Luận án Nghiên cứu bệnh viêm ruột do Parvovirus trên chó tại một số tỉnh thành đồng bằng sông Cửu Long

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu bệnh viêm ruột do Parvovirus trên chó tại một số tỉnh thành đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu bệnh viêm ruột do Parvovirus trên chó tại một số tỉnh thành đồng bằng sông Cửu Long

bảng so màu Easy Test để xác định hiệu giá kháng thể của mẫu thí nghiệm. 2. Đọc điểm màu của hiệu giá kháng thể 3. Đọc kết quả với bảng đánh giá bảng so màu EasyTest: 59 Hình 3.15 Bảng so màu EasyTest đánh giá hiệu giá kháng thể 60 Bảng 3.10 Mối tương quan giữa kết quả trên Asan Easy Test ® CPV Ab kít với phản ứng ngưng kết hồng cầu (HI test) Hiệu giá ngưng kết hồng cầu Test nhanh xác định kháng thể CPV 1:20 + 1:40 + 1:80 ++ 1:160 +++ 1:320 +++ 1:640 +++ Ghi chú: +: Màu vạch T nhạt hơn màu vạch C (vị trí 1 và 2 ở bảng so màu) ++: Màu vạch T tương đương vạch với vạch C (vị trí 3 ở bảng so màu) +++: Màu vạch T đậm hơn màu vạch C (vị trí số 4 đến 6 ở bảng so màu) Chó có hiệu giá từ < 1:40: không đủ để bảo hộ Chó có hiệu giá từ 1:80: đủ để bảo hộ Chó có hiệu giá từ 1:160 – 1:640: độ bảo hộ cao Cách 2: Đưa que thử bằng Test kít Asan Easy Test CPV Ab có kết quả dương tính vào máy đọc kết quả ASAN EASY CHECK G-100V sẽ định lượng được kết quả hàm lượng kháng thể. Hướng dẫn sử dụng máy đọc kết quả ASAN EASY CHECK G-100V (Phụ lục 3). Hình 3.16 Máy đọc kết quả ASAN EASY CHECK G-100V 61 Hình 3.17 Đưa que thử dương tính với CPV-2 vào máy đọc kết quả Hình 3.18 Thể hiện kết quả Đơn vị dùng trong: CPV Ab là HI titer. HI titer là diễn tả hàm lượng kháng thể trong huyết thanh của mẫu ức chế hoàn toàn sự ngưng kết hồng cầu trong xét nghiệm ngăn trở ngưng kết hồng cầu (xét nghiệm HI). HI (hemagglutination inhibition): Sự ngăn trở ngưng kết hồng cầu HI được định nghĩa là pha loãng cuối cùng của huyết thanh có khả năng ức chế ngưng kết hoàn toàn sự ngưng kết hồng cầu. Titer là cách để diễn tả nồng độ (hàm lượng). Xét nghiệm titer sử dụng pha loãng hàng loạt để tìm được thông tin định lượng xấp xỉ từ một quy trình phân tích vốn đánh giá dương tính hoặc âm tính. Titer tương ứng với hệ số pha loãng cao nhất mà tại đó vẫn tạo ra kết quả dương tính. Thí dụ: Kết quả dương tính trong 8 lần pha loãng đầu tiên của pha loãng 2 lần được đọc thành titer của 1:256 (2^8). Titer thường biểu thị bằng mẫu số, chẳng hạn 1:256 được ghi là 256. Chỉ tiêu theo dõi So sánh khả năng bảo hộ của 3 loại vaccine phòng bệnh do CPV-2 trên chó đang lưu hành tại một số tỉnh thành ĐBSCL. So sánh khả năng bảo hộ của 3 loại vaccine phòng bệnh viêm ruột do CPV-2 theo nhóm chó giống nội và nhóm chó giống ngoại. 62 3.5 Phương pháp phân tích số liệu Số liệu thô được xử lý và tính toán trên phần mềm Microsoft Excel 2010 (để tính toán số liệu: Tổng, tỷ lệ phần trăm,...) số liệu tổng hợp báo cáo được xử lý bằng phép thử Chi bình phương (χ2) và ANOVA two-way anlysis of variance của chương trình thống kê Minitab 16.0. 63 Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1 Xác định tỷ lệ nhiễm bệnh viêm ruột do CPV-2 trên chó đến khám và điều trị tại một số phòng mạch Thú y của các tỉnh thành ĐBSCL 4.1.1 Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột Kết quả khảo sát từ 380 con chó có triệu chứng ói, tiêu chảy phân có lẫn máu đến khám và điều trị tại các Phòng mạch Thú y của thành phố Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang và Bến Tre. Xác định tỷ lệ nhiễm CPV-2 qua kít thử Canine Parvovirus Ag test (có thể xác định CPV-2 trong vòng 3 ngày sau khi bị nhiễm, không phát hiện CPV-2 có nguồn gốc từ tiêm phòng vaccine). Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh có dấu hiệu ói, tiêu chảy phân có lẫn máu qua kít Canine Parvovirus Ag test được trình bày qua Bảng 4.1. Bảng 4.1. Tỷ lệ chó bệnh viêm ruột do CPV-2 qua kít CPV Ag test Phòng mạch Số chó ói và tiêu chảy phân lẫn máu (con) (n=380) Số mẫu nhiễm CPV (con) (n=123) Tỷ lệ (%) TP. Cần Thơ 101 33 32,67 Đồng Tháp 90 30 33,33 Tiền Giang 97 31 31,96 Bến Tre 92 29 31,52 Trung bình 32,37 (P>0,05) Qua Bảng 4.1, cho thấy sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh có triệu chứng ói, tiêu chảy phân có lẫn máu tại 4 tỉnh thành của ĐBSCL là không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Sở dĩ không có sự khác biệt trên vì thực tế nghiên cứu đã ghi nhận cả bốn tỉnh thành có cùng chung vùng dịch tễ, người dân nuôi chó có chung tập quán và phương thức nuôi và luôn có sự trao đổi qua lại về con giống nên tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó tại bốn tỉnh thành của khu vực ĐBSCL là không khác nhau. Tỷ lệ nhiễm CPV-2 chung trên chó bệnh tiêu chảy phân có lẫn máu tại khu vực ĐBSCL là 32,37%. Kết quả nghiên cứu này thấp hơn các kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm CPV-2 trước đó trên chó có triệu chứng ói, tiêu chảy phân có lẫn máu của các tác giả như Chollom et al. (2013) báo cáo tại Nigeria là 40%; Csagola et al. (2014), đã báo cáo tại Hungary là 84%; Trần Ngọc Bích và ctv. (2013) đã báo cáo tại Cần Thơ là 45,10%, Dung Nguyen Van et al. (2017) đã báo cáo tại thành phố Hồ Chí Minh là 43,3%. Sở dĩ kết quả khảo sát của chúng tôi thấp hơn các tác giả nghiên cứu trước đó vì thực tế 64 hiện nay tại thành phố Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang và Bến Tre nhu cầu nuôi thú cưng của người dân ngày càng cao, chó là một trong những loại thú cưng được chọn nuôi do vậy việc chăm sóc nuôi dưỡng và phòng bệnh cho chó ngày càng được chu đáo hơn nên tỷ lệ bệnh thấp hơn. Một số hình (đại diện) trong quá trình thu thập mẫu: Hình 4.1 Tiêu chảy phân lẫn máu bết hậu môn Hình 4.2 Tiêu chảy phân lẫn máu đỏ tươi Bệnh có triệu chứng tiêu chảy ở chó là đa yếu tố, nhưng với tỷ lệ 32,37% chó bệnh có triệu chứng tiêu chảy phân có lẫn máu là do CPV-2 gây ra là khá cao (Hình 4.1 và 4.2). Điều này cho thấy CPV-2 là một trong những nguyên nhân gây bệnh quan trọng trong bệnh viêm ruột, tiêu chảy phân có lẫn máu trên đàn chó tại khu vực ĐBSCL. Bởi vì, những con chó nhà bị nhiễm bệnh có thể chưa biểu hiện lâm sàng nhưng chúng có thể thải virus trong phân cho đến giai đoạn cấp tính có biểu hiện viêm ruột sốt (Stann et al., 1984). Virus thải theo phân (hơn 109 hạt virus/gam phân) từ chó bị nhiễm bệnh trong giai đoạn cấp tính và phân đóng vai trò như là nguồn lây nhiễm chính (Carmichael et al., 1981). Khi được bài thải ra môi trường, CPV-2 có sức đề kháng cao. Virus sống trong phân một thời gian dài, đôi khi trong nhiều năm vẫn còn khả năng gây nhiễm (Houston et al., 1996; Castro et al., 2007; Gombac et al., 2008). Đồng thời, các chất tẩy rửa thông thường và các chất diệt khuẩn không làm bất hoạt CPV-2, virus có thể tồn tại trên 5 tháng trong quần áo, dụng cụ chăn nuôi (Dudley et al., 2006). Đó là những điều kiện để CPV-2 tồn tại và lây lan. Bệnh chủ yếu truyền lây qua đường tiêu hóa, lây truyền từ những con chó bệnh sang những con chó khỏe, hoặc chó bị nhiễm do tiếp xúc với virus hiện diện trên đồ vật như giày dép, quần áo, bàn tay con người, dụng cụ đựng thức ăn và các đồ dùng khác (Pollock, 1993; Carmichael, 1994; Decaro et al., 2005). 65 Như vậy, CPV-2 có thể xem là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra bệnh viêm ruột trên chó với triệu chứng phổ biến là tiêu chảy phân có lẫn máu (Huxtable et al.,1979; Robinson et al., 1979; Stann et al., 1984; Meunier et al., 1985; Baatz, 1992; Pollock et al., 1993; Sherding, 2000; Ramprabhu et al., 2002). 4.1.2 Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo lứa tuổi Kết quả khảo sát tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bị bệnh viêm ruột theo lứa tuổi (Bảng 4.2) cho thấy tỷ lệ chó nhiễm bệnh do CPV-2 gây ra tại khu vực ĐBSCL ở lứa tuổi từ 1 đến 3 tháng là cao nhất với tỷ lệ 49,65%. Chó ở lứa tuổi lớn hơn 3 đến 6 tháng tuổi tỷ lệ là 29,79%. Thấp nhất là chó lớn hơn 6 tháng tuổi với tỷ lệ nhiễm là 10,42%. Sự khác biệt này rất có ý nghĩa thống kê (P<0,001). Kết quả nghiên cứu này thấp hơn so với các kết quả nghiên cứu trước đó của Gurpreet Kaur et al. (2015), khi sử dụng kỹ thuật Nested polymerase chain reaction (NPCR) chẩn đoán bệnh CPV-2 đã báo cáo, tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó từ 0 đến 3 tháng tuổi là 60%; 3 đến 6 tháng tuổi là 30%; 6 đến 9 tháng tuổi là 4%; hơn 9 tháng tuổi là 6%. Gombac et al. (2008), đã nghiên cứu và báo cáo ở Slovenia, tỷ lệ trên chó bệnh do CPV-2 cao nhất là 67,6% được ghi nhận ở chó dưới sáu tháng tuổi, thấp nhất, 6,8% được ghi nhận ở chó lớn hơn một năm tuổi và từ sáu tháng đến một năm tuổi, 25,7% và sự khác biệt về tỷ lệ bệnh trên chó do nhiễm trùng CPV-2 giữa các nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê. Sở dĩ kết quả nghiên cứu này thấp hơn kết quả của những nghiên cứu trước đây có thể là do sự khác biệt về vùng miền dịch tễ, và ngày nay người chăn nuôi thú cưng từng bước đã biết cách cải thiện môi trường sống và nhu cầu dinh dưỡng của đàn chó theo hướng phù hợp với từng lứa tuổi đã giúp chúng ở từng giai đoạn tuổi, phát triển tốt mạnh khỏe và ít bệnh. Bảng 4.2. Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo lứa tuổi Lứa tuổi (tháng) Số mẫu quan sát (con) (n=380) Số mẫu dương tính với CPV-2 (con) (n=123) Tỷ lệ (%) 1 đến 3 143 71 49,65 >3 đến 6 141 42 29,79 >6 96 10 10,42 (P<0,001) Chó ở lứa tuổi 1 đến 3 tháng có tỷ lệ nhiễm bệnh viêm ruột do CPV-2 cao sau đó giảm dần theo tuổi được giải thích như sau: Về sinh bệnh học, theo McCandlish (1998), từ ngày thứ 4 và thứ 5 của quá trình sinh bệnh, tế bào đích của CPV-2 là tế bào biểu mô ruột đang phân chia nhanh. Trên chó trưởng thành, khỏe mạnh và chó dưới một tháng tuổi ít bệnh vì cả hai giai đoạn này, 66 sự nhân lên của tế bào biểu mô hốc chậm; đồng thời, chó con dưới một tháng tuổi kháng thể thụ động mẹ truyền còn cao, đối với chó trưởng thành bộ máy miễn dịch phát triển hoàn chỉnh, trong quá trình sống có tiếp xúc với CPV-2 nên có kháng thể chống lại CPV-2. Chó con ở giai đoạn trên 1 đến nhỏ hơn 6 tháng tuổi là mẫn cảm nhất vì lúc này kháng thể do mẹ truyền sang con qua sữa đầu đã bắt đầu giảm dần và kháng thể này sẽ được loại thải hết trong khoảng 6 đến 10 tuần tuổi, lúc này chó con trở nên dễ thụ cảm nhất với CPV-2 (Trần Thanh Phong, 1996). Đồng thời ở giai đoạn tuổi này, phổ biến chó con được cai sữa, có sự thay đổi khẩu phần ăn, cùng với sự phát triển nhanh của tế bào biểu mô ruột và sự thay đổi hệ vi sinh vật đường ruột là điều kiện thuận lợi để CPV-2 tấn công (McCandlish, 1998). CPV-2 vẫn coi là mối đe dọa nhất đối với chó con sau cai sữa đến sáu tháng tuổi (Decaro et al., 2008) Chó sau 6 tháng tuổi với tỷ lệ bệnh là 10,42%, thực tế nghiên cứu ghi nhận do nguyên nhân chó nuôi thả rong và chưa được tiêm phòng vaccine. Trước đây, Decaro et al., (2008) đã báo cáo các đợt bùng phát bệnh viêm ruột, tử vong do CPV-2 gây ra trên chó trưởng thành cũng đã được ghi nhận. Như vậy CPV-2 gây bệnh viêm ruột trên chó ở mọi lứa tuổi nhưng nghiêm trọng hơn ở chó con từ 1 đến 3 tháng tuổi (McCaw et al., 2006, Singh et al., 2013). 4.1.3 Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo giới tính Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo giới tính được trình bày qua Bảng 4.3. Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo giới tính Giới tính Số mẫu quan sát (n=380) Số mẫu dương tính với CPV-2 (n=123) Tỷ lệ (%) Đực 199 66 33,17 Cái 181 57 31,49 (P>0,05) Qua Bảng 4.3, cho thấy sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo giới tính tại khu vực ĐBSCL là không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Kết quả nghiên cứu này thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây của Trần Ngọc Bích và ctv. (2013), đã báo cáo tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó đực là 45,8%, chó cái là 44,3%. Dung Nguyen Van et al. (2017) tại thành phố Hồ Chí Minh đã báo cáo tỷ lệ chó đực bị bệnh do CPV-2 là 96,2%, chó cái là 67 91,1%. Từ các kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra rằng CPV-2 phổ biến là nhiễm trên chó đực cao hơn chó cái, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Srinivas et al., 2013). Điều này có thể giải thích dựa vào các nghiên cứu về dịch tễ và ký chủ chính của CPV-2 thì cả chó đực và chó cái mẫn cảm đối với CPV-2 là như nhau (Gombac et al., 2008). Như vậy, CPV-2 gây viêm ruột trên chó không phụ thuộc giới tính (Castro et al., 2007; Trần Ngọc Bích và ctv., 2013; Saasa et al., 2016). 4.1.4 Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo giống Trong quá trình thực hiện nhóm nghiên cứu, ghi nhận được nhiều giống chó khác nhau, nhưng do có hạn chế về điều kiện xác định giống chó nên chỉ phân loại thành 2 nhóm giống: Chó giống nội và chó giống ngoại (bao gồm cả chó ngoại thuần và ngoại lai). Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo giống được trình bày qua Bảng 4.4. Bảng 4.4. Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo giống Giống Số mẫu quan sát (n=380) Số mẫu dương tính với CPV-2 (n=123) Tỷ lệ (%) Chó giống nội 191 63 32,98 Chó giống ngoại 189 59 31,22 (P>0,05) Qua Bảng 4.4, cho thấy tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột tại khu vực ĐBSCL theo giống chó nội là 32,98%, giống chó ngoại là 31,22%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Giống chó thuần phổ biến ở bản địa có tỷ lệ nhiễm CPV-2 cao hơn các giống chó nhập. Ở Ấn Độ giống chó bản địa Pomeranian có lịch sử nhiễm bệnh CPV-2 cao hơn các giống chó ngoại nhập khác nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Kumar et al., 2011 và Singh et al., 2013). Nhận định này phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước đây về tình hình nhiễm CPV-2 trên chó theo nhóm giống như kết quả nghiên cứu của Castro et al. (2007); Gombac et al. (2008); Trần Ngọc Bích và ctv. (2013), các tác giả này đã báo cáo tỷ lệ chó nhiễm bệnh do CPV-2, ở chó giống nội và chó giống ngoại là tương đương nhau. Thực tế ghi nhận các chó giống nội có giá trị thấp, dễ nuôi nên người dân ở khu vực ngoại ô, có tập quán mỗi hộ gia đình nuôi một vài con để giữ nhà, giữ vườn. Chó giống nội là giống chó bản xứ, thích nghi với điều kiện môi trường sống một cách mạnh mẽ hơn chó giống ngoại. Nhưng chúng có tỷ lệ nhiễm CPV-2 tương đương với nhóm chó giống ngoại là do chúng chưa được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, chưa được tiêm phòng đầy đủ; 68 cùng với phương thức nuôi thả rong, nên dễ có điều kiện tiếp xúc với mầm bệnh. Ngược lại, chó giống ngoại với giá trị cao, đòi hỏi điều kiện nuôi tốt; và thực tế khảo sát ghi nhận các nhóm chó giống ngoại đa phần là được nuôi bởi những gia đình khá giả ở tập trung khu vực trung tâm và các xã ven của các tỉnh thành, nuôi với mục đích kinh doanh, làm cảnh, làm bạn, nên vấn đề sức khỏe của chúng rất được quan tâm (phương thức nuôi nhốt, dinh dưỡng tốt và tiêm phòng đầy đủ). Thêm vào đó, các chó giống ngoại đã được nuôi ở nước ta trong thời gian dài, qua nhiều đời, thích nghi hầu như hoàn toàn với điều kiện sống ở nước ta, vì thế nên sức đề kháng đối với CPV-2 giữa chó giống nội và chó giống ngoại là như nhau. Như vậy bệnh viêm ruột do CPV-2 trên chó không phụ thuộc về giống (Saasa et al., 2016; Nguyễn Văn Dũng và ctv., 2018). 4.1.5 Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo tiêm phòng Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo tiêm phòng được trình bày qua Bảng 4.5. Bảng 4.5. Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột theo tiêm phòng Tiêm phòng Số mẫu quan sát ( n=380) Số mẫu dương tính với CPV-2 (n=123) Tỷ lệ (%) Chưa tiêm phòng 281 109 38,79 Có tiêm phòng 99 14 14,14 (P<0,001) Qua Bảng 4.5, cho thấy qua nghiên cứu trên 281 con chó có triệu chứng ói, tiêu chảy phân có lẫn máu chưa tiêm vaccine phòng bệnh do CPV-2, có 109 con kết quả dương tính với CPV-2, chiếm tỷ lệ 38,79%; 99 con đã tiêm vaccine phòng bệnh do CPV-2, có 14 con có kết quả dương tính với CPV-2, chiếm tỷ lệ 14,14%. Sự khác biệt tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó chưa qua tiêm phòng và đã qua tiêm phòng vaccine phòng bệnh CPV-2, rất có ý nghĩa thống kê (P <0,001). Kết quả nghiên cứu này thấp hơn các kết quả nghiên cứu trước của Gurpreet Kaur et al. (2015), đã sử dụng kỹ thuật differential PCR chẩn đoán bệnh CPV-2 trên chó và đã báo cáo, tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó chưa qua tiêm vaccine phòng bệnh do CPV-2 là 67,30%; Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó đã qua tiêm phòng là 32,69%. Kết quả của Lê Thị Thu Thủy (2011) nghiên cứu tình hình bệnh do CPV-2 trên chó tại Chi cục Thú y Đồng Tháp và báo cáo tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó chưa tiêm vaccine phòng bệnh do CPV-2 là 40,23%, Tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó đã qua tiêm vaccine phòng bệnh do CPV-2 là 17,24%. Thực tế cho thấy để quá trình nhiễm trùng xảy ra đòi hỏi 69 phải có mầm bệnh còn khả năng gây bệnh, môi trường đảm bảo cho mầm bệnh sống, phát triển và có cơ thể cảm thụ nhưng thực tế nghiên cứu này đã ghi nhận môi trường nuôi ngày càng được cải thiện theo hướng bất lợi cho sự sống của mầm bệnh, kháng thể thụ động tự nhiên của cơ thể cảm thụ ngày được nâng lên (do chăm sóc nuôi dưỡng tốt) do vậy trên chó đã tiêm phòng hay chưa tiêm phòng đều có tỷ lệ nhiễm CPV-2 thấp hơn các nghiên cứu trước. Trên chó đã qua tiêm phòng vaccine phòng bệnh CPV-2, nhưng vẫn nhiễm bệnh do CPV-2 với tỷ lệ là 14,14% được lý giải như sau: Việc chó đã được tiêm phòng vaccine phòng bệnh do CPV-2 nhưng vẫn nhiễm bệnh do CPV-2 gây ra là nhiều nguyên nhân. Trong đó có nguyên nhân: Do cơ thể chó không đáp ứng miễn dịch đối với vaccine (dung nạp miễn dịch, hoặc hệ thống miễn dịch bất triển) Hoặc thời điểm tiêm vaccine không phù hợp, tiêm lúc kháng thể thụ động mẹ truyền còn cao gây trung hòa kháng thể. Theo Cramer et al. (2010) tiến hành tiêm phòng trên 121 chó con tại các thời điểm 4, 6, 9 và 12 tuần. Kết quả cho thấy chó được tiêm phòng tại thời điểm 4 tuần tuổi có hàm lượng đáp ứng kháng thể thấp, do kháng thể từ mẹ truyền sang con còn cao. Hoặc do chủ nuôi không tuân thủ theo lịch tiêm vaccine, tiêm không đủ liều. Theo Craig et al. (2006), kháng thể thụ động truyền qua nhau thai và sữa đầu có tác dụng bảo vệ cho chó con sau sinh và cai sữa. Kháng thể bị động thường biến mất sau 12-14 tuần tuổi. Đối với chó được bú sữa đầu, tiêm vaccine vào thời điểm 6-16 tuần tuổi và lặp lại sau 3-4 tuần tuổi. Hoặc thực tế nghiên cứu ghi nhận, chó nuôi thả rong, điều kiện nuôi bất lợi, cho ăn không đủ chủ yếu là ăn thức ăn thừa của người, dinh dưỡng không đủ, nên cơ thể không đủ dưỡng chất tạo kháng thể. Như vậy với sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm CPV-2 trên chó bệnh viêm ruột chưa qua tiêm phòng và chó đã qua tiêm phòng vaccine phòng bệnh do CPV- 2, cho thấy ngoài điều kiện chăm sóc và chế độ dinh dưỡng thì phương pháp chính để kiểm soát và phòng ngừa nhiễm trùng do CPV-2 trên chó là tiêm chủng vaccine (Craig, 2006). 4.1.6 Tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng điển hình trên chó bệnh viêm ruột do CPV-2 Kết quả khảo sát tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng điển hình trên chó mắc bệnh viêm ruột do CPV-2 được trình bày qua Bảng 4.6. 70 Bảng 4.6.Tần suất xuất hiện triệu chứng lâm sàng điển hình trên chó mắc bệnh viêm ruột do CPV-2 (n= 123) Triệu chứng Số con quan sát (con) Tần suất (%) Bỏ ăn lừ đừ 123 100 Bỏ ăn 123 100 Tiêu chảy 123 100 Tiêu chảy phân có dịch nhầy 123 100 Tiêu chảy phân có lẫn máu 123 100 Phân tanh hôi 123 100 Ói 112 91,06 Dịch ói nhầy nhớt 112 91,06 Sốt 33 26,83 Dịch ói có lẫn máu 6 4,88 Kết quả từ Bảng 4.6 cho thấy, triệu chứng chung của bệnh là bỏ ăn, lừ đừ luôn xảy ra (100%), song với các triệu chứng chung chó bệnh còn có các triệu chứng riêng như tiêu chảy, tiêu chảy phân có lẫn máu, lẫn nhầy, phân tanh hôi, có tần suất xuất hiện 100% và ói là 91,06%. Điều này chứng tỏ những dấu hiệu điển hình của bệnh viêm ruột do CPV-2 gây ra ở chó là tiêu chảy, tiêu chảy phân có lẫn nhầy, máu và ói và kèm theo triệu chứng chung là bỏ ăn, lừ đừ. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu của Stann et al. (1984) các dấu hiệu lâm sàng quan trọng hơn ở chó viêm ruột do Parvovirus bao gồm tiêu chảy ra máu, chán ăn. Meunier et al. (1985), trong một nghiên cứu thực nghiệm, đã gây bệnh 22 con Chó Beagle, 9 tuần tuổi, có huyết thanh học âm tính với CPV-2. Thực nghiệm, gây nhiễm bằng đường uống và tiêm tĩnh mạch với CPV-2 và quan sát thấy rằng khoảng 30% số con chó có dấu hiệu lâm sàng, như sốt, suy nhược, nôn mửa và tiêu chảy. Pollock et al. (19
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_benh_viem_ruot_do_parvovirus_tren_cho_tai.pdf
Thong tin LA Tieng Anh (1).doc
Thong tin LA Tieng Viet (1).doc
Tom tat LA Tieng Anh (1).pdf
Tom tat LA Tieng Viet (1).pdf