2006), khi thiếu các nang lớn không thể tạo ra đáp ứng miễn dịch hoạt động, và có thể những thay đổi mô học này góp phần ức chế miễn dịch. Ức chế miễn dịch gây ra bởi nhiễm IBDV rất phức tạp. Một mặt, sự suy giảm lớn của các tế bào B trong quá trình nhiễm IBDV trực tiếp phá vỡ việc tạo ra các kháng thể đa dạng để hệ thống miễn dịch mắc phải không đáp ứng với các mầm bệnh khác. Mặt khác, các thành phần của IBDV có thể ức chế phản ứng miễn dịch bẩm sinh của vật chủ bên cạnh quá trình chết tự nguyện của tế bào B. Hình 4.3: Bệnh tích bệnh Gumboro ở đàn gà bệnh (A: xuất huyết cơ đùi; B: Thận sưng, nhạt màu; C: Túi Fabricius sưng, tích tụ keo nhày bên ngoài; D: Chỗ tiếp giáp dạ dày cơ và dạ dày tuyến xuất huyết) Kế đến là xuất huyết cơ đùi (76,2%), cơ ngực (54,2%), lách sưng (32,2%) xuất huyết giữa dạ dày cơ và dạ dày tuyến (44,1%). Virus Gumboro tác động gây nên hiện tượng bệnh lý đông máu do trong hệ tuần hoàn xuất hiện các cục huyết khối, làm nghẽn mạch mao quản, chủ yếu là vùng niêm mạc túi Fabricius và ở một số nơi khác, dẫn đến hiện tượng sung huyết. Khi không chịu nổi áp suất gia tăng của máu, mao mạch bị đứt gây nên hiện tượng xuất huyết. Sự sung huyết, xuất huyết từ quy mô nhỏ (từng điểm li ti) đến quy mô lớn (vệt, mảng) và có màu sắc đa dạng từ hồng đến tím hoặc nâu đen. D A C B 72 Kết quả mổ khám cho thấy bệnh tích xuất hiện chủ yếu ở túi Fabricius, xuất huyết cơ đùi, cơ ngực. Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Xuân Bình và ctv (2005); Lê Văn Năm (2004), gà bệnh Gumboro có bệnh tích điển hình tập trung ở cơ quan miễn dịch (sưng và xuất huyết túi Fabricius) và hệ cơ (xuất huyết cơ ngực, cơ đùi), còn xuất huyết giữa dạ dày tuyến và dạ dày cơ, xuất huyết điểm ở tuyến ức chiếm tỉ lệ thấp. Các tổn thương ở manh tràng, tuyến ức, lá lách và tủy xương cũng được quan sát thấy ở những con gà bị nhiễm IBDV và tuyến Harderian đã được chứng minh là bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau khi nhiễm bệnh ở gà con 1 ngày tuổi với IBDV (Eterradossi and Saif, 2013). 4.1.3 Tỉ lệ mẫu nhiễm bệnh Gumboro ở các tỉnh/ thành vùng ĐBSCL Qua khảo sát 131 đàn gà nghi bệnh có 59 đàn được xác định là mắc bệnh Gumboro với tỉ lệ 45,0% thông qua triệu chứng và bệnh tích đặc trưng. Kết quả ở Bảng 4.7 cho thấy gà nhiễm bệnh Gumboro do chăn nuôi theo tập quán nhỏ lẻ, virus có sức đề kháng cao với các tác nhân lý hóa và môi trường, mầm bệnh tồn tại lâu dài trong chuồng nuôi ngay cả khi qui trình tiêu độc sát trùng được thực hiện kỹ lưỡng. Trong chất thải, phân, nước tiểu virus Gumboro vẫn giữ nguyên tính gây nhiễm và gây bệnh ít nhất là 52 ngày (Nguyễn Đức Hiền, 2009). Bảng 4.7: Tỉ lệ mẫu nhiễm Gumboro theo địa phương khảo sát Tỉnh Số mẫu Số mẫu nhiễm Tỉ lệ mẫu nhiễm (%) Bến Tre 26 11 42,3 Hậu Giang 15 9 60,0 Cần Thơ 14 7 50,0 Trà Vinh 19 9 47,4 Vĩnh Long 28 12 42,8 An Giang 29 11 37,9 Tổng 131 59 45,0 P = 0,812 Giữa các tỉnh khảo sát, đàn gà nuôi tại Hậu Giang có tỉ lệ nhiễm bệnh cao nhất (60,0%) và thấp nhất ở An Giang (37,9%) do điều kiện địa lý tại An Giang phù hợp chăn nuôi theo quy mô nhỏ với hình thức nuôi thả hoàn toàn là chủ yếu, ngược lại tại Hậu Giang các đàn gà có quy mô lớn hơn và được nuôi theo hình thức bán chăn thả hoặc nuôi nhốt hoàn toàn nên có sự khác biệt về tỉ lệ nhiễm bệnh. Tuy 73 nhiên, không có sự khác biệt về tỉ lệ nhiễm giữa các tỉnh khảo sát. Kết quả trên khá tương đồng với khảo sát của Phạm Trường Thanh (2016) với tỉ lệ nhiễm bệnh là (46,7%). Theo nhận định của Lê Văn Năm (2004), bệnh Gumboro là một trong những bệnh có tỉ lệ nhiễm cao nhất khoảng (57,0%) so với các bệnh khác trên gia cầm. Theo Nguyễn Bá Thành (2006), nghiên cứu bệnh Gumboro trên đàn gà tại tỉnh Đồng Nai cho kết quả là bệnh Gumboro chiếm tỉ lệ cao nhất (57,5%) trong tổng số mẫu kiểm tra. 4.1.4 Tỉ lệ gà chết do bệnh Gumboro Kết quả khảo sát tỉ lệ gà chết do bệnh Gumboro (Bảng 4.8) cho thấy tỉ lệ chết được xác định bởi nhiều yếu tố bao gồm độc lực của IBDV, liều lây nhiễm, tuổi, giống gà, và khả năng miễn dịch thụ động (Ingrao et al., 2013). Bảng 4.8: Tỉ lệ gà chết do bệnh Gumboro Tỉnh Số đàn bệnh Số gà bệnh Số gà chết Tỉ lệ chết (%) Bến Tre 26 11.200 365 3,25 Hậu Giang 15 4.500 225 5,00 Cần Thơ 14 3.600 153 4,25 Trà Vinh 19 7.200 450 6,25 Vĩnh Long 28 9.200 455 4,95 An Giang 29 3.900 259 6,64 Tổng 131 39.600 1.907 4,81 P = 0,001 Kết quả ở Bảng 4.8 cho thấy tỉ lệ chết của gà do bệnh Gumboro trong khảo sát này không cao (4,81%). Tuy nhiên có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ chết giữa các tỉnh khảo sát (P = 0,001), tỉ lệ gà chết cao nhất ở tỉnh An Giang, thấp nhất ở tỉnh Bến Tre. Theo Lê Văn Năm (2004) khi bệnh Gumboro xảy ra thì hầu như 100% số đàn gà bệnh Gumboro đều bị kế phát những bệnh khác tạo thành những bệnh ghép phức tạp, làm tăng tỉ lệ gà chết trong đàn mắc bệnh có thể lên đến 100%. Theo Trần Thị Quỳnh Lan (1999), bước đầu nghiên cứu tình hình dịch tễ của bệnh Gumboro ở các trại gà tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy bệnh Gumboro gây thiệt hại kinh tế đáng kể. Tỉ lệ chết trong đàn khảo sát từ 4% đến 29% chủ yếu ở giai đoạn từ 3 đến 7 tuần tuổi, tập trung ở 4 tuần tuổi trên các 74 đàn gà thịt. Chương trình chủng ngừa bệnh Gumboro không đảm bảo 100 % trong việc phòng chống lại bệnh tại các trại khảo sát. Hơn nữa, khi được chẩn đoán là bệnh Gumboro thì người chăn nuôi đã tiến hành các biện pháp phòng trị đặc hiệu như tiêm kháng thể kháng virus Gumboro, cho gà uống glucose, chất điện giải và vitamin, kinh nghiệm và kỹ thuật chăn nuôi có nhiều tiến bộ so với trước đây nên hạn chế được tỉ lệ chết do bệnh. Theo Nguyễn Bá Thành (2004), tỉ lệ gà chết còn liên quan đến thời điểm phát hiện và điều trị bệnh, nếu phát hiện bệnh kịp thời ngay khi gà mới mắc bệnh Gumboro, thì hiệu quả điều trị cao và tỉ lệ sống sẽ là 90 - 95%, nếu can thiệp kịp thời vào ngày thứ hai khi mắc bệnh thì tỉ lệ gà sống là 80 - 85% và sau ngày thứ 3 thì tỉ lệ này chỉ còn là 60 - 65%. Do đó việc chẩn đoán nhanh và điều trị kịp thời sẽ làm giảm tỉ lệ gà chết trong đàn do mắc bệnh Gumboro. 4.2 Nội dung 2: Nghiên cứu đặc điểm di truyền virus Gumboro phân lập trên gà bệnh tại ĐBSCL Kết quả thực hiện phản ứng PCR, giải trình tự gene VP2 Sản phẩm PCR thu được có kích thước khoảng 474 bp, kết quả điện di ở Hình 4.3 cho thấy chất lượng tốt, băng DNA sáng, đơn băng. Hình 4.4: Điện di sản phẩm PCR của các chủng IBDV. M: chỉ thị phân tử DNA của thực khuẩn thể Lambda được cắt bằng HindIII. 4.2.1 Trình tự chuỗi nucleotide và chuỗi amino acid của các chủng phân lập và vaccine Hình 4.5 cho thấy mẫu đã được giải trình tự rõ ràng, mỗi đỉnh màu của giản đồ (chromatogram) đều xác định một loại nucleotide, chứng tỏ chuỗi nucleotide ở vùng siêu biến đổi của gene kháng nguyên VP2 thu nhận sau quá trình giải trình tự có chất lượng tốt. Khi so sánh vị trí chuỗi nucleotide này với vị trí một số chuỗi nucleotide của vùng siêu biến đổi được công bố trong Ngân hàng gene thì khá phù 474b p 500bp 75 hợp, chứng tỏ toàn bộ quy trình RT-PCR là chính xác từ việc sử dụng mồi, chu trình nhiệt, tiến trình thực hiện và kết quả phản ứng hoàn toàn đặc hiệu với primer. Hình 4.5: Giản đồ (chromatogram) một phần trình tự vùng siêu biến đổi gene kháng nguyên VP2 Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng bên cạnh virus IBDV có độc lực cao, các chủng khác cũng đã xuất hiện ở châu Âu và điều này cũng có thể đúng với các khu vực khác do đó tình trạng bệnh Gumboro dường như đang gia tăng phức tạp. Những thay đổi về tính kháng nguyên và độc lực làm cho việc kiểm soát IBD bằng cách tiêm chủng trở nên khó khăn hơn (van den Berg, 2000; Muller et al., 2003; Eterradossi and Saif, 2008). Các chủng IBDV cổ điển gây ra tổn thương túi Fabricius và hoại tử tế bào lympho B dẫn đến tỷ lệ tử vong 20-30%. Vào giữa những năm 1980, các chủng IBDV cực độc đã xuất hiện và gây ra sự bùng phát đáng kinh ngạc dẫn đến tỷ lệ tử vong lên đến 60-70% và sau đó lan sang Trung Đông, Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ (Abdel-Alem et al., 2003). Gene VP2 được nghiên cứu một cách phổ biến vì nó mã hóa cho các chất bảo vệ chính, chứa các yếu tố quyết định đến khả năng gây bệnh và biến đổi cao giữa các chủng (Abdel-Alem et al., 2003; Jackwood and Sommer-Wagner, 200
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_benh_gumboro_tren_ga_tai_mot_so_tinh_dong.pdf
1. DU_Thông tin tieng viet 21.10.19.pdf
2. DU_Thông tin tieng anh 21.10.19.pdf
3.DU_ TOM TAT TIENG VIET _21.10.19.pdf
4. DU_TOM TAT TIENG ANH _14.09.19.pdf