Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 185 trang nguyenduy 02/10/2025 110
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn

Luận án Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm và hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn
mức 1% (Bảng 4.6). Trường hợp không tưới mặn, bông lúa đạt được số hạt chắc bằng 64,2 hạt/bông và cao hơn so với nghiệm thức có tưới mặn. Tưới mặn ở giai đoạn 45-60 NSKS duy trì được số hạt chắc ở mức khá bằng 49,7 hạt/bông. Hơn nữa, các giống lúa đạt được số hạt dao động từ 36 đến 59 hạt/bông và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Trong đó, giống lúa Pokkali thu được số hạt chắc ở mức cao bằng 58,6 hạt/bông và nhiều hơn so với các giống khác. Trái lại, giống lúa IR 28 có số hạt chắc thấp hơn so với các giống khác từ 4-23 hạt/bông. Ngoài ra, số hạt chắc/bông cũng bị ảnh hưởng bởi sự tác động giữa giống lúa và giai đoạn tưới mặn khác nhau. Số hạt chắc giảm nhiều khi độ mặn gia tăng và quan trọng hơn khi tưới nhiều lần trong 1 vụ lúa. Cây lúa bị nhiễm mặn vào lúc trổ bông dẫn đến làm tăng số hạt lép/bông. Điều này cũng phù hợp với kết quả của Zaibunnisa et al. (2002), số hạt chắc/bông bị giảm đáng kể ở nồng độ 5‰. 
4.1.3.3. Tỷ lệ hạt chắc
Các giai đoạn tưới mặn khác nhau có ảnh hưởng đến tỷ lệ hạt chắc/bông. Tỷ lệ hạt chắc dao động từ 49,2-67,3% và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (Bảng 4.6) giữa các cách xử lý mặn. Trường hợp không tưới mặn thì tỷ lệ hạt chắc đạt được bằng 67,3% và cao hơn so với các nghiệm thức còn lại. Tiếp theo tưới mặn ở giai đoạn 45-60 NSKS đạt được tỷ lệ hạt chắc ở mức khá 58,4%. Bên cạnh cách xử lý mặn thì giống lúa cũng nhận được tỷ lệ hạt chắc khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Trong đó, giống lúa Pokkali có khả năng duy trì tỷ lệ hạt chắc tốt nhất bằng 64,0% và cao hơn nhiều so với các giống khác. Tiếp đến là giống lúa OM 5451 có tỷ lệ hạt chắc ở mức khá với 59,2%. Ngoài ra, tương tác giữa giống lúa và các giai đoạn tưới mặn khác nhau cũng làm ảnh hưởng đến tỷ lệ hạt chắc/bông. Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của Akbar et al. (1972). Tác giả cho rằng việc giảm 50% hạt chắc xảy ra ở nồng độ 4‰. 
4.1.3.4 Trọng lượng 1.000 hạt
Trọng lượng 1.000 hạt thay đổi có ý nghĩa dưới ảnh hưởng của cách xử lý mặn và giống lúa. Trọng lượng 1.000 hạt dao động từ 16,5-21,9 g và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (Bảng 4.6). Trường hợp không tưới mặn hoặc tưới ở giai đoạn 45-60 NSKS đạt được trọng lượng 1.000 hạt cao hơn các nghiệm thức khác. Hai nghiệm thức này có trọng lượng hạt bằng 21,9 g và 19,9 g tương ứng. Trọng lượng 1.000 hạt giảm xuống khi tưới mặn cho lúa liên tục vào 2 giai đoạn sinh trưởng khác nhau. 
Khả năng chịu mặn của giống lúa khác nhau có ảnh hưởng rất lớn đến trọng lượng 1.000 hạt. Các giống lúa đạt được trọng lượng 1.000 hạt dao động từ 16,6 đến 21,0 g và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (Bảng 4.6). Trong đó, giống lúa Pokkali có trọng lượng 1.000 hạt cao nhất bằng 21,0 g và cao hơn so với các giống khác. Tiếp theo, giống lúa OM 5451 đạt được trọng lượng 1.000 hạt bằng 20,9 g, cao hơn so với giống lúa IR 28 và IR 50404. Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của Khatun and Flowers (1995a). Trọng lượng hạt giảm là do mặn hạn chế tốc độ quang hợp dẫn đến giảm hàm lượng đường cung cấp cho hạt. Trọng lượng 1.000 hạt thấp là do sự tích lũy của carbohydrate và các chất khác thấp hơn (Hasamuzzaman, et al., 2009). Ngoài ra, sự tương tác giữa cách xử lý mặn và giống lúa cũng làm thay đổi trọng lượng hạt.
4.1.3.5 Khối lượng hạt trên chậu
Cung cấp nước mặn cho lúa khi thiếu nước tưới có ảnh hưởng rất quan trọng đối với năng suất hạt trên chậu. Sự mất mát năng suất có liên quan rất lớn đến giống lúa và giai đoạn nhiễm mặn. Các giai đoạn tưới mặn khác nhau làm cho khối lượng hạt/chậu dao động từ 7,72 đến 20 g/chậu và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (Bảng 4.6). Không tưới mặn hoặc tưới 1 lần ở giai đoạn 45-60 NSKS đạt được khối lượng hạt/chậu ở mức cao bằng 20 g/chậu và 11,3 g tương ứng. Ngược lại, tưới mặn 2 lần vào giai đoạn 10-20 và 45-60 NSKS dẫn đến khối lượng hạt/chậu thấp hơn so với các nghiệm thức khác từ 16,3-61,5%. Ngoài ra, tương tác giữa cách xử lý mặn và các giống lúa khác nhau có ảnh hưởng quan trọng đến năng suất ở mức ý nghĩa thống kê 1%.

Hình 4.3: Mối tương quan giữa khối lượng hạt/chậu và độ dẫn diện (ECe) trong đất
Kết quả Hình 4.3 cho thấy có mối tương quan nghịch giữa khối lượng hạt/chậu và độ dẫn diện (ECe) trong đất bằng phương trình hồi quy y = - 4,798x + 25,02; hệ số xác định R2 = 0,519 ở mức ý nghĩa 1%. Như vậy, khi tưới mặn cho lúa đã làm tăng độ dẫn điện trong đất gây ra giảm khối lượng hạt lúa/chậu. Khả năng chịu mặn của giống lúa có ảnh hưởng đến khối lượng hạt/chậu. Các giống lúa đạt được khối lượng hạt khác nhau và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Trong đó, giống lúa Pokkali và OM 5451 có trọng lượng hạt cao nhất bằng 14,7 g và 13,3. Hai giống này có khối lượng hạt cao hơn giống IR 28 từ 27,1 đến 34,0%. Tưới cho lúa với độ mặn 4‰ làm giảm rõ rệt đối với số bông, số hạt chắc/bông, trọng lượng 1.000 hạt,... mà đây là những thông số quan trọng đóng góp vào năng suất lúa. Hơn nữa, ion Na+ là nguyên nhân chủ yếu gây độc đối với cây lúa bởi vì Na+ hạn chế sự hấp thu nước dẫn đến giảm tốc độ quang hợp, cản trở quá trình đồng hóa vật chất trong cây. Khatun et al. (1995b) báo cáo rằng mặn làm giảm sức sống của hạt phấn và sự tạo hạt lúa. Sự thụ phấn thành công có liên quan rất nhiều đến năng suất hạt (Abdullah et al., 2001). Độ mặn của nước hoặc đất cao cũng là nguyên nhân làm cho hạt lúa bất thụ (Zeng et al., 2003).
4.1.4 Đánh giá khả năng chịu mặn của cây lúa
4.1.4.1 Quá trình tích lũy proline trong cây lúa bị sốc mặn
Hàm lượng proline khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1% giữa các lần quan sát. Hàm lượng proline có khác biệt giữa giai đoạn 20 NSKS so với 50 NSKS, giai đoạn 50 NSKS so với 65 NSKS. Trong đó, giai đoạn 45 NSKS có hàm lượng proline cao hơn so với 2 giai đoạn 20 và 65 NSKS.
Hàm lượng proline trung bình trong trường hợp tưới mặn 1 lần (10-20 NSKS) hoặc tưới 2 lần (10-20 và 45-60 NSKS) cao hơn có ý nghĩa so với các trường hợp tưới mặn 1 lần vào lúc 45-60 NSKS và đối chứng. Đối với giống lúa thì giống Pokkali và OM5451 có khả năng tổng hợp proline nhiều hơn so với giống IR28 và IR50404.
Ở giai đoạn 20 NSKS, các giống lúa có khả năng chịu mặn khác nhau đều có ảnh hưởng rất lớn đến nồng độ proline trong cây. Các giống lúa tổng hợp nồng độ proline khác nhau và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1% dưới điều kiện tưới mặn (Bảng 4.7). Trong đó, giống lúa Pokkali có khả năng sinh tổng hợp proline tốt nhất. Nồng độ proline bằng 4,83 μmol/g DW và cao hơn nhiều so với các giống khác. Trái lại, giống lúa IR 28 có nồng độ proline ở mức thấp và thấp hơn so với các giống Pokkali và OM 5451 từ 0,49-0,84 μmol/g DW. 
Tưới mặn ở các giai đoạn khác nhau cũng dẫn đến nồng độ proline dao động từ 3,56-5,08 μmol/g. Trường hợp không tưới mặn, cây lúa đạt được nồng độ proline bằng 3,56 μmol/g là thấp hơn so với các nghiệm thức có tưới mặn. Nghiệm thức tưới mặn giai đoạn 45 - 60 NSKS có nồng độ proline tương tự nghiệm thức đối chứng là do giai đoạn này chưa tưới mặn. Ngoài ra, nồng độ proline cũng bị sự tác động kết hợp giữa giống lúa và các giai đoạn tưới mặn khác nhau.
Bảng 4.7: Nồng độ proline (µmol/g DW) trong cây lúa vào giai đoạn 20, 50 và 65 ngày sau khi sạ
Nghiệm thức
Thời gian sinh trưởng (NSKS)
Trung bình
20 
50
65 
Giống lúa




Pokkali
4,83a
6,49b
1,66b
4,33a
IR 28
3,99c
4,87d
1,15d
3,34c
OM 5451
4,48b
6,84a 
1,93a
4,42a
IR 50404
4,06c
6, 15c
1,43c
3,88b
Giai đoạn tưới mặn




Không tưới mặn
3,56b
5,08c
0,857c
3,17b
10-20 NSKS
5,08a
6,20b
1,62b
4,30a
45-60 NSKS
3,74b
6,80a
2, 05a
4,20b
10-20 và 45-60 NSKS
4,98a
6,27b
1,65b
4,30a
F(Giống)
**
**
**
**
F(Tưới)
**
**
**
**
F(G x T)
**
**
**
**
CV (%)
7,0
 6,0
 11,0
4,0
Ghi chú: Các số trong cùng một cột có mẫu tự theo sau giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê khi dùng phép kiểm định Duncan, (**): khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. 
Ở giai đoạn 50 NSKS, các giống lúa có khả năng chịu mặn khác nhau đều có ảnh hưởng rất lớn đến nồng độ proline trong cây. Các giống lúa tổng hợp proline khác nhau và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (Bàng 4.7). Trong đó, giống lúa OM 5451 có khả năng sinh tổng hợp proline tốt nhất. Nồng độ proline bằng 6,84 μmol/g DW và cao hơn 1,97 μmol/g DW so với giống chuẩn nhiễm IR 28. Bên cạnh giống lúa thì giai đoạn tưới mặn khác nhau cũng có nhiều ảnh hưởng đến việc tổng hợp proline. Tưới mặn ở các giai đoạn khác nhau dẫn đến nồng độ proline dao động từ 5,08-6,80 μmol/g DW. Các nghiệm thức tưới mặn có sự tích lũy proline nhiều hơn so với nghiệm thức không tưới mặn. Ngoài ra, nồng độ proline cũng bị ảnh hưởng bởi sự tác động kết hợp giữa giống lúa và các thời điểm tưới mặn khác nhau.
Ở giai đoạn 65 NSKS, các giống lúa có khả năng chịu mặn khác nhau có ảnh hưởng rất lớn đến nồng độ proline trong cây. Các giống lúa tổng hợp proline khác nhau và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (Bảng 4.7). Trong đó, giống lúa OM 5451 có khả năng sinh tổng hợp proline tốt nhất. Nồng độ proline bằng 1,93 μmol/g DW và cao hơn nhiều so với các giống khác. Ngược lại, giống lúa IR 28 có nồng độ proline ở mức thấp và thấp hơn so với các giống khác từ 0,28 - 0,78 μmol/g DW. Tưới mặn ở các giai đoạn khác nhau cũng làm cho nồng độ proline dao động từ 0,857-2,05 μmol/g DW. Trường hợp không tưới mặn, cây lúa đạt được nồng độ proline bằng 0,857 μmol/g DW là thấp hơn so với có các nghiệm thức có tưới mặn. Ngoài ra, nồng độ proline cũng bị ảnh hưởng bởi sự tác động kết hợp giữa giống lúa và các thời điểm tưới mặn khác nhau. 
Qua kết quả phân tích nồng độ proline cho thấy, cây lúa sẽ tích lũy nồng độ proline cao trong điều kiện bị sốc mặn để điều chỉnh thẩm thấu, gia tăng khả năng hút nước của cây, hạn chế việc hấp thu và vận chuyển Na+, Cl- từ rễ tới thân cây, từ đó gia tăng khả năng chống chịu với điều kiện mặn. Nồng độ proline tích lũy nhiều ở lần tưới mặn đầu, sau đó giảm dần ở các lần tưới mặn tiếp theo (Wu et al., 2003). 
4.1.4.2 Sự hình thành suberin trong rễ lúa
Kết quả bước đầu tìm hiểu về sự tích lũy suberin bằng phương pháp nhuộm rễ lúa lúc 20 NSKS với Fluorol Yellow 088 ở nồng độ 0,1%. Các lát cắt ở vị trí 20 hoặc 30 mm cách chóp rễ cho thấy lớp suberin (lớp tế bào phát huỳnh quang có màu vàng) của nội bì và ngoại bì đều có xuất hiện ở tất cả các giống lúa trong môi trường tưới mặn (Hình 4.4 (1-16) và Hình 4.5 (1-16)). Trong điều kiện sốc mặn, suberin được hình thành nhiều hơn so với đối chứng. Hơn nữa, các giống lúa khác nhau cũng hình thành suberin trong rễ khác nhau thể hiện thông qua sự ăn màu và phát huỳnh quang của phiến suberin trong rễ.
Qua quan sát nội bì rễ cho thấy suberin được tích lũy trong điều kiện đối chứng ít hơn so với điều kiện sốc mặn ở khoảng cách 20 mm cách chóp rễ. Trong điều kiện mặn, các giống lúa Pokkali, OM 5451 và IR 50404 tích lũy suberin trong nội bì rễ nhiều hơn so với giống lúa IR 28 (chuẩn nhiễm). Nội bì rễ của các giống lúa này (Hình 4.4; 2, 10, 14) có một vùng màu vàng liền mạch và nhìn thấy rõ ràng hơn so với giống nhiễm IR 28 (Hình 4.4; 6). Ở khoảng cách 30 mm, nội bì rễ của giống lúa IR 28 (Hình 4.4; 8) có sự tích lũy suberin nhiều hơn và khác biệt không nhiều so với các giống Pokkali (Hình 4.4; 4), OM 5451 (Hình 4.4; 12) và IR 50404 (Hình 4.4; 16) qua quan sát dưới kính hiển vi huỳnh quang. Ở khoảng cách này, rễ của các giống lúa ăn màu và phát huỳnh quang được thể hiện rõ nét hơn, các tế bào phát sáng thành một dãy liên tục và nhiều hơn. Điều này là do rễ lúa trở nên già hơn và sự suberin hóa xảy ra nhiều hơn trong nội bì rễ. Vị trí quan sát càng xa chóp rễ thì cho thấy sự hình thành suberin càng nhiều.

Hình 4.4: Lớp suberin ở nội bì rễ phát huỳnh quang màu vàng xanh của các giống lúa vào giai đoạn 20 ngày sau khi sạ
Suberin ở nội bì (1 - 16); (1,2) Pokkali đo cách chóp rễ 20 mm (3, 4) Pokkali đo cách chóp rễ 30 mm, (5, 6) IR 28 đo cách chóp rễ 20 mm, (7, 8) IR 28 đo cách chóp rễ 30 mm, (9, 10) OM 5451 đo cách chóp rễ 20 mm, (11, 12) OM 5451 đo cách chóp rễ 30 mm, (13, 14) IR 50404 đo cách chóp rễ 20 mm, (15, 16) IR 50404 đo cách chóp rễ 30 mm. Đầu mũi tên dùng để chỉ phiến suberin (SL).
Khi quan sát phần vỏ của rễ cũng cho thấy có sự hình thành lớp suberin trong ngoại bì rễ (Hình 4.5). Màu vàng sáng được nhìn thấy ở hầu hết các giống lúa khi nhuộm màu các lát cắt của rễ tại khoảng cách 20 hoặc 30 mm tính từ chóp rễ. Suberin được tích lũy trong điều kiện đối chứng ít hơn so với điều kiện sốc mặn ở khoảng cách 20 mm cách chóp rễ. Trong điều kiện mặn, các giống lúa Pokkali, OM 5451 và IR 50404 tích lũy suberin trong ngoại bì rễ nhiều hơn so với giống lúa IR 28 (chuẩn nhiễm). Ngoại bì rễ của các giống lúa này (Hình 4.4; 2, 10, 14) có một vùng màu vàng liền mạch và nhìn thấy rõ hơn so với giống nhiễm mặn IR 28 (Hình 4.5; 6).

Hình 4.5: Lớp suberin ở ngoại bì rễ phát huỳnh quang màu vàng xanh của các giống lúa vào giai đoạn 20 ngày sau khi sạ
Suberin ở ngoại bì (1 - 16); (1,2) Pokkali đo cách chóp rễ 20 mm (3, 4) Pokkali đo cách chóp rễ 30 mm, (5, 6) IR 28 đo cách chóp rễ 20 mm, (7, 8) IR 28 đo cách chóp rễ 30 mm, (9, 10) OM 5451 đo cách chóp rễ 20 mm, (11, 12) OM 5451 đo cách chóp rễ 30 mm, (13, 14) IR 50404 đo cách chóp rễ 20 mm, (15, 16) IR 50404 đo cách chóp rễ 30 mm. Đầu mũi tên dùng để chỉ phiến suberin (SL).
Ở khoảng cách 30 mm, ngoại bì rễ của giống lúa IR 28 (Hình 4.5; 8) có sự ăn màu ít hơn so với các giống lúa Pokkali (Hình 4.5; 4), OM 5451 (Hình 4.5; 12) và IR 50404 (hình 4.5; 16) trong điều kiện sốc mặn. Sự hình thành suberin diễn ra sớm hơn ở các giống lúa kháng mặn chẳng hạn như Pokkali và chỉ nhìn thấy rõ ràng khi cắt rễ ở khoảng cách từ 20 mm cách chóp trở đi. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Ma and Peterson (2003), Krishnamurthy et al. (2009), Waßmann (2014).
Nếu proline là một chất gia tăng hàm lượng khi thực vật tiếp xúc với điều kiện bất lợi do yếu tố phi sinh học thì suberin là một bào quan đặc biệt hình thành khi thực vật tiếp xúc mặn. Suberin tăng dần theo mức độ mặn và khoảng cách xa chóp rễ (Krishnamurthy et al., 2009). Ngoài ra, sự hình thành suberin cũng dựa trên đặc tính giống lúa. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng cho thấy thời gian tưới mặn ảnh hưởng như thế nào đến sự hình thành suberin, chỉ biết trong nghiên cứu này rễ lúa được lấy phân tích vào giai đoạn 20 NSKS và đã trải qua 1 lần tưới mặn vào lúc (10-20 ngày sau khi sạ). Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Krishnamurthy et al. (2009), lấy rễ lúa khi được 1 tháng tuổi sau khi xử lí mặn được 1 tuần.
Suberin là một polymer sinh học gồm 2 loại: suberin béo (aliphatic suberin) và suberin thơm (aromatic suberin) (Kolattukudy, 1984). Có khá nhiều nghiên cứu ghi nhận vai trò của suberin trong những phản ứng với sốc mặn (Perumulla and Peterson, 1986; Enstone et al. 2003; Ma and Peterson, 2003). Sự hình thành lớp suberin ở rễ giống như hàng rào ngăn chặn sự xâm nhập ion Na+ vào trong rễ lúa hay nói cách khác đây là cơ chế loại trừ muối ở rễ của cây lúa.
Tóm lại, các nghiệm thức tưới mặn có giá trị ECe cao hơn so với đối chứng. Kết quả cho thấy có sự tích lũy mặn trong đất sau thời gian tưới mặn. Tưới mặn nhiều lần hoặc tưới ở giai đoạn sau thì độ mặn còn lại trong đất càng cao. Các giống lúa chống chịu mặn đạt được chiều cao cây, số chồi, số bông/chậu, số hạt chắc/bông và khối lượng hạt/chậu cao hơn so với giống mẫn cảm mặn. Nghiệm thức tưới mặn vào giai đoạn 45 - 60 NSKS có chiều cao, số chồi, các thành phần năng suất và năng suất tốt hơn so với tưới mặn ở giai đoạn 10 - 20 NSKS hoặc 10 - 20 và 45 - 60 NSKS. Cây lúa tổng hợp proline trong điều kiện nhiễm mặn nhiều hơn so với điều kiện bình thường. Giống lúa chịu mặn có khả năng tổng hợp proline nhiều hơn so với giống mẫn cảm mặn.
4.2 Ảnh hưởng của Canxi oxít (CaO), KNO3, n-Triacontanol, Brassinolide và Humate Kali đến sinh trưởng và năng suất lúa nhà lưới trong điều kiện tưới mặn 4‰ NaCl vào giai đoạn 10-20 ngày sau khi sạ
4.2.1 Diễn biến ECe của đất
Vào thời điểm trước khi sạ, ECe đất của các nghiệm thức biến thiên từ 3,26 mS/cm đến 3,36 mS/cm và khác biệt không ý nghĩa thống kê (Bảng 4.8). Do loại đất sử dụng trong thí nghiệm là đất không nhiễm mặn nên ECe đất ở mức thấp. Theo Jan Kotuby-Amacher (2000), ECe của đất từ 0-2 mS/cm không ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây trồng khi phản ứng của cây trồng đối với độ mặn đất. Giai đoạn 30 NSKS, trị số ECe đất của các nghiệm thức tăng mạnh và biến thiên từ 4,86 mS/cm đến 5,48 mS/cm nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Trong giai đoạn này các nghiệm thức đã được tưới mặn 4‰ và duy trì nước mặn trong 10 ngày nên làm cho độ mặn của đất tăng lên. Bên cạnh đó, cũng theo đánh giá của Jan Kotuby-Amacher (2000), thì ECe đất từ 2-4 mS/cm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng mẫn cảm với mặn như lúa.
Bảng 4.8: Giá trị ECe (mS/cm) đất qua các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa
Nghiệm thức
Trước khi sạ (mS/cm)
 Sau tưới mặn (mS/cm)
Thu hoạch (mS/cm)
Đối chứng (không xử lý)
3,30
4,99
4,15
Phun KNO3
3,26
5,30
4,06
Bón Humate kali 60%, 
3,34
5,18
4,09
Bón Canxi oxít (CaO)
3,30
5,36
4,09
Phun n-Triacontanol
3,29
5,12
4,00
Phun n-Triacontanol gấp đôi
3,34
4,92
4,08
Bón Humate kali 60%
Phun n-Triacontanol gấp đôi 
3,30
4,97
4,01
Bón Canxi oxít (CaO)
Phun n-Triacontanol gấp đôi 
3,36
5,48
4,08
Phun Brassinolide nồng độ
3,31
4,86
3,96
F
ns
 ns
 ns
CV (%)
1,66
4,07
3,93
Ghi chú: Các số trong cùng một cột có mẫu tự theo sau giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê khi dùng phép kiểm định Duncan, (ns): khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Giai đoạn thu hoạch, giá trị ECe đất của các nghiệm thức biến động từ 3,96 đến 4,15 mS/cm và khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Do sau khi ngưng tưới mặn (30 NSKS) thì tiến hành tưới nước ngọt lại bình thường cho tới lúc thu hoạch nên giá trị ECe đất tại thời điểm thu hoạch thấp hơn so với thời điểm sau khi tưới mặn. 
4.2.2 Diễn biến pH của đất qua các giai đoạn thí nghiệm
Thời điểm trước khi sạ, giá trị pH của các nghiệm thức biến thiên từ 5,13 đến 5,25 và khác biệt không ý nghĩa thống kê (Bảng 4.9). Do loại đất sử dụng cho thí nghiệm là đất không phèn, thời điểm trước khi sạ chưa bón các chất vào đất theo các nghiệm thức. Theo Nguyễn Mỹ Hoa và ctv (2012), đất phù sa không phèn ở Đồng bằng Sông Cửu Long có pH biến động từ 4,5-5,5 thì được xem là phù hợp với sự sinh trưởng của cây lúa.
Giai đoạn 30 NSKS, các nghiệm thức có giá trị pH dao động từ 5,13 đến 5,25 và khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Giai đoạn này các nghiệm thức được bón các chất vào đất và xử lý mặn, trong đó hai nghiệm thức bón Canxi oxít có pH thay đổi không đáng kể điều này được giải thích theo Nguyễn Mỹ Hoa và ctv. (2012) là do tính đệm của đất, khi bón vôi để trung hòa độ chua hiện tại thì phản ứng cân bằng nồng độ ion H+ trong dung đất xảy ra.
Bảng 4.9: Giá trị pH đất qua các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa
Nghiệm thức
Trước khi sạ 
 Sau tưới mặn 
Thu hoạch 
Đối chứng (không xử lý)
5,17
5,25
5,24
Phun KNO3
5,13
5,13
5,16
Bón Humate kali 60%, 
5,19
5,19
5,19
Bón Canxi oxít (CaO)
5,15
5,20
5,18
Phun n-Triacontanol
5,20
5,19
5,21
Phun n-Triacontanol gấp đôi
5,17
5,19
5,19
Bón Humate kali 60%
Phun n-Triacontanol gấp đôi 
5,18
5,20
5,19
Bón Canxi oxít (CaO)
Phun n-Triacontanol gấp đôi 
5,25
5,24
5,24
Phun Brassinolide nồng độ
5,19
5,20
5,20
F
ns
ns
ns
CV (%)
1,22
1,05
1,05
Ghi chú: Các số trong cùng một cột có mẫu tự theo sau giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê khi dùng phép kiểm định Duncan, (ns): khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Tương tự giai đoạn 30 NSKS, giá trị pH của các nghiệm thức lúc thu hoạch thay đổi từ 5,16 đến 5,24 và khác biệt không ý nghĩa thống kê. Từ kết quả trên cho thấy các chất bón vào đất hoặc phun lên lá làm thay đổi pH đất không đáng kể.
4.2.3 Chiều cao cây lúa
Giai đoạn 20 ngày, chiều cao cây lúa của các nghiệm thức biến thiên từ 25,3 cm đến 26,2 cm và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Bảng 4.10). Trong giai đoạn này các nghiệm thức mới bắt đầu tưới mặn nên giai đoạn trước đó các nghiệm thức sinh trưởng trong điều kiện bình thường và tương đối giống nhau làm cho các nghiệm thức có sự đồng đều về chiều cao. Đến giai đoạn lúa 45 ngày, chiều cao cây lúa của các nghiệm thức lúc này biến thiên từ 47,5 cm đến 51,4 cm và khác biệt có ý nghĩa thống kê ở m

File đính kèm:

  • docluan_an_nghien_cuu_bien_phap_tuoi_nuoc_man_ket_hop_bon_dam_v.doc
  • docxThong tin luan an English (6.5.2018).docx
  • pdfThong tin luan an English (6.5.2018).pdf
  • docxThong tin luan an VN (6.5.2018).docx
  • pdfThong tin luan an VN (6.5.2018).pdf
  • pdfToan van Luan an-Bo 2011 (gui Khoa SDH).pdf
  • docxTOM TAT LUAN AN-NGUYEN VAN BO (Anh).docx
  • pdfTOM TAT LUAN AN-NGUYEN VAN BO (Anh).pdf
  • docxTOM TAT LUAN AN-NGUYEN VAN BO (Viet).docx
  • pdfTOM TAT LUAN AN-NGUYEN VAN BO (Viet).pdf