Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hại cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống

đoạn từ 4-7 tuổi, triệu chứng bệnh vàng lá greening biểu hiện rất rõ ràng, nên quan sát triệu chứng bằng mắt thường và sử dụng PCR không sai khác nhiều. Cây ở vườn kiến thiết cơ bản có sự sai lệch nhiều giữa điều tra bằng mắt thường và sử dụng kỹ thuật PCR. Cụ thể: Ở vườn cam Canh chẩn đoán bằng mắt thường tỷ lệ nhiễm bệnh vàng lá greening chỉ có 1,67%, bằng PCR tỷ lệ bệnh là 13,33; cam Xã Đoài là 1,79%, sử dụng PCR là 10% còn trên bưởi ở vườn kiến thiết cơ bản tỷ lệ chẩn đoán bệnh bằng PCR và mắt thường là như nhau (bảng 3.8). Vườn được thâm canh tốt thì triệu chứng của bệnh thường tiềm ẩn, tuy nhiên qua điều tra thực tế cho thấy, bưởi bị nhiễm bệnh nhẹ hơn giống cam Canh, cam Xã Đoài. Trong khi đó, tại Xuân Mai vườn cam Xã Đoài ở giai đoạn 6-7 năm tuổi đã bị nhiễm bệnh vàng lá greening trên 80% và phải chặt bỏ để trồng mới. Bảng 3.8. Kết quả giám định bệnh vàng lá greening trên một số chủng loại cây có múi chủ lực ở Hà Nội và Cao Phong – Hoà Bình (năm 2010) STT Tên giống Tuổi cây Kết quả quan sát triệu chứng bệnh bằng mắt thường (%) Số mẫu giám định bằng PCR Kết quả Mẫu dương tính Tỷ lệ (%) 1 Cam Canh 2-3 1,67 30 4 13,33 4-6 20,89 30 7 23,33 >7 36,63 30 9 30,00 2 Cam Xã Đoài 2-3 1,79 30 3 10,00 4-6 22,22 30 11 36,66 >7 14,41 30 10 33,33 3 Bưởi Diễn 2-3 1,57 30 1 3,33 4-8 4,26 30 5 16,67 >8 16,97 30 5 16,67 Ghi chú: Mỗi tuổi cây điều tra 10 vườn 75 Cùng với các mẫu điều tra và đã thu thập, đề tài đã ứng dụng công nghệ sinh học để giám định sự hiện diện bệnh do vi rút và viroid trên cây ăn quả. Kết quả bảng 3.9 đã xác định được sự hiện diện bệnh tristeza, tatter leaf và exocortis trong mẫu bệnh vàng lá greening. Kết quả giám định bệnh bằng sinh học phân tử cho thấy, bệnh tristeza đã xuất hiện ở tất cả các điểm thu thập mẫu, bệnh tatter leaf và bệnh exocortis lần đầu tiên ghi nhận được ở một số tỉnh thuộc phía Bắc Việt Nam. Tại Hà Nội, đã xác định được sự hiện diện của cả ba bệnh (tristeza, tatter leaf và exocortis) ở cây có múi. Trên thực tế, một số mẫu quan sát bằng mắt thường được cho là sạch bệnh nhưng kiểm tra bằng PCR đã cho kết quả dương tính. Như vậy, mối nguy cơ của bệnh luôn ở mức cao, các nhà sản xuất cây giống chưa quan tâm đến cây đầu dòng mà thường mặc định là cây sạch bệnh nếu cây chưa biểu hiện triệu chứng. Bảng 3.9. Sự phân bố của một số loài vi rút và viroid trên cây ăn quả có múi thu nhận ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam (Viện Bảo vệ thực vật, 2011) Địa điểm Chủng loại cây có múi Kết quả giám định bệnh Tristeza (Strip) Tatter leaf (RT-PCR) Exocortis (RT-PCR) Từ Liêm (Hà Nội) Cam Xã Đoài + - + Quất + - - Bưởi Diễn + - - Cam Canh + + - Bắc Quang (Hà Giang) Cam Sành + + - Nghệ An Cam Xã Đoài + - + Quýt PQ + - - Ghi chú: - : Chưa ghi nhận được; +: Ghi nhận được bệnh bằng phương pháp RT-PCR, Strip 76 Ở Nghệ An đã xác định được bệnh exocortis bằng RT-PCR và ghép trên cây chỉ thị (Etrog citron 861). Kết quả điều tra tại Vân Đồn, Quảng Ninh đã ghi nhận được bệnh vàng lá greening bị nhiễm rất nặng nhưng còn ít được quan tâm, 100% số mẫu thu thập đều cho kết quả dương tính với bệnh vàng lá greening. Bệnh tristeza bắt gặp ở mức độ thấp, bệnh tatter leaf và exocortis chưa ghi nhận được ở địa phương này trong số các mẫu thu thập. Vùng cam thâm canh ở Cao Phong, Hòa Bình, có mức độ bệnh vàng lá greening và tristeza gây hại nặng ở các mẫu thu thập được. Tỷ lệ từng loại bệnh cũng khác nhau trên vườn do nguồn gốc cây giống ban đầu cung cấp. Một số mẫu có triệu chứng điển hình với exocortis nhưng kết quả kiểm tra bằng RT-PCR cho âm tính, tương tự bệnh tatter leaf chưa ghi nhận được tại Cao Phong, Hòa Bình. Số lượng mẫu để xác định bệnh tatter leaf và exocortis chưa nhiều là do công đoạn giám định mẫu, những mẫu không bị bệnh vàng lá greening hoặc bị bệnh tristeza được loại bỏ và không tiến hành các bệnh tiếp theo. Hình 3.9 là kết quả phân tích bệnh tatter leaf, exocortis và tristeza từ mẫu thu thập ở các địa phương trong vùng điều tra. Hình 3.9. Kết quả giám định bệnh hại cây có múi bằng sinh học phân tử (A) Bệnh tatter leaf; (B) bệnh Exocortis; (C) bệnh tristeza (Nguồn: Lê Mai Nhất, 2011) RT – PCR (CTVL) RT – PCR (CEVd) A B C 77 3.1.7. Cải tiến phương pháp tách chiết thô DNA trong chẩn đoán bệnh vàng lá greening trên cây ăn quả có múi Giám định bệnh vàng lá greening bằng mắt thường hay sử dụng phương pháp chẩn đoán bằng I-ốt là rất khó trong việc xác định chính xác tác nhân gây bệnh. Sử dụng các biện pháp tách chiết DNA theo quy trình chung như dung dịch chiết (bao gồm Tris-HCl; EDTA, NaCl); hóa chất để tinh sạch DNA gồm các hóa chất (Sarkosyl, CTAB, chloroform, isoamyl alcohol và phenol) trong đó có nhiều hóa chất độc hại. Tách chiết và tinh sạch DNA theo Hung và cs., 1999a[91] là rất phù hợp với điều kiện nghiên cứu chuyên sâu, giải trình tự gen. Tuy nhiên, thời gian tách chiết DNA theo phương pháp nói trên thường mất nhiều thời gian, với số lượng 10 mẫu cùng các thao tác từ rửa lá cho đến khi thu được DNA phải tiêu tốn thời gian từ 5 - 6 giờ dẫn đến giá thành giám định mẫu đắt gấp nhiều lần, các yếu tố tạo nên giá thành cao đó là chi phí nhân công làm mẫu, điện nước, hóa chất, đặc biệt quan tâm là sử dụng nhiều hóa chất độc làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gây ô nhiễm môi trường. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn nói trên, đề tài đã tiến hành nghiên cứu cải tiến phương pháp tách chiết DNA bằng NaOH (bảng 3.10), phương pháp này được thực hiện tại Phòng thí nghiệm trường Đại học tổng hợp Đài Loan. Đồng thời đã được ứng dụng thử nghiệm thành công tại phòng thí nghiệm của Viện Bảo vệ thực vật. Sử dụng NaOH để tách chiết DNA đã tiết kiệm được thời gian từ 5 đến 6 giờ xuống còn từ 45 phút – 1 giờ, tùy thuộc vào tay nghề, kỹ thuật khi thực hiện. Đặc biệt hơn, việc thu được DNA chỉ phải sử dụng dụng NaOH và acetic a-xít, như vậy đã giảm được chi phí và nhân công cho các công đoạn tách chiết nhưng vẫn thu được DNA. Ở hai dạng tách chiết DNA đều sử dụng isopropanol trong bước cuối cùng để thu kết tủa và dung dịch TE được sử dụng để làm tan kết tủa và bảo quản DNA. 78 Bảng 3.10. Cải tiến phương pháp tách chiết thô DNA trong chẩn đoán bệnh vàng lá greening, (Phòng thí nghiệm trường Đại học tổng hợp Đài Loan, 11/2011) Mẫu bệnh thí nghiệm Nồng độ DNA thu được ở các phương pháp tách chiết DNA Dịch chiết thông thường (Hung et al. 1999) Nghiền trong Eppendorf bằng NaOH Nghiền bằng máy ép với NaOH Mẫu bệnh 1 +++ ++ + Mẫu bệnh 2 +++ ++ ++ Mẫu bệnh 3 ++++ ++ + Mẫu bệnh 4 ++++ +++ ++ Ghi chú: +: < 50 µg; ++: 50 ~ <110 µg; +++: 110 ~ < 170 µg; ++++: 170 ~ < 230 µg Kết quả thu được sau điện di (hình 3.10) cho thấy sử dụng NaOH trong tách chiết DNA để giám định bệnh vàng lá greening phục vụ công tác xác định bệnh, cấp chứng chỉ cây giống sạch bệnh là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Trả lời nhanh kết quả cho sản xuất cũng như công tác kiểm dịch hàng hóa ở cửa khẩu đối với bệnh vàng lá greening trên cây giống và sản phẩm quả tươi nhập vào Việt Nam là cần thiết. Từ khi nhận được mẫu tại phòng thí nghiệm cho đến công đoạn cuối cùng chỉ mất từ 4 – 5 giờ, nhưng nếu sử dụng quy trình chuẩn trong nghiên cứu sâu về gen cần khoảng thời gian từ 10 đến 12 giờ (1,5 ngày làm việc). Kỹ thuật này cần được ứng dụng trong chẩn đoán bệnh vàng lá greening để kiểm định cây giống trước khi xuất vườn cũng như xác định sớm sự lây lan của bệnh trên vườn do môi giới truyền bệnh. 79 Hình 3.10. Kết quả giám định bệnh vàng lá greening bằng các phương pháp tách chiết DNA M: Marker; I (1 – 4): tinh sạch AND bằng kít; II (1-4): nghiền trong eppendoft bằng dung dịch NaOH; III (1-4): nghiền bằng kỹ thuật ép với dung dịch NaOH. Nguồn: Lê Mai Nhất, Hong – Ji Su, Yachih Feng (2011) 3.2. Xác định tác nhân gây bệnh và sự lan truyền bệnh vàng lá greening 3.2.1. Xác định tác nhân gây bệnh vàng lá greening bằng hiển vi điện tử Trên thế giới đã sử dụng phương pháp bằng hiển vi điện tử để xác định tác nhân gây bệnh vàng lá greening; Kết quả đã xác định được tác nhân gây bệnh trên cây có múi do vi khuẩn và nhuộm gram âm, không nuôi cấy được trên môi trường nhân tạo. Bằng phương pháp thu mẫu bệnh thu thập tại các địa phương thuộc các tỉnh phía Bắc Việt Nam được lựa chọn và chuyển đến phòng hiển vi điện tử (Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương) nhằm xác định sự xâm nhập của tác nhân gây bệnh vào mạch dẫn. Bằng phương pháp cắt mẫu siêu mỏng và quan sát dưới kính hiển vi điện tử. Kết quả nêu trong hình 3.11 trình bày hình ảnh được chụp dưới kính hiển điện tử ở các chủng loại cây có múi gồm cam (độ 226 bp I (1 -4) II (1 -4) III (1 -4) 80 phóng đại 5000 lần), quýt (độ phóng đại 1500 lần), bưởi và chanh (độ phóng đại 1000 lần). Các hỉnh ảnh chụp được đều cho kết quả như nhau và cho thấy các mạch gỗ bị thoái hóa. Qua ảnh chụp đã phát hiện được sự xâm nhập của tác nhân gây bệnh đã làm cho mạch dẫn bị tích tụ tinh bột dẫn đến thoái hóa mạch dẫn, lục lạp trong lá bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hậu quả cây bị bệnh sẽ nhanh bị tàn lụi, cây bị suy thoái; cây không có khả năng quang hợp, hấp thu và không vận chuyển dinh dưỡng theo mạch dẫn để nuôi cây. Kết quả này phù hợp với công bố của các tác giả Tirtawidjaja et al. (1965)[143]; Garnier và Bové (1996)[62]; Su và cộng sự (2012)[138]. Hình 3.11. Xác định tác nhân gây bệnh VLG xâm nhập vào mạch dẫn bằng hiển vi điện tử (A) cam Xã Đoài; (B) cam Canh; (C) bưởi Diễn và (D) chanh Eureka lemon SG: Tích tụ tinh bột; CP: Lục lạp (Nguồn: Lê Mai Nhất và Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, 2013) CP SG SG CP SG SG SG SG A B C D 81 3.2.2. Xác định tác nhân gây bệnh vàng lá greening bằng sinh học phân tử Kế thừa các kết quả nghiên cứu trên thế giới về xác định tác nhân gây bệnh vàng lá greening bằng sinh học phân tử, trong nghiên cứu này ứng dụng các cặp mồi đặc hiệu để chẩn đoán bệnh phục vụ các nghiên cứu chuyên sâu về bệnh, xác định chính xác tác nhân gây bệnh. Đề tài đã sử dụng các cặp mồi khác nhau để giám định bệnh vàng lá greening, kết quả ứng dụng này nhằm đưa đến những kết luận chính xác về tác nhân gây bệnh. Với cây ăn quả có múi thì điều kiện để công nhận cây đầu dòng và cây giống sạch bệnh phải được thực hiện bằng phương pháp này (hình 3.12). A B C Hình 3.12. Kết quả giám định bệnh vàng lá greening với các cặp mồi khác nhau Cặp mồi 16S của Sandrine Jagoueix (1996) (A); cặp mồi A2J5 của A. Hocquellet (B) và cặp mồi của Hung et al. (1999) (C) (Nguồn: Lê Mai Nhất, 2010) Trong phản ứng PCR, với cặp mồi đặc hiệu để nhận biết tác nhân gây bệnh thì nhiệt độ gắn mồi là điểm nhiệt quan trọng. Nhiệt độ quá ngưỡng phù hợp dẫn đến khả năng sao chép không chính xác. Các cặp mồi trên được sử dụng với khoảng nhiệt gắn mồi ở 60°C, đây là nhiệt độ thích hợp nhất cho cặp mồi hoạt động. Kết quả phản ứng từ các cặp mồi đều cho kết quả giám định chính xác trong chẩn đoán bệnh vàng lá greening. Cả hai cặp mồi đều cho kết quả giám định như nhau (hình 3.12A và B) trên hai cặp mồi khác nhau trong việc kết luận tác nhân gây bệnh. Kết quả sau điện di từ cặp mồi của Hung et al. (1999a)[91], sản phẩm thu nhận được bệnh nặng, nhẹ khác nhau qua phản ứng PCR (hình 3.12C) cũng như các triệu chứng quan sát bằng mắt thường. 82 3.2.3. Khả năng lan truyền bệnh vàng lá greening trên cây ăn quả có múi Từ kết quả điều tra và đánh giá hiện trạng bệnh vàng lá greening trên địa địa bàn nghiên cứu, năm 2011 tiến hành thí nghiệm đánh giá sự lan truyền của bệnh qua các phương thức khác nhau. Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá sự lan truyền bệnh qua hạt giống, nhân giống vô tính, mắt ghép và môi giới. Nghiên cứu này tập trung trả lời các vấn đề trong sản xuất đang yêu cầu. 3.2.3.1. Nghiên cứu sự lan truyền bệnh vàng lá greeing qua hạt giống Ngày nay giống cây ăn quả có múi chủ yếu được sản xuất theo phương pháp ghép. Hạt cây gốc ghép được sử dụng từ cây dại (cây chấp, bưởi chua) nên không được phòng trừ môi giới và cũng không được trồng từ cây sạch bệnh. Cây được sử dụng để lấy hạt làm gốc ghép đã bị nhiễm bệnh ở mức độ ngày càng cao. Năm 2011, đã tiến hành sử dụng nguồn hạt từ quả bị bệnh để đánh giá sự lan truyền bệnh qua hạt giống. Các hạt giống thu được từ quả trên cây bị bệnh được tiến hành gieo để xác định khả năng mọc mầm của hạt và sự lan truyền bệnh qua hạt giống. Thí nghiệm nhằm đưa ra cơ sở khoa học trong việc sử dụng nguồn hạt giống làm gốc ghép hiện có trong sản xuất. Kết quả bảng 3.11 cho thấy, số hạt chắc thu từ quả bị bệnh và quả sạch bệnh cho tỷ lệ nảy mầm đạt 100%. Sau 3 tháng, hạt bưởi chua ở công thức thí nghiệm và công thức đối chứng cho tỷ lệ cây phát triển tương đương nhau (97,63 và 98,67%). Tương tự, hạt chấp sau 3 tháng số cây phát triển chỉ đạt 66,67% - 69,33%. Tất cả các cây ở bốn công thức được duy trì chăm sóc và theo dõi để đánh giá khả năng lan truyền của bệnh qua hạt giống. Đồng thời tiến hành thu mẫu lá để phân tích bằng PCR, 100% số mẫu thu được đều cho âm tính với bệnh VLG. Số liệu đã chứng minh được bệnh vàng lá greening không lan truyền qua hạt giống (hình 3.13 và 3.14) 83 Bảng 3.11. Khả năng lan truyền bệnh vàng lá greening qua hạt giống (nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, 2011) Công thức thí nghiệm Số hạt gieo Số hạt nảy mầm (%) Sức sinh trưởng của cây Kết quả phân tích PCR Sau 1 tháng Tỷ lệ (%) Sau 3 tháng Tỷ lệ (%) CT 1 75 100 75 100 74 98,67 - CT 2 75 100 64 85,33 50 66,67 - CT 3 75 100 75 100 73 97,33 - CT 4 75 100 66 88,0 52 69,33 - Ghi chú: CT1: Hạt bưởi chua từ cây bị bệnh greening; CT2: Hạt chấp từ cây bị bệnh greening; CT3: Đối chứng (Hạt bưởi chua từ cây sạch bệnh) và CT4: Đối chứng (Hạt chấp từ cây sạch bệnh). Kết quả này là cơ sở khoa học cho việc sản xuất cây giống sạch bệnh và được phép sử dụng hạt giống làm gốc ghép cho đến thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, để hạn chế bệnh vàng lá greening và các bệnh vi rút khác, nguồn cây dại trồng lấy hạt giống làm gốc ghép cần được trồng tập trung và quản lý dịch bệnh tổng hợp. Hình 3.13. Xác định sự lan truyền bệnh qua hạt giống (hạt chấp) 84 Hình 3.14. Xác định sự lan truyền bệnh qua hạt giống (hạt bưởi chua) Nguồn (hình 3.13 và 3.14): Lê Mai Nhất, 2011 3.2.3.2. Nghiên cứu sự lan truyền bệnh vàng lá greening qua nhân giống vô tính Tác nhân gây bệnh vàng lá greening là vi khuẩn và gây hại trong mạch dẫn đồng thời tồn tại trên vật thể sống. Như vậy, bằng lý luận và dựa trên cơ sở khoa học cho thấy bệnh sẽ truyền qua nhân giống vô tính. Nếu lấy mắt ghép từ cây bị bệnh và ghép trên gốc ghép, mầm mọc từ mắt ghép cho kết quả 100% cây bị bệnh. Trong năm 2011, đã tiến hành thí nghiệm lây bệnh nhân tạo trên một số chủng loại cây có múi chủ lực như bưởi (Citrus grandis), cam Canh (Citrus reticulata), cam Xã Đoài (Citrus sinensis) và các giống này được ghép trên gốc chấp. Ở mỗi giống thí nghiệm được tiến hành ghép hai mắt hoặc cuống lá, vỏ cây từ nguồn bệnh vào cây gốc ghép. Nguồn mắt ghép bệnh được thu thập từ giống bưởi Diễn, Hà Nội, sau đó quan sát đánh giá triệu chứng và phân tích kết quả bằng PCR. Kết quả lây nhiễm nhân tạo cho thấy sau ghép 45 ngày trên giống cam Xã Đoài đã biểu hiện triệu chứng khi chồi mọc với triệu chứng lá biến vàng đồng thời kết quả giám định bằng PCR cũng cho dương tính chiếm 75%, số cây biểu hiện triệu chứng trên giống cam Canh chiếm 41,67%, giống bưởi Diễn chưa xuất hiện triệu chứng. Sau lây bệnh 90 ngày triệu chứng bệnh đã xuất hiện 100% trên số cây được lây nhiễm ở giống cam Canh, cam Xã Đoài, 85 nhưng trên giống bưởi Diễn vẫn chưa xuất hiện triệu chứng (bảng 3.12). Điều đó cho thấy qua lây bệnh nhân tạo bằng mắt ghép thì độc tính của các mẫu bệnh thu thập được có sự khác nhau rõ rệt giữa các chủng loại cây ăn quả có múi. Bảng 3.12. Khả năng lan truyền bệnh vàng lá greening trên một số chủng loại cây ăn quả có múi bằng phương pháp ghép (Nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, 2011) Thời gian sau ghép lây bệnh Tỷ lệ cây biểu hiện triệu chứng bệnh trên các giống (%) Kết quả phân tích bằng PCR Bưởi diễn Cam Xã Đoài Cam Canh Bưởi diễn Cam Xã Đoài Cam Canh 45 ngày 0 75,0 41,67 - + + 90 ngày 0 100 100 - + + Ghi chú: -: Kết quả âm tính; +: Kết quả dương tính Bên cạnh bệnh vàng lá greening thì bệnh tristeza luôn là mối nguy hiểm trong sản xuất. Công trình nghiên cứu được đề cập đến sự lan truyền bệnh để đánh giá nguy cơ gây hại và lan truyền bệnh trong sản xuất. Kết quả này có tác động trực tiếp đến công tác phòng chống bệnh trên cây ăn quả có múi. Kết quả nêu ở bảng 3.13 cho thấy sự lan truyền trong mạch dẫn đối với vi rút là rất nhanh, chỉ sau 1 tháng ghép nguồn bệnh vào cây gốc ghép, đồng thời ghép mắt sạch bệnh trên cùng cây đó bệnh đã xuất hiện và kết quả rất rõ ràng khi phân tích mẫu bằng ‘‘strip“. Bệnh tristeza có khả năng lan truyền rất nhanh trong cây ăn quả có múi. Để phát triển bền vững cây ăn quả có múi thì bệnh do vi rút gây ra cần được quan tâm và có giải pháp phù hợp đồng thời phải kết hợp với các giải pháp trong phòng chống bệnh vàng lá greening. Bệnh tristeza rất dễ lan truyền qua con đường ghép mắt, khi mầm mắt ghép mọc được 5cm kiểm tra bệnh bằng phương pháp thử nhanh đã cho kết quả dương tính với bệnh. 86 Bảng 3.13. Khả năng lan truyền bệnh tristeza qua mắt ghép (Nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, 2011) Thời gian sau ghép Kết quả giám định sự xuất hiện bệnh tristeza trên các giống Bưởi Diễn Cam Xã Đoài Cam Canh Quất 30 ngày - + + + 45 ngày + + + + Ghi chú: -: Kết quả âm tính; +: Kết quả dương tính Bệnh tristeza đều xuất hiện đồng trên cả bốn chủng loại cây giống thí nghiệm (bưởi Diễn, cam Xã Đoài, cam Canh và quất). Trong đó chỉ có giống bưởi do mầm mắt ghép mọc chậm nên đến 45 ngày mới thu được mẫu để giám định, kết quả đã dương tính với bệnh tristeza (hình 3.15). Hình 3.15: Lây nhiễm nhân tạo bệnh tristeza và chẩn đoán bệnh (A) Cây sau lây bệnh nhân tạo với nguồn bệnh tristeza; (B) Kết quả giám định bệnh Nguồn: Lê Mai Nhất, 2011 3.2.3.3. Nghiên cứu sự lan truyền bệnh vàng lá greening qua rầy chổng cánh Diaphorina citri Kuwayama Từ kết quả nghiên cứu về sự lan truyền qua hạt giống và nhân giống vô tính, trong năm 2011, đề tài được tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ rầy chổng cánh, thời gian nhiễm trên giống cam Canh, cam Xã Đoài, và bưởi Diễn trong vụ hè - là thời gian phù hợp cho rầy chổng cánh phát sinh. A B 87 Qua đánh giá bằng triệu chứng bệnh kết hợp phân tích PCR, kết quả (bảng 3.14) cho thấy ở mật độ 1 và 3 rầy chổng cánh sau 9 tháng triệu chứng bệnh chưa biểu hiện trên cả 3 giống thí nghiệm. Với mật độ 6 rầy chổng cánh sau 9 tháng lây nhiễm đã ghi nhận được sự lan truyền bệnh qua môi giới trên giống cam Canh và Xã Đoài chiếm 8,33%, trên giống bưởi Diễn tiếp tục không ghi nhận được triệu chứng. Tuy nhiên với mật độ 9 rầy chổng cánh/cây đã ghi nhận được sự truyền bệnh bằng môi giới sau 6 tháng lây nhiễm trên giống cam Xã Đoài. Đến 9 tháng sau lây nhiễm thì với giống cam Canh và cam Xã Đoài số cây bị bệnh chiếm tới 16,67%, còn trên giống bưởi Diễn bệnh chưa biểu hiện triệu chứng rõ ràng kể cả kiểm tra bệnh bằng PCR (bảng 3.14). Bảng 3.14. Ảnh hưởng của mật độ rầy chổng cánh đến khả năng lan truyền bệnh vàng lá greening (Nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật, tháng 4/2011) Giống thí nghiệm Mật độ rầy chổng cánh và kết quả phân tích bằng PCR 1 RCC/cây 3 RCC/cây 6 RCC/cây 9 RCC/cây Sau 6 tháng Sau 9 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng Cam Canh - - - - - 8,33 - 16,67 Cam Xã Đoài - - - - - 8,33 8,33 16,67 Bưởi Diễn - - - - - - - ± Đối chứng - - - -
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_benh_vang_la_greening_hai_cay_an_qua_co_m.pdf
Tom tat luan an TS Le Mai Nhat Tieng Anh.pdf
Tom tat luan an TS Le Mai Nhat Tieng Viet.pdf
Trang thong tin luan an Le Mai Nhat.pdf