Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 201 trang nguyenduy 18/09/2025 20
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống

Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống
 
đoạn từ 4-7 tuổi, triệu chứng bệnh vàng lá greening biểu hiện rất rõ ràng, nên 
quan sát triệu chứng bằng mắt thường và sử dụng PCR không sai khác nhiều. 
Cây ở vườn kiến thiết cơ bản có sự sai lệch nhiều giữa điều tra bằng mắt 
thường và sử dụng kỹ thuật PCR. Cụ thể: 
Ở vườn cam Canh chẩn đoán bằng mắt thường tỷ lệ nhiễm bệnh vàng lá 
greening chỉ có 1,67%, bằng PCR tỷ lệ bệnh là 13,33; cam Xã Đoài là 1,79%, 
sử dụng PCR là 10% còn trên bưởi ở vườn kiến thiết cơ bản tỷ lệ chẩn đoán 
bệnh bằng PCR và mắt thường là như nhau (bảng 3.8). 
Vườn được thâm canh tốt thì triệu chứng của bệnh thường tiềm ẩn, tuy 
nhiên qua điều tra thực tế cho thấy, bưởi bị nhiễm bệnh nhẹ hơn giống cam 
Canh, cam Xã Đoài. Trong khi đó, tại Xuân Mai vườn cam Xã Đoài ở giai 
đoạn 6-7 năm tuổi đã bị nhiễm bệnh vàng lá greening trên 80% và phải chặt 
bỏ để trồng mới. 
Bảng 3.8. Kết quả giám định bệnh vàng lá greening trên một số chủng 
loại cây có múi chủ lực ở Hà Nội và Cao Phong – Hoà Bình (năm 2010) 
STT Tên giống 
Tuổi 
cây 
Kết quả quan 
sát triệu 
chứng bệnh 
bằng mắt 
thường (%) 
Số mẫu 
giám 
định 
bằng 
PCR 
Kết quả 
Mẫu 
dương 
tính 
Tỷ lệ 
(%) 
1 Cam Canh 
2-3 1,67 30 4 13,33 
4-6 20,89 30 7 23,33 
>7 36,63 30 9 30,00 
2 
Cam Xã 
Đoài 
2-3 1,79 30 3 10,00 
4-6 22,22 30 11 36,66 
>7 14,41 30 10 33,33 
3 Bưởi Diễn 
2-3 1,57 30 1 3,33 
4-8 4,26 30 5 16,67 
>8 16,97 30 5 16,67 
Ghi chú: Mỗi tuổi cây điều tra 10 vườn 
75 
Cùng với các mẫu điều tra và đã thu thập, đề tài đã ứng dụng công nghệ 
sinh học để giám định sự hiện diện bệnh do vi rút và viroid trên cây ăn quả. 
Kết quả bảng 3.9 đã xác định được sự hiện diện bệnh tristeza, tatter leaf và 
exocortis trong mẫu bệnh vàng lá greening. Kết quả giám định bệnh bằng sinh 
học phân tử cho thấy, bệnh tristeza đã xuất hiện ở tất cả các điểm thu thập 
mẫu, bệnh tatter leaf và bệnh exocortis lần đầu tiên ghi nhận được ở một số 
tỉnh thuộc phía Bắc Việt Nam. Tại Hà Nội, đã xác định được sự hiện diện của 
cả ba bệnh (tristeza, tatter leaf và exocortis) ở cây có múi. Trên thực tế, một số 
mẫu quan sát bằng mắt thường được cho là sạch bệnh nhưng kiểm tra bằng 
PCR đã cho kết quả dương tính. 
Như vậy, mối nguy cơ của bệnh luôn ở mức cao, các nhà sản xuất cây 
giống chưa quan tâm đến cây đầu dòng mà thường mặc định là cây sạch bệnh 
nếu cây chưa biểu hiện triệu chứng. 
Bảng 3.9. Sự phân bố của một số loài vi rút và viroid trên cây ăn quả 
có múi thu nhận ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam 
(Viện Bảo vệ thực vật, 2011) 
Địa điểm Chủng loại 
cây có múi 
Kết quả giám định bệnh 
Tristeza 
(Strip) 
Tatter leaf 
(RT-PCR) 
Exocortis 
(RT-PCR) 
Từ Liêm 
(Hà Nội) 
Cam Xã Đoài + - + 
Quất + - - 
Bưởi Diễn + - - 
Cam Canh + + - 
Bắc Quang (Hà Giang) Cam Sành + + - 
Nghệ An 
Cam Xã Đoài + - + 
Quýt PQ + - - 
Ghi chú: - : Chưa ghi nhận được; 
 +: Ghi nhận được bệnh bằng phương pháp RT-PCR, Strip 
76 
Ở Nghệ An đã xác định được bệnh exocortis bằng RT-PCR và ghép trên 
cây chỉ thị (Etrog citron 861). Kết quả điều tra tại Vân Đồn, Quảng Ninh đã 
ghi nhận được bệnh vàng lá greening bị nhiễm rất nặng nhưng còn ít được 
quan tâm, 100% số mẫu thu thập đều cho kết quả dương tính với bệnh vàng lá 
greening. Bệnh tristeza bắt gặp ở mức độ thấp, bệnh tatter leaf và exocortis 
chưa ghi nhận được ở địa phương này trong số các mẫu thu thập. 
Vùng cam thâm canh ở Cao Phong, Hòa Bình, có mức độ bệnh vàng lá 
greening và tristeza gây hại nặng ở các mẫu thu thập được. Tỷ lệ từng loại 
bệnh cũng khác nhau trên vườn do nguồn gốc cây giống ban đầu cung cấp. 
Một số mẫu có triệu chứng điển hình với exocortis nhưng kết quả kiểm tra 
bằng RT-PCR cho âm tính, tương tự bệnh tatter leaf chưa ghi nhận được tại 
Cao Phong, Hòa Bình. 
Số lượng mẫu để xác định bệnh tatter leaf và exocortis chưa nhiều là do 
công đoạn giám định mẫu, những mẫu không bị bệnh vàng lá greening hoặc bị 
bệnh tristeza được loại bỏ và không tiến hành các bệnh tiếp theo. Hình 3.9 là 
kết quả phân tích bệnh tatter leaf, exocortis và tristeza từ mẫu thu thập ở các 
địa phương trong vùng điều tra. 
Hình 3.9. Kết quả giám định bệnh hại cây có múi bằng sinh học phân tử 
 (A) Bệnh tatter leaf; (B) bệnh Exocortis; (C) bệnh tristeza 
(Nguồn: Lê Mai Nhất, 2011) 
RT – PCR (CTVL) RT – PCR (CEVd) 
A B C 
77 
3.1.7. Cải tiến phương pháp tách chiết thô DNA trong chẩn đoán bệnh 
vàng lá greening trên cây ăn quả có múi 
Giám định bệnh vàng lá greening bằng mắt thường hay sử dụng 
phương pháp chẩn đoán bằng I-ốt là rất khó trong việc xác định chính xác tác 
nhân gây bệnh. Sử dụng các biện pháp tách chiết DNA theo quy trình chung 
như dung dịch chiết (bao gồm Tris-HCl; EDTA, NaCl); hóa chất để tinh sạch 
DNA gồm các hóa chất (Sarkosyl, CTAB, chloroform, isoamyl alcohol và 
phenol) trong đó có nhiều hóa chất độc hại. Tách chiết và tinh sạch DNA theo 
Hung và cs., 1999a[91] là rất phù hợp với điều kiện nghiên cứu chuyên sâu, 
giải trình tự gen. 
Tuy nhiên, thời gian tách chiết DNA theo phương pháp nói trên thường 
mất nhiều thời gian, với số lượng 10 mẫu cùng các thao tác từ rửa lá cho đến 
khi thu được DNA phải tiêu tốn thời gian từ 5 - 6 giờ dẫn đến giá thành giám 
định mẫu đắt gấp nhiều lần, các yếu tố tạo nên giá thành cao đó là chi phí 
nhân công làm mẫu, điện nước, hóa chất, đặc biệt quan tâm là sử dụng nhiều 
hóa chất độc làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gây ô nhiễm môi trường. 
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn nói trên, đề tài đã tiến hành nghiên 
cứu cải tiến phương pháp tách chiết DNA bằng NaOH (bảng 3.10), phương 
pháp này được thực hiện tại Phòng thí nghiệm trường Đại học tổng hợp Đài 
Loan. Đồng thời đã được ứng dụng thử nghiệm thành công tại phòng thí 
nghiệm của Viện Bảo vệ thực vật. 
Sử dụng NaOH để tách chiết DNA đã tiết kiệm được thời gian từ 5 đến 
6 giờ xuống còn từ 45 phút – 1 giờ, tùy thuộc vào tay nghề, kỹ thuật khi thực 
hiện. Đặc biệt hơn, việc thu được DNA chỉ phải sử dụng dụng NaOH và 
acetic a-xít, như vậy đã giảm được chi phí và nhân công cho các công đoạn 
tách chiết nhưng vẫn thu được DNA. Ở hai dạng tách chiết DNA đều sử dụng 
isopropanol trong bước cuối cùng để thu kết tủa và dung dịch TE được sử 
dụng để làm tan kết tủa và bảo quản DNA. 
78 
Bảng 3.10. Cải tiến phương pháp tách chiết thô DNA 
trong chẩn đoán bệnh vàng lá greening, 
(Phòng thí nghiệm trường Đại học tổng hợp Đài Loan, 11/2011) 
Mẫu bệnh 
thí nghiệm 
Nồng độ DNA thu được ở các phương pháp tách chiết DNA 
Dịch chiết thông 
thường 
 (Hung et al. 1999) 
Nghiền trong 
Eppendorf 
bằng NaOH 
Nghiền bằng 
máy ép với 
NaOH 
Mẫu bệnh 1 +++ ++ + 
Mẫu bệnh 2 +++ ++ ++ 
Mẫu bệnh 3 ++++ ++ + 
Mẫu bệnh 4 ++++ +++ ++ 
Ghi chú: +: < 50 µg; ++: 50 ~ <110 µg; +++: 110 ~ < 170 µg; ++++: 
170 ~ < 230 µg 
Kết quả thu được sau điện di (hình 3.10) cho thấy sử dụng NaOH trong 
tách chiết DNA để giám định bệnh vàng lá greening phục vụ công tác xác 
định bệnh, cấp chứng chỉ cây giống sạch bệnh là phù hợp, đáp ứng được yêu 
cầu sản xuất. Trả lời nhanh kết quả cho sản xuất cũng như công tác kiểm dịch 
hàng hóa ở cửa khẩu đối với bệnh vàng lá greening trên cây giống và sản 
phẩm quả tươi nhập vào Việt Nam là cần thiết. Từ khi nhận được mẫu tại 
phòng thí nghiệm cho đến công đoạn cuối cùng chỉ mất từ 4 – 5 giờ, nhưng 
nếu sử dụng quy trình chuẩn trong nghiên cứu sâu về gen cần khoảng thời 
gian từ 10 đến 12 giờ (1,5 ngày làm việc). Kỹ thuật này cần được ứng dụng 
trong chẩn đoán bệnh vàng lá greening để kiểm định cây giống trước khi xuất 
vườn cũng như xác định sớm sự lây lan của bệnh trên vườn do môi giới 
truyền bệnh. 
79 
Hình 3.10. Kết quả giám định bệnh vàng lá greening 
bằng các phương pháp tách chiết DNA 
M: Marker; I (1 – 4): tinh sạch AND bằng kít; II (1-4): nghiền trong 
eppendoft bằng dung dịch NaOH; III (1-4): nghiền bằng kỹ thuật ép với 
dung dịch NaOH. 
Nguồn: Lê Mai Nhất, Hong – Ji Su, Yachih Feng (2011) 
3.2. Xác định tác nhân gây bệnh và sự lan truyền bệnh vàng lá greening 
3.2.1. Xác định tác nhân gây bệnh vàng lá greening bằng hiển vi điện tử 
Trên thế giới đã sử dụng phương pháp bằng hiển vi điện tử để xác định 
tác nhân gây bệnh vàng lá greening; Kết quả đã xác định được tác nhân gây 
bệnh trên cây có múi do vi khuẩn và nhuộm gram âm, không nuôi cấy được 
trên môi trường nhân tạo. 
Bằng phương pháp thu mẫu bệnh thu thập tại các địa phương thuộc các 
tỉnh phía Bắc Việt Nam được lựa chọn và chuyển đến phòng hiển vi điện tử 
(Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương) nhằm xác định sự xâm nhập của tác nhân 
gây bệnh vào mạch dẫn. Bằng phương pháp cắt mẫu siêu mỏng và quan sát 
dưới kính hiển vi điện tử. Kết quả nêu trong hình 3.11 trình bày hình ảnh 
được chụp dưới kính hiển điện tử ở các chủng loại cây có múi gồm cam (độ 
226 bp 
I (1 -4) II (1 -4) III (1 -4) 
80 
phóng đại 5000 lần), quýt (độ phóng đại 1500 lần), bưởi và chanh (độ phóng 
đại 1000 lần). Các hỉnh ảnh chụp được đều cho kết quả như nhau và cho thấy 
các mạch gỗ bị thoái hóa. Qua ảnh chụp đã phát hiện được sự xâm nhập của 
tác nhân gây bệnh đã làm cho mạch dẫn bị tích tụ tinh bột dẫn đến thoái hóa 
mạch dẫn, lục lạp trong lá bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hậu quả cây bị bệnh sẽ 
nhanh bị tàn lụi, cây bị suy thoái; cây không có khả năng quang hợp, hấp thu 
và không vận chuyển dinh dưỡng theo mạch dẫn để nuôi cây. Kết quả này 
phù hợp với công bố của các tác giả Tirtawidjaja et al. (1965)[143]; Garnier 
và Bové (1996)[62]; Su và cộng sự (2012)[138]. 
Hình 3.11. Xác định tác nhân gây bệnh VLG xâm nhập vào mạch dẫn 
bằng hiển vi điện tử 
(A) cam Xã Đoài; (B) cam Canh; (C) bưởi Diễn và (D) chanh Eureka lemon 
SG: Tích tụ tinh bột; CP: Lục lạp 
(Nguồn: Lê Mai Nhất và Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, 2013) 
CP 
SG 
SG 
CP 
SG 
SG 
SG 
SG 
A B 
C D 
81 
3.2.2. Xác định tác nhân gây bệnh vàng lá greening bằng sinh học 
phân tử 
Kế thừa các kết quả nghiên cứu trên thế giới về xác định tác nhân gây 
bệnh vàng lá greening bằng sinh học phân tử, trong nghiên cứu này ứng dụng 
các cặp mồi đặc hiệu để chẩn đoán bệnh phục vụ các nghiên cứu chuyên sâu 
về bệnh, xác định chính xác tác nhân gây bệnh. Đề tài đã sử dụng các cặp mồi 
khác nhau để giám định bệnh vàng lá greening, kết quả ứng dụng này nhằm 
đưa đến những kết luận chính xác về tác nhân gây bệnh. Với cây ăn quả có 
múi thì điều kiện để công nhận cây đầu dòng và cây giống sạch bệnh phải 
được thực hiện bằng phương pháp này (hình 3.12). 
A 
B 
C 
Hình 3.12. Kết quả giám định bệnh vàng lá greening với các cặp mồi khác nhau 
 Cặp mồi 16S của Sandrine Jagoueix (1996) 
(A); cặp mồi A2J5 của A. Hocquellet (B) và cặp mồi của Hung et al. (1999) (C) 
(Nguồn: Lê Mai Nhất, 2010) 
Trong phản ứng PCR, với cặp mồi đặc hiệu để nhận biết tác nhân gây 
bệnh thì nhiệt độ gắn mồi là điểm nhiệt quan trọng. Nhiệt độ quá ngưỡng phù 
hợp dẫn đến khả năng sao chép không chính xác. Các cặp mồi trên được sử 
dụng với khoảng nhiệt gắn mồi ở 60°C, đây là nhiệt độ thích hợp nhất cho cặp 
mồi hoạt động. Kết quả phản ứng từ các cặp mồi đều cho kết quả giám định 
chính xác trong chẩn đoán bệnh vàng lá greening. Cả hai cặp mồi đều cho kết 
quả giám định như nhau (hình 3.12A và B) trên hai cặp mồi khác nhau trong 
việc kết luận tác nhân gây bệnh. Kết quả sau điện di từ cặp mồi của Hung et al. 
(1999a)[91], sản phẩm thu nhận được bệnh nặng, nhẹ khác nhau qua phản 
ứng PCR (hình 3.12C) cũng như các triệu chứng quan sát bằng mắt thường. 
82 
3.2.3. Khả năng lan truyền bệnh vàng lá greening trên cây ăn quả có múi 
Từ kết quả điều tra và đánh giá hiện trạng bệnh vàng lá greening trên 
địa địa bàn nghiên cứu, năm 2011 tiến hành thí nghiệm đánh giá sự lan truyền 
của bệnh qua các phương thức khác nhau. Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh 
giá sự lan truyền bệnh qua hạt giống, nhân giống vô tính, mắt ghép và môi 
giới. Nghiên cứu này tập trung trả lời các vấn đề trong sản xuất đang yêu cầu. 
3.2.3.1. Nghiên cứu sự lan truyền bệnh vàng lá greeing qua hạt giống 
Ngày nay giống cây ăn quả có múi chủ yếu được sản xuất theo phương 
pháp ghép. Hạt cây gốc ghép được sử dụng từ cây dại (cây chấp, bưởi chua) 
nên không được phòng trừ môi giới và cũng không được trồng từ cây sạch 
bệnh. Cây được sử dụng để lấy hạt làm gốc ghép đã bị nhiễm bệnh ở mức độ 
ngày càng cao. 
Năm 2011, đã tiến hành sử dụng nguồn hạt từ quả bị bệnh để đánh giá 
sự lan truyền bệnh qua hạt giống. Các hạt giống thu được từ quả trên cây bị 
bệnh được tiến hành gieo để xác định khả năng mọc mầm của hạt và sự lan 
truyền bệnh qua hạt giống. Thí nghiệm nhằm đưa ra cơ sở khoa học trong việc 
sử dụng nguồn hạt giống làm gốc ghép hiện có trong sản xuất. 
Kết quả bảng 3.11 cho thấy, số hạt chắc thu từ quả bị bệnh và quả sạch 
bệnh cho tỷ lệ nảy mầm đạt 100%. Sau 3 tháng, hạt bưởi chua ở công thức thí 
nghiệm và công thức đối chứng cho tỷ lệ cây phát triển tương đương nhau 
(97,63 và 98,67%). 
Tương tự, hạt chấp sau 3 tháng số cây phát triển chỉ đạt 66,67% - 
69,33%. Tất cả các cây ở bốn công thức được duy trì chăm sóc và theo dõi để 
đánh giá khả năng lan truyền của bệnh qua hạt giống. Đồng thời tiến hành thu 
mẫu lá để phân tích bằng PCR, 100% số mẫu thu được đều cho âm tính với 
bệnh VLG. Số liệu đã chứng minh được bệnh vàng lá greening không lan 
truyền qua hạt giống (hình 3.13 và 3.14) 
83 
Bảng 3.11. Khả năng lan truyền bệnh vàng lá greening qua hạt giống 
(nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, 2011) 
Công thức 
thí nghiệm 
Số hạt 
gieo 
Số hạt 
nảy mầm 
(%) 
Sức sinh trưởng của cây Kết quả 
phân 
tích 
PCR 
Sau 1 
tháng 
Tỷ lệ 
(%) 
Sau 3 
tháng 
Tỷ lệ 
(%) 
CT 1 75 100 75 100 74 98,67 - 
CT 2 75 100 64 85,33 50 66,67 - 
CT 3 75 100 75 100 73 97,33 - 
CT 4 75 100 66 88,0 52 69,33 - 
Ghi chú: CT1: Hạt bưởi chua từ cây bị bệnh greening; CT2: Hạt chấp 
từ cây bị bệnh greening; CT3: Đối chứng (Hạt bưởi chua từ cây sạch bệnh) 
và CT4: Đối chứng (Hạt chấp từ cây sạch bệnh). 
Kết quả này là cơ sở khoa học cho việc sản xuất cây giống sạch bệnh và 
được phép sử dụng hạt giống làm gốc ghép cho đến thời điểm hiện nay. Tuy 
nhiên, để hạn chế bệnh vàng lá greening và các bệnh vi rút khác, nguồn cây 
dại trồng lấy hạt giống làm gốc ghép cần được trồng tập trung và quản lý dịch 
bệnh tổng hợp. 
Hình 3.13. Xác định sự lan truyền bệnh qua hạt giống (hạt chấp) 
84 
Hình 3.14. Xác định sự lan truyền bệnh qua hạt giống (hạt bưởi chua) 
 Nguồn (hình 3.13 và 3.14): Lê Mai Nhất, 2011 
3.2.3.2. Nghiên cứu sự lan truyền bệnh vàng lá greening qua nhân giống 
vô tính 
Tác nhân gây bệnh vàng lá greening là vi khuẩn và gây hại trong mạch 
dẫn đồng thời tồn tại trên vật thể sống. Như vậy, bằng lý luận và dựa trên cơ 
sở khoa học cho thấy bệnh sẽ truyền qua nhân giống vô tính. Nếu lấy mắt 
ghép từ cây bị bệnh và ghép trên gốc ghép, mầm mọc từ mắt ghép cho kết quả 
100% cây bị bệnh. 
Trong năm 2011, đã tiến hành thí nghiệm lây bệnh nhân tạo trên một số 
chủng loại cây có múi chủ lực như bưởi (Citrus grandis), cam Canh (Citrus 
reticulata), cam Xã Đoài (Citrus sinensis) và các giống này được ghép trên 
gốc chấp. Ở mỗi giống thí nghiệm được tiến hành ghép hai mắt hoặc cuống lá, 
vỏ cây từ nguồn bệnh vào cây gốc ghép. Nguồn mắt ghép bệnh được thu thập 
từ giống bưởi Diễn, Hà Nội, sau đó quan sát đánh giá triệu chứng và phân tích 
kết quả bằng PCR. 
Kết quả lây nhiễm nhân tạo cho thấy sau ghép 45 ngày trên giống cam 
Xã Đoài đã biểu hiện triệu chứng khi chồi mọc với triệu chứng lá biến vàng 
đồng thời kết quả giám định bằng PCR cũng cho dương tính chiếm 75%, số 
cây biểu hiện triệu chứng trên giống cam Canh chiếm 41,67%, giống bưởi 
Diễn chưa xuất hiện triệu chứng. Sau lây bệnh 90 ngày triệu chứng bệnh đã 
xuất hiện 100% trên số cây được lây nhiễm ở giống cam Canh, cam Xã Đoài, 
85 
nhưng trên giống bưởi Diễn vẫn chưa xuất hiện triệu chứng (bảng 3.12). Điều 
đó cho thấy qua lây bệnh nhân tạo bằng mắt ghép thì độc tính của các mẫu 
bệnh thu thập được có sự khác nhau rõ rệt giữa các chủng loại cây ăn quả có 
múi. 
Bảng 3.12. Khả năng lan truyền bệnh vàng lá greening 
trên một số chủng loại cây ăn quả có múi bằng phương pháp ghép 
(Nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, 2011) 
Thời gian 
sau ghép 
lây bệnh 
Tỷ lệ cây biểu hiện triệu chứng 
bệnh trên các giống (%) 
Kết quả phân tích 
bằng PCR 
Bưởi 
diễn 
Cam Xã 
Đoài 
Cam 
Canh 
Bưởi 
diễn 
Cam Xã 
Đoài 
Cam 
Canh 
45 ngày 0 75,0 41,67 - + + 
90 ngày 0 100 100 - + + 
Ghi chú: -: Kết quả âm tính; +: Kết quả dương tính 
Bên cạnh bệnh vàng lá greening thì bệnh tristeza luôn là mối nguy hiểm 
trong sản xuất. Công trình nghiên cứu được đề cập đến sự lan truyền bệnh để 
đánh giá nguy cơ gây hại và lan truyền bệnh trong sản xuất. Kết quả này có 
tác động trực tiếp đến công tác phòng chống bệnh trên cây ăn quả có múi. 
Kết quả nêu ở bảng 3.13 cho thấy sự lan truyền trong mạch dẫn đối với 
vi rút là rất nhanh, chỉ sau 1 tháng ghép nguồn bệnh vào cây gốc ghép, đồng 
thời ghép mắt sạch bệnh trên cùng cây đó bệnh đã xuất hiện và kết quả rất rõ 
ràng khi phân tích mẫu bằng ‘‘strip“. Bệnh tristeza có khả năng lan truyền rất 
nhanh trong cây ăn quả có múi. 
Để phát triển bền vững cây ăn quả có múi thì bệnh do vi rút gây ra cần 
được quan tâm và có giải pháp phù hợp đồng thời phải kết hợp với các giải 
pháp trong phòng chống bệnh vàng lá greening. Bệnh tristeza rất dễ lan truyền 
qua con đường ghép mắt, khi mầm mắt ghép mọc được 5cm kiểm tra bệnh 
bằng phương pháp thử nhanh đã cho kết quả dương tính với bệnh. 
86 
Bảng 3.13. Khả năng lan truyền bệnh tristeza qua mắt ghép 
(Nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, 2011) 
Thời gian 
sau ghép 
Kết quả giám định sự xuất hiện bệnh tristeza trên các giống 
Bưởi Diễn Cam Xã Đoài Cam Canh Quất 
30 ngày - + + + 
45 ngày + + + + 
Ghi chú: -: Kết quả âm tính; +: Kết quả dương tính 
Bệnh tristeza đều xuất hiện đồng trên cả bốn chủng loại cây giống thí 
nghiệm (bưởi Diễn, cam Xã Đoài, cam Canh và quất). Trong đó chỉ có giống 
bưởi do mầm mắt ghép mọc chậm nên đến 45 ngày mới thu được mẫu để 
giám định, kết quả đã dương tính với bệnh tristeza (hình 3.15). 
Hình 3.15: Lây nhiễm nhân tạo bệnh tristeza và chẩn đoán bệnh 
(A) Cây sau lây bệnh nhân tạo với nguồn bệnh tristeza; (B) Kết quả giám định bệnh 
Nguồn: Lê Mai Nhất, 2011 
3.2.3.3. Nghiên cứu sự lan truyền bệnh vàng lá greening qua rầy chổng cánh 
Diaphorina citri Kuwayama 
Từ kết quả nghiên cứu về sự lan truyền qua hạt giống và nhân giống 
vô tính, trong năm 2011, đề tài được tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của mật 
độ rầy chổng cánh, thời gian nhiễm trên giống cam Canh, cam Xã Đoài, và 
bưởi Diễn trong vụ hè - là thời gian phù hợp cho rầy chổng cánh phát sinh. 
A B 
87 
Qua đánh giá bằng triệu chứng bệnh kết hợp phân tích PCR, kết quả 
(bảng 3.14) cho thấy ở mật độ 1 và 3 rầy chổng cánh sau 9 tháng triệu chứng 
bệnh chưa biểu hiện trên cả 3 giống thí nghiệm. Với mật độ 6 rầy chổng cánh 
sau 9 tháng lây nhiễm đã ghi nhận được sự lan truyền bệnh qua môi giới trên 
giống cam Canh và Xã Đoài chiếm 8,33%, trên giống bưởi Diễn tiếp tục 
không ghi nhận được triệu chứng. 
Tuy nhiên với mật độ 9 rầy chổng cánh/cây đã ghi nhận được sự truyền 
bệnh bằng môi giới sau 6 tháng lây nhiễm trên giống cam Xã Đoài. Đến 9 
tháng sau lây nhiễm thì với giống cam Canh và cam Xã Đoài số cây bị bệnh 
chiếm tới 16,67%, còn trên giống bưởi Diễn bệnh chưa biểu hiện triệu chứng 
rõ ràng kể cả kiểm tra bệnh bằng PCR (bảng 3.14). 
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của mật độ rầy chổng cánh đến khả năng lan 
truyền bệnh vàng lá greening 
(Nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, tháng 4/2011) 
Giống thí 
nghiệm 
Mật độ rầy chổng cánh và kết quả phân tích bằng PCR 
1 RCC/cây 3 RCC/cây 6 RCC/cây 9 RCC/cây 
Sau 6 
tháng 
Sau 9 
tháng 
Sau 6 
tháng 
Sau 9 
tháng 
Sau 6 
tháng 
Sau 9 
tháng 
Sau 6 
tháng 
Sau 9 
tháng 
Cam Canh - - - - - 8,33 - 16,67 
Cam Xã Đoài - - - - - 8,33 8,33 16,67 
Bưởi Diễn - - - - - - - ± 
Đối chứng - - - - 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_benh_vang_la_greening_hai_cay_an_qua_co_m.pdf
  • pdfTom tat luan an TS Le Mai Nhat Tieng Anh.pdf
  • pdfTom tat luan an TS Le Mai Nhat Tieng Viet.pdf
  • pdfTrang thong tin luan an Le Mai Nhat.pdf