Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 169 trang nguyenduy 01/10/2025 150
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

Luận án Nghiên cứu bệnh Gumboro trên gà tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
ọc 
Bích và Nguyễn Thị Mỹ Hiệp (2013), gà nuôi theo hình thức thả hoàn toàn có tỉ lệ 
mắc bệnh là 25% thấp hơn so với gà được nuôi nhốt hoàn toàn (60,0%) và bán chăn 
thả (33,3%). Kết quả nghiên cứu cũng phù hợp với nhận định của Lê Văn Năm 
(2004), bệnh Gumboro phát hiện chủ yếu ở những trại nuôi gà tập trung với quy 
Hinh thức chăn nuôi Số đàn nghi bệnh Số đàn bệnh Tỉ lệ (%) 
Thả hoàn toàn 50 14 28,0 
Bán chăn thả 60 33 55,0 
Nhốt hoàn toàn 21 12 57,1 
Tổng 131 59 45,0 
 P = 0,009 
 65 
mô đàn lớn và hình thức nuôi nhốt hoàn toàn với mật độ rất cao so với nuôi thả 
hoàn toàn hoặc bán chăn thả (Hình 4.1). 
Ngoài ra, điều kiện chăn nuôi dơ bẩn, virus có thể tồn tại trong môi trường 
nuôi tới 122 ngày và có khả năng kháng các điều kiện môi trường bất lợi, thậm chí 
sau khi được vệ sinh và sát trùng kỹ lưỡng (Eterradossi and Saif, 2013). Virus có 
khả năng chịu nhiệt, tia cực tím và cũng kháng với ether và chloroform. Sau khi bị 
nhiễm IBDV, gà có khả năng nhiễm virus trong phân trong vòng 16 ngày (Pooja 
Kundu, 2017). Virus được bài thải ra ngoài từ các gà bệnh, có sức đề kháng cao, 
khi có điều kiện thuận lợi virus sẽ theo thức ăn, nước uống xâm nhập đường tiêu 
hóa gà khỏe và làm lan truyền bệnh trên cả đàn cảm thụ. 
Hình 4.1: Hình thức chăn nuôi tại các đàn gà khảo sát 
(A: Hình thức nuôi bán chăn thả; B và D: nuôi nhốt hoàn toàn; C: nuôi thả hoàn toàn) 
4.1.1.3 Tỉ lệ gà nhiễm bệnh Gumboro giữa các lứa tuổi 
Theo Aricibasi et al. (2010) đàn gà mắc bệnh Gumboro phụ thuộc vào giống 
gà, độ tuổi tại thời điểm nhiễm bệnh, miễn dịch trước đó hoặc hiệu giá kháng thể 
của mẹ truyền, chủng virus, liều tiêm chủng, đường tiêm chủng... Những con gà bị 
nhiễm bệnh ở độ tuổi sớm hơn thường có ít dấu hiệu lâm sàng hơn, nhưng vẫn bị 
ức chế miễn dịch (Bảng 4.3) 
A B 
C D 
 66 
Bảng 4.3: Tỉ lệ gà nhiễm bệnh Gumboro giữa các lứa tuổi 
Lứa tuổi Số đàn nghi bệnh Số đàn bệnh Tỉ lệ (%) 
Từ 12- 21 ngày tuổi 43 20 46,5 
Từ 21-42 ngày tuổi 54 31 57,4 
Lớn hơn 42 ngày tuổi 34 8 23,5 
Tổng 131 59 45,0 
 P = 0,008 
Kết quả Bảng 4.3 cho thấy lứa tuổi gà mắc bệnh Gumboro cao nhất ở gà từ 
21 - 42 ngày tuổi chiếm 57,4%, kế đến ở gà từ 12 – 21 ngày tuổi (46,5%), thấp ở 
gà trên 42 ngày tuổi chiếm tỉ lệ 23,5%. Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống 
kê (P<0,05). Điều này cho thấy bệnh Gumboro chủ yếu tập trung ở giai đoạn gà từ 
3 đến 6 tuần tuổi (21 - 42 ngày tuổi). Kết quả trên phù hợp với nhận định của Hồ 
Thị Việt Thu (2012a), gà ở 3 - 6 tuần tuổi mẫn cảm nhất với bệnh Gumboro vì lúc 
này lượng kháng thể mẹ truyền cho đàn gà đã suy giảm hoặc không còn nữa và ở 
độ tuổi trên 42 ngày tỉ lệ mắc bệnh (11,1%). Theo Ingrao et al. (2013), độ tuổi nhạy 
cảm với IBDV có biên độ dao động ngày càng lớn hơn và có thể xảy ra trong suốt 
thời gian sinh trưởng của gà, nếu như trước đây gà bị bệnh thường ở thể lâm sàng 
là chủ yếu và gà thường bị bệnh từ 3 - 6 tuần tuổi, thì ngày nay thể lâm sàng đã 
thấy xuất hiện ở gà 96 ngày tuổi. Ngoài ra, đã có báo cáo cho rằng những con gà 
bị nhiễm IBDV ở 14 ngày tuổi bị teo túi Fabricius nhiều hơn và số lượng bản sao 
RNA virus cao hơn so với những con bị nhiễm bệnh vào 1 ngày tuổi (Jayasundara 
et al., 2016). 
Tuy nhiên, kháng thể mẹ truyền có thể vô hiệu hóa virus vaccine và làm giảm 
hiệu quả của chúng. Do đó, cần phải đợi cho đến khi hiệu giá kháng thể của mẹ suy 
yếu trước khi sử dụng vaccine sống. Mặt khác, khi hàm lượng kháng thể của mẹ 
suy yếu dần, nguy cơ gà con có thể bị nhiễm IBDV thực địa. Do đó, thời điểm tối 
ưu để tiêm phòng rất khó dự đoán. Chiến lược sử dụng vaccine sống và chết đã 
được chứng minh là thành công trong việc cung cấp hàm lượng kháng thể mẹ truyền 
rất tốt ở gà con mới nở. Kháng thể mẹ truyền cho gà con và bảo vệ đàn gà con được 
4 - 5 tuần tuổi. Tuy nhiên, nếu gà mẹ chỉ chủng ngừa bằng vaccine nhược độc thì 
kháng thể truyền chỉ bảo vệ cho gà con 1 - 3 tuần. Đồng thời do gà nhỏ có thể mắc 
 67 
bệnh ở thể tiềm ẩn, không có biểu hiện triệu chứng nhưng ảnh hưởng rất nghiêm 
trọng đến giai đoạn gà lớn hơn do ức chế khả năng tạo miễn dịch của gà (Muller et 
al., 2012). 
4.1.1.4 Tỉ lệ bệnh Gumboro ở các đàn có và không tiêm vaccine Gumboro 
Trong quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy người chăn nuôi sử dụng vaccine 
chưa đúng kỹ thuật như: bảo quản không đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất 
(đường cấp, cách pha chế, liều lượng), thời gian sử dụng, vệ sinh chuồng trại 
kém ..., nên bệnh vẫn xảy ra trên những đàn đã được phòng vaccine (Bảng 4.4). 
Bảng 4.4: Tỉ lệ đàn gà bệnh theo số lần sử dụng vaccine 
Số lần sử dụng 
vaccine 
Số đàn sử dụng vaccine Số đàn bệnh Tỉ lệ (%) 
Không sử dụng 36 24 66,7 
01 lần 42 22 52,4 
02 lần 53 13 24,5 
Tổng 131 59 45,0 
 P=0,001 
Qua Bảng 4.4 cho thấy những đàn không được tiêm vaccine có tỉ lệ nhiễm 
bệnh cao nhất (66,7%), kế đến là tiêm vaccine một lần (52,4%), tỉ lệ mắc bệnh thấp 
nhất ở những đàn được tiêm nhắc lại lần hai (24,5%). So sánh tỉ lệ mắc bệnh ở 
những đàn gà không chủng ngừa vaccine với những đàn sử dụng vaccine 1 lần cho 
thấy có sự khác có ý nghĩa về mặt thống kê (P = 0,001). Kết quả trên hoàn toàn phù 
hợp với nhận định của Trần Thị Bích Liên (2001), khẳng định gà không được tiêm 
phòng vaccine khó tránh được bệnh và khi mắc bệnh tỉ lệ chết cao. Theo Hồ Thị 
Việt Thu (2010), bệnh thường xảy ra nhất ở các đàn không được tiêm vaccine 
(70,0%), kế đến là các gà chỉ được tiêm vaccine một lần (62,5%) và gà được tiêm 
vaccine hai lần (28,6%). 
Tuy nhiên, kết quả trên cũng cho thấy tiêm phòng 2 lần đàn gà vẫn mắc bệnh 
(24,5%). Theo nghiên cứu của Lê Văn Năm (2004), do thị trường vaccine Gumboro 
nước ta có nhiều loại khác nhau, được sản xuất từ nhiều nước. Sự đa dạng, phong 
phú về chủng loại, tên gọi của các loại vaccine phòng bệnh Gumboro đã gây không 
ít khó khăn cho người chăn nuôi khi muốn sử dụng vaccine. Có nhiều trường hợp 
lần đầu dùng vaccine này, lần sau lại sử dụng vaccine khác trên cùng 1 đàn gà và 
hậu quả là đàn gà được tiêm phòng vaccine nhưng bệnh vẫn xảy ra. Ngoài ra, một 
 68 
số đàn gà khi được phòng bệnh bằng vaccine theo lịch hướng dẫn nhưng bệnh vẫn 
xảy ra có thể là do khả năng bảo hộ của vacine chưa cao, điều này phù hợp với Đái 
Duy Ban và Phạm Công Hoạt (2004), khi sử dụng vaccine không đúng liều lượng 
hướng dẫn, dung dịch pha không phù hợp, cách bảo quản và quy trình phòng bệnh 
không đúng yêu cầu về kỹ thuật làm giảm hiệu lực của vaccine, nguy hiểm hơn là 
sẽ làm cho đàn gà dễ mắc bệnh. Theo Nguyễn Bá Hiên (2007), khi tiêm vaccine 
lần 1 và lần 2 cách nhau 3 – 4 tuần thì đáp ứng miễn dịch sẽ nhanh hơn, mạnh hơn, 
có thể gấp hàng trăm lần và thời gian miễn dịch dài hơn. 
Ngoài ra, khả năng đáp ứng miễn dịch còn tùy thuộc tình hình sức khỏe của 
đàn gà khi tiêm phòng như đàn gà mắc bệnh cầu trùng, dinh dưỡng kém, đang sử 
dụng các thuốc gây ức chế miễn dịch, stress môi trường (nhiệt độ quá cao, độ thông 
thoáng kém), mật độ nuôi cao,  (Trần Ngọc Bích và ctv, 2016). 
4.1.2 Tần suất xuất hiện triệu chứng và bệnh tích của gà mắc bệnh 
Gumboro 
Kết quả khảo sát cho thấy trong 59 đàn gà bệnh Gumboro đều xuất hiện triệu 
chứng bỏ ăn, ủ rũ xù lông, uống nhiều nước, gục đầu chiếm tỉ lệ cao nhất là 
(100,0%) (Bảng 4.5). 
Bảng 4.5: Tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng trên đàn gà mắc bệnh 
(n=59) 
Đặc điểm lâm sàng 
Số 
mẫu 
Tần suất xuất 
hiện 
Tỉ lệ (%) 
Bỏ ăn, xù lông, uống nhiều nước 59 59 100 
Ủ rũ, gục đầu và sà cánh 59 59 100 
Tiêu chảy phân trắng, xanh nhiều nước 59 56 94,9 
Hậu môn dính đầy phân 59 46 77,9 
Da chân khô 59 45 76,3 
Tự mổ vào hậu môn 59 21 35,6 
Triệu chứng gà tiêu chảy phân trắng, xanh nhiều nước (94,9%), hậu môn dính 
đầy phân với tỉ lệ (77,9%), da chân khô với tỉ lệ (76,3%) thấp nhất là triệu chứng 
 69 
gà tự mổ vào hậu môn chiếm tỉ lệ (35,6%). Kết quả trên cũng phù hợp với ghi nhận 
của Nguyễn Bá Thành (2006); Eterradossi and Saif (2008), gà bệnh Gumboro có 
triệu chứng mệt mỏi, xù lông, thường dồn về một gốc chuồng, phân dính hậu môn, 
có niêm dịch lợn cợn, nhiều nước, đôi khi có máu. Gà kiệt sức nằm sải cánh. 
Hình 4.2: Một số triệu chứng lâm sàng gà mắc bệnh Gumboro (A: Hậu môn ướt, 
dính phân vấy bẩn; B: Gà xù lông, gụt đầu) 
Qua mổ khám 59 gà đại diện cho 59 đàn bệnh Gumboro chúng tôi ghi nhận 
tần suất xuất hiện bệnh tích đại thể được thể hiện ở Bảng 4.6 như sau: 
Bảng 4.6: Tần suất xuất hiện bệnh tích trên đàn gà mắc bệnh Gumboro (n=59) 
Cơ quan Bệnh tích 
Tần suất xuất hiện 
Số mẫu Tỉ lệ (%) 
Túi Fabricius 
Sưng, xuất huyết 41 70 
Teo 18 30 
Cơ đùi Xuất huyết 45 76,2 
Cơ ngực Xuất huyết 32 54,2 
Lách Sưng và/hoặc hoại tử 19 32,2 
Thận Sưng 8 13,5 
Ruột Xuất huyết 19 32,2 
Phần tiếp giáp dạ dày 
tuyến và dạ dày cơ 
Xuất huyết 
26 44,1 
A B 
 70 
Qua kết quả ghi nhận cho thấy gà nhiễm bệnh Gumboro trên các đàn khảo sát 
cho bệnh tích đại thể trên các cơ quan rất điển hình, đặc biệt là trên túi Fabricius 
và các cơ. Túi Fabricius: qua khảo sát hầu hết các gà nhiễm bệnh đều có bệnh tích 
ở túi Fabricius với tỉ lệ 100%. Các bệnh tích xuất hiện như túi sưng hoặc teo, thủy 
thủng, sung huyết, xuất huyết. Những trường hợp gà nhiễm bệnh nặng túi Fabricius 
xuất huyết rất nặng có màu đỏ sậm. Mặc dù gà sau khi nhiễm Gumboro khỏi bệnh 
nhanh nhưng thiệt hại đối với túi Fabricius là không thể phục hồi và dẫn đến ức chế 
miễn dịch, sau đó tăng tính nhạy cảm với các bệnh khác và gây thất bại trong tiêm 
chủng (Withers et al., 2006). 
Kết quả này phù hợp với rất nhiều tác giả khác nghiên cứu trên bệnh Gumboro 
như Nguyễn Bá Thành (1999; 2006), Nguyễn Văn Cảm (2000), Trần Ngọc Bích 
và ctv (2016), tất cả đều cho kết quả nghiên cứu bệnh tích đại thể trên túi Fabricius 
đạt 100%. Diễn tiến của bệnh Gumboro trong tự nhiên sau 3 ngày bệnh mổ khám 
thấy túi Fabricius đều sưng rất to, có dịch nhầy gelatin bao quanh, màu vàng, một 
số túi xuất huyết lấm chấm. Điều này có thể được giải thích do virus Gumboro có 
đặc tính hướng các cơ quan lâm ba, đặc biệt là túi Fabricius (Eterradossi and Saif 
2008). Khi gà mắc bệnh Gumboro, virus sẽ tác động đến túi Fabricius và gây ra 
những biến đổi. Túi Fabricius bắt đầu tăng về kích thước và trọng lượng trong 
khoảng 48 – 72 giờ sau khi nhiễm do thủy thủng và xuất huyết. Kích thước túi có 
thể tăng gấp 2 – 3 lần so với bình thường. Vào ngày thứ 4 sau nhiễm, kích thước 
túi vẫn còn to gấp đôi, sau đó mới nhỏ dần lại. Ngày thứ 5 sau nhiễm trọng lượng 
túi bằng trọng lượng ban đầu và teo đi. Đến ngày thứ 8 trọng lượng túi chỉ bằng 1/3 
trọng lượng ban đầu. Theo nghiên cứu của Lombardo et al. (2000) chứng minh 
VP5 là một loại protein không cấu trúc, không có vai trò trong sự nhân lên của 
virus nhưng có chức năng trong quá trình điều hòa sao chép và tổng hợp protein, 
đặc biệt trong quá trình khởi phát sự “chết tự nguyện” (apoptosis) của tế bào dẫn 
đến suy giảm miễn dịch và chức năng ly giải tế bào để giải phóng virus, làm vỡ tế 
bào dẫn đến teo túi Fabricius. 
Các phản ứng miễn dịch dịch thể đã được chứng minh là không có hiệu quả 
sau nhiễm IBDV và gà mà có tiền sử nhiễm IBDV là nhạy cảm hơn với một loạt 
các bệnh bao gồm: viêm gan, cầu trùng, Marek, viêm da, viêm thanh phế quản 
truyền nhiễm, thiếu máu truyền nhiễm ở gà, nhiễm khuẩn Salmonella, 
Colibacillosis, Campylobacter và cúm gia cầm (Ramirez-Nieto et al., 2010). Gà 
sống sót sau khi nhiễm bệnh, có sự tái sinh Fabricius với các tế bào lympho B, tuy 
nhiên, hai loại nang tế bào B khác biệt đã được quan sát thấy: các nang lớn, rất có 
 71 
thể được tái sinh từ các tế bào gốc bursal nội sinh và các nang nhỏ, phát triển kém 
(Withers et al., 2006), khi thiếu các nang lớn không thể tạo ra đáp ứng miễn dịch 
hoạt động, và có thể những thay đổi mô học này góp phần ức chế miễn dịch. Ức 
chế miễn dịch gây ra bởi nhiễm IBDV rất phức tạp. Một mặt, sự suy giảm lớn của 
các tế bào B trong quá trình nhiễm IBDV trực tiếp phá vỡ việc tạo ra các kháng thể 
đa dạng để hệ thống miễn dịch mắc phải không đáp ứng với các mầm bệnh khác. 
Mặt khác, các thành phần của IBDV có thể ức chế phản ứng miễn dịch bẩm sinh 
của vật chủ bên cạnh quá trình chết tự nguyện của tế bào B. 
Hình 4.3: Bệnh tích bệnh Gumboro ở đàn gà bệnh 
(A: xuất huyết cơ đùi; B: Thận sưng, nhạt màu; C: Túi Fabricius sưng, tích tụ keo nhày 
bên ngoài; D: Chỗ tiếp giáp dạ dày cơ và dạ dày tuyến xuất huyết) 
Kế đến là xuất huyết cơ đùi (76,2%), cơ ngực (54,2%), lách sưng (32,2%) 
xuất huyết giữa dạ dày cơ và dạ dày tuyến (44,1%). Virus Gumboro tác động gây 
nên hiện tượng bệnh lý đông máu do trong hệ tuần hoàn xuất hiện các cục huyết 
khối, làm nghẽn mạch mao quản, chủ yếu là vùng niêm mạc túi Fabricius và ở một 
số nơi khác, dẫn đến hiện tượng sung huyết. Khi không chịu nổi áp suất gia tăng 
của máu, mao mạch bị đứt gây nên hiện tượng xuất huyết. Sự sung huyết, xuất 
huyết từ quy mô nhỏ (từng điểm li ti) đến quy mô lớn (vệt, mảng) và có màu sắc 
đa dạng từ hồng đến tím hoặc nâu đen. 
D 
A 
C 
B 
 72 
Kết quả mổ khám cho thấy bệnh tích xuất hiện chủ yếu ở túi Fabricius, xuất 
huyết cơ đùi, cơ ngực. Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Xuân Bình và 
ctv (2005); Lê Văn Năm (2004), gà bệnh Gumboro có bệnh tích điển hình tập trung 
ở cơ quan miễn dịch (sưng và xuất huyết túi Fabricius) và hệ cơ (xuất huyết cơ 
ngực, cơ đùi), còn xuất huyết giữa dạ dày tuyến và dạ dày cơ, xuất huyết điểm ở 
tuyến ức chiếm tỉ lệ thấp. Các tổn thương ở manh tràng, tuyến ức, lá lách và tủy 
xương cũng được quan sát thấy ở những con gà bị nhiễm IBDV và tuyến Harderian 
đã được chứng minh là bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau khi nhiễm bệnh ở gà con 1 
ngày tuổi với IBDV (Eterradossi and Saif, 2013). 
4.1.3 Tỉ lệ mẫu nhiễm bệnh Gumboro ở các tỉnh/ thành vùng ĐBSCL 
Qua khảo sát 131 đàn gà nghi bệnh có 59 đàn được xác định là mắc bệnh 
Gumboro với tỉ lệ 45,0% thông qua triệu chứng và bệnh tích đặc trưng. Kết quả ở 
Bảng 4.7 cho thấy gà nhiễm bệnh Gumboro do chăn nuôi theo tập quán nhỏ lẻ, 
virus có sức đề kháng cao với các tác nhân lý hóa và môi trường, mầm bệnh tồn tại 
lâu dài trong chuồng nuôi ngay cả khi qui trình tiêu độc sát trùng được thực hiện 
kỹ lưỡng. Trong chất thải, phân, nước tiểu virus Gumboro vẫn giữ nguyên tính gây 
nhiễm và gây bệnh ít nhất là 52 ngày (Nguyễn Đức Hiền, 2009). 
Bảng 4.7: Tỉ lệ mẫu nhiễm Gumboro theo địa phương khảo sát 
Tỉnh Số mẫu Số mẫu nhiễm Tỉ lệ mẫu nhiễm (%) 
Bến Tre 26 11 42,3 
Hậu Giang 15 9 60,0 
Cần Thơ 14 7 50,0 
Trà Vinh 19 9 47,4 
Vĩnh Long 28 12 42,8 
An Giang 29 11 37,9 
Tổng 131 59 45,0 
 P = 0,812 
Giữa các tỉnh khảo sát, đàn gà nuôi tại Hậu Giang có tỉ lệ nhiễm bệnh cao 
nhất (60,0%) và thấp nhất ở An Giang (37,9%) do điều kiện địa lý tại An Giang 
phù hợp chăn nuôi theo quy mô nhỏ với hình thức nuôi thả hoàn toàn là chủ yếu, 
ngược lại tại Hậu Giang các đàn gà có quy mô lớn hơn và được nuôi theo hình thức 
bán chăn thả hoặc nuôi nhốt hoàn toàn nên có sự khác biệt về tỉ lệ nhiễm bệnh. Tuy 
 73 
nhiên, không có sự khác biệt về tỉ lệ nhiễm giữa các tỉnh khảo sát. Kết quả trên khá 
tương đồng với khảo sát của Phạm Trường Thanh (2016) với tỉ lệ nhiễm bệnh là 
(46,7%). Theo nhận định của Lê Văn Năm (2004), bệnh Gumboro là một trong 
những bệnh có tỉ lệ nhiễm cao nhất khoảng (57,0%) so với các bệnh khác trên gia 
cầm. Theo Nguyễn Bá Thành (2006), nghiên cứu bệnh Gumboro trên đàn gà tại 
tỉnh Đồng Nai cho kết quả là bệnh Gumboro chiếm tỉ lệ cao nhất (57,5%) trong 
tổng số mẫu kiểm tra. 
4.1.4 Tỉ lệ gà chết do bệnh Gumboro 
Kết quả khảo sát tỉ lệ gà chết do bệnh Gumboro (Bảng 4.8) cho thấy tỉ lệ chết 
được xác định bởi nhiều yếu tố bao gồm độc lực của IBDV, liều lây nhiễm, tuổi, 
giống gà, và khả năng miễn dịch thụ động (Ingrao et al., 2013). 
Bảng 4.8: Tỉ lệ gà chết do bệnh Gumboro 
Tỉnh Số đàn bệnh Số gà bệnh Số gà chết Tỉ lệ chết (%) 
Bến Tre 26 11.200 365 3,25 
Hậu Giang 15 4.500 225 5,00 
Cần Thơ 14 3.600 153 4,25 
Trà Vinh 19 7.200 450 6,25 
Vĩnh Long 28 9.200 455 4,95 
An Giang 29 3.900 259 6,64 
Tổng 131 39.600 1.907 4,81 
 P = 0,001 
Kết quả ở Bảng 4.8 cho thấy tỉ lệ chết của gà do bệnh Gumboro trong khảo 
sát này không cao (4,81%). Tuy nhiên có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ 
chết giữa các tỉnh khảo sát (P = 0,001), tỉ lệ gà chết cao nhất ở tỉnh An Giang, thấp 
nhất ở tỉnh Bến Tre. Theo Lê Văn Năm (2004) khi bệnh Gumboro xảy ra thì hầu 
như 100% số đàn gà bệnh Gumboro đều bị kế phát những bệnh khác tạo thành 
những bệnh ghép phức tạp, làm tăng tỉ lệ gà chết trong đàn mắc bệnh có thể lên 
đến 100%. Theo Trần Thị Quỳnh Lan (1999), bước đầu nghiên cứu tình hình dịch 
tễ của bệnh Gumboro ở các trại gà tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 
bệnh Gumboro gây thiệt hại kinh tế đáng kể. Tỉ lệ chết trong đàn khảo sát từ 4% 
đến 29% chủ yếu ở giai đoạn từ 3 đến 7 tuần tuổi, tập trung ở 4 tuần tuổi trên các 
 74 
đàn gà thịt. Chương trình chủng ngừa bệnh Gumboro không đảm bảo 100 % trong 
việc phòng chống lại bệnh tại các trại khảo sát. 
Hơn nữa, khi được chẩn đoán là bệnh Gumboro thì người chăn nuôi đã tiến 
hành các biện pháp phòng trị đặc hiệu như tiêm kháng thể kháng virus Gumboro, 
cho gà uống glucose, chất điện giải và vitamin, kinh nghiệm và kỹ thuật chăn nuôi 
có nhiều tiến bộ so với trước đây nên hạn chế được tỉ lệ chết do bệnh. Theo Nguyễn 
Bá Thành (2004), tỉ lệ gà chết còn liên quan đến thời điểm phát hiện và điều trị 
bệnh, nếu phát hiện bệnh kịp thời ngay khi gà mới mắc bệnh Gumboro, thì hiệu 
quả điều trị cao và tỉ lệ sống sẽ là 90 - 95%, nếu can thiệp kịp thời vào ngày thứ hai 
khi mắc bệnh thì tỉ lệ gà sống là 80 - 85% và sau ngày thứ 3 thì tỉ lệ này chỉ còn là 
60 - 65%. Do đó việc chẩn đoán nhanh và điều trị kịp thời sẽ làm giảm tỉ lệ gà chết 
trong đàn do mắc bệnh Gumboro. 
4.2 Nội dung 2: Nghiên cứu đặc điểm di truyền virus Gumboro phân 
lập trên gà bệnh tại ĐBSCL 
Kết quả thực hiện phản ứng PCR, giải trình tự gene VP2 
Sản phẩm PCR thu được có kích thước khoảng 474 bp, kết quả điện di ở Hình 
4.3 cho thấy chất lượng tốt, băng DNA sáng, đơn băng. 
Hình 4.4: Điện di sản phẩm PCR của các chủng IBDV. 
M: chỉ thị phân tử DNA của thực khuẩn thể Lambda được cắt bằng HindIII. 
4.2.1 Trình tự chuỗi nucleotide và chuỗi amino acid của các chủng phân 
lập và vaccine 
Hình 4.5 cho thấy mẫu đã được giải trình tự rõ ràng, mỗi đỉnh màu của giản 
đồ (chromatogram) đều xác định một loại nucleotide, chứng tỏ chuỗi nucleotide ở 
vùng siêu biến đổi của gene kháng nguyên VP2 thu nhận sau quá trình giải trình tự 
có chất lượng tốt. Khi so sánh vị trí chuỗi nucleotide này với vị trí một số chuỗi 
nucleotide của vùng siêu biến đổi được công bố trong Ngân hàng gene thì khá phù 
474b
p 
500bp 
 75 
hợp, chứng tỏ toàn bộ quy trình RT-PCR là chính xác từ việc sử dụng mồi, chu 
trình nhiệt, tiến trình thực hiện và kết quả phản ứng hoàn toàn đặc hiệu với primer. 
Hình 4.5: Giản đồ (chromatogram) một phần trình tự vùng siêu biến đổi gene 
kháng nguyên VP2 
Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng bên cạnh virus IBDV có độc lực cao, 
các chủng khác cũng đã xuất hiện ở châu Âu và điều này cũng có thể đúng với các 
khu vực khác do đó tình trạng bệnh Gumboro dường như đang gia tăng phức tạp. 
Những thay đổi về tính kháng nguyên và độc lực làm cho việc kiểm soát IBD bằng 
cách tiêm chủng trở nên khó khăn hơn (van den Berg, 2000; Muller et al., 2003; 
Eterradossi and Saif, 2008). Các chủng IBDV cổ điển gây ra tổn thương túi 
Fabricius và hoại tử tế bào lympho B dẫn đến tỷ lệ tử vong 20-30%. Vào giữa 
những năm 1980, các chủng IBDV cực độc đã xuất hiện và gây ra sự bùng phát 
đáng kinh ngạc dẫn đến tỷ lệ tử vong lên đến 60-70% và sau đó lan sang Trung 
Đông, Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ (Abdel-Alem et al., 2003). 
Gene VP2 được nghiên cứu một cách phổ biến vì nó mã hóa cho các chất bảo 
vệ chính, chứa các yếu tố quyết định đến khả năng gây bệnh và biến đổi cao giữa 
các chủng (Abdel-Alem et al., 2003; Jackwood and Sommer-Wagner, 200

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_benh_gumboro_tren_ga_tai_mot_so_tinh_dong.pdf
  • pdf1. DU_Thông tin tieng viet 21.10.19.pdf
  • pdf2. DU_Thông tin tieng anh 21.10.19.pdf
  • pdf3.DU_ TOM TAT TIENG VIET _21.10.19.pdf
  • pdf4. DU_TOM TAT TIENG ANH _14.09.19.pdf