Luận án Nghiên cứu các yếu tố công nghệ ảnh hưởng đến quá trình đông tụ protein và chất lượng đậu phụ mơ Hà Nội định hướng sản xuất quy mô công nghiệp

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu các yếu tố công nghệ ảnh hưởng đến quá trình đông tụ protein và chất lượng đậu phụ mơ Hà Nội định hướng sản xuất quy mô công nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu các yếu tố công nghệ ảnh hưởng đến quá trình đông tụ protein và chất lượng đậu phụ mơ Hà Nội định hướng sản xuất quy mô công nghiệp

ủa các liên kết bên trong sản phẩm, các liên kết chính trong hệ gel là liên kết disulfua, liên kết hydro và liên kết ưa béo trong đó liên kết disulfua là liên kết bền nhất, bền ngay cả khi có tác dụng của nhiệt độ. Trong hệ gel đông tụ của protein 11S (chứa 44-46 nguyên tử S), liên kết đóng vai trò chính đó là liên kết cầu nối disulfua, ngược lại trong hệ gel đông tụ của protein 7S (chỉ chứa 4 nguyên tử S) các liên kết chính là liên kết hydro và liên kết ưa béo. Khi gia nhiệt ở nhiệt độ cao, các liên kết của protein 7S bị yếu đi, vì vậy độ bền gel sẽ không cao. Ngược lại, đối với hệ gel đông tụ của protein 11S, cầu nối disulfite bền khi tăng nhiệt độ do đó hệ gel đông tụ của nó bền hơn, chắc hơn. Vì vậy độ đàn hồi của đậu phụ sẽ phụ thuộc vào tính chất protein và thành phần 11S/7S hay nói cách khác là số lượng liên kết cầu disulfua trong đậu phụ [63], [83]. Kết quả nghiên cứu của Saiko và cộng sự đã chỉ ra rằng đậu phụ gell 11S có khả năng giữ nước cao hơn gel 7S, giá trị kéo cao hơn, độ cứng cao hơn và giãn nở nhiều hơn khi gia nhiệt. Các tác giả cũng chỉ rõ sự khác biệt của các gel 11S và 7S ở liên kết S-S. Hệ số tương quan giữa độ đàn hồi và 11S/7S của các mẫu đậu phụ là r1 = 0,90 (với đậu phụ tươi) và r1 = 0,89 (với đậu phụ chiên). Điều này phản ánh có sự tương 75 quan khá mạnh giữa tỷ lệ 11S/7S và độ đàn hồi đậu phụ. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với các công trình của thế giới. Tương tự, khả năng giữ nước và lượng nước mất đi khi chiên của các mẫu đậu phụ có sự tương quan mạnh ngược chiều (hệ số tương quan là r1 =-0,91). Điều này cho thấy đậu phụ giữ nước tốt thì sẽ ít bị mất nước khi chiên. Các công trình trên thế giới chỉ ra rằng khả năng giữ nước phụ thuộc vào tỷ lệ 11S/7S [63]. Gel 11S có khả năng giữ nước cao hơn gel 7S. Hệ số tương quan giữa khả năng giữ nước và lượng nước mất đi khi chiên của các mẫu đậu phụ với tỷ lệ 11S/7S của nguyên liệu đậu tương có giá trị tương ứng là r1 = 0,87 và r1 = -0,81 chỉ ra có sự tương quan khá mạnh. Trong đó khả năng giữ nước của đậu phụ tương quan thuận với tỷ lệ 11S/7S. Có nghĩa là tỷ lệ 11S/7S càng cao khả năng giữ nước của đậu phụ càng tốt và ngược lại. Bên cạnh đó, lượng lượng mất đi khi chiên của đậu phụ tương quan nghịch với tỷ lệ 11S/7S, có nghĩa là 11S/7S của nguyên liệu càng cao thì lượng nước mất đi khi chiên càng giảm. Do đó đậu phụ càng mềm, dẻo. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Saiko (1969) là đậu phụ được làm từ gel giàu 11S sẽ giữ nước tốt hơn đậu phụ làm từ gel giàu 7S [63]. Khả năng giữ nước của đậu phụ còn liên quan với trạng thái khối gel protein khi đông tụ. Để làm rõ điều này tiến hành chụp SEM mẫu đậu phụ giàu 7S theo phương pháp đã mô tả ở mục. Ở đây quá trình đông tụ gồm 2 bước. Đông tụ lần 1 ở pH 5,5 nhằm mục đích thu nhận protein hỗn hợp 11S và 7S, sau khi lấy khối đông tụ này, dịch sữa đậu tiếp tục được bổ sung nước chua về pH 4,5 (là vùng pI của protein 7S) vì vậy khối gel thu được có thành phần giàu 7S. Hình ảnh kết quả chụp SEM mẫu phụ giàu 7S và 11S được thể hiện trên hình 3.3 và hình 3.4. Hình 3.3. Hình ảnh chụp SEM mẫu đậu phụ giàu protein 7S (sau khi tách protein đông tụ ở pH 5,5 tiếp tục được đông tụ ở pH 4,5) với độ phóng đại 1500. Hình 3.4. Hình ảnh chụp SEM mẫu đậu phụ giàu 11S (đông tụ ở pH 5,8) với độ phóng đại 2000. Hình 3.3 cho thấy các protein giàu 7S khi đông tụ sẽ tạo thành khối gel có các lỗ trống rất lớn. Các lỗ trống này khi đông tụ sẽ là chỗ chứa cho lượng nước tự do nhưng sau đó lượng nước này sẽ dễ dàng thoát ra khi ly tâm, hoặc chiên làm cho khả năng giữ nước của đậu phụ giảm và lượng nước mất đi khi chiên lớn. Điều này khác biệt với mẫu đậu phụ đông tụ ở pH 5,8. Ở vùng pH này có protein 11S đông tụ là chủ yếu (pI của 11S đã được xác định là 6,4). 76 Hình 3.4 cho thấy mẫu đậu phụ đông tụ ở pH 5,8 có trạng thái mịn hơn rất nhiều so với mẫu đậu phụ giàu 7S. Các lỗ trống nhiều nhỏ và đều hơn so với hình ảnh của mẫu 7S, nhờ vậy mẫu đậu phụ đông tụ ở pH 5,8 có thể giữ được nước tự do khi ly tâm, và chiên so với mẫu đậu phụ 7S, do đó tính chất khả năng giữ nước tốt hơn. Hệ số tương quan giữa độ cứng, độ đàn hồi và khả năng giữ nước, lượng nước mất đi khi chiên thể hiện có sự tương quan mạnh giữa các chỉ tiêu, đặc biệt là ở đậu phụ chiên. Điều này cũng dễ hiểu vì đậu phụ giữ nước tốt thì khi chiên, lượng nước sẽ hóa hơi tạo các lỗ rỗng, xốp tạo lên sự đàn hồi cao và độ cứng đậu chiên giảm. Kết quả phân tích ảnh hưởng của giống đậu tương đến màu sắc của đậu phụ được thể hiện trên bảng 3.14. Bảng 3.14. Màu sắc đậu phụ theo giống đậu tương Giống đậu tương L* a* b* Nhận xét màu sắc TQ 88,55 ± 0,49c -1,18 ± 0,03c 18,24 ± 0,45c Trắng ngả vàng M1 86,16 ± 0,61a -0,94 ± 0,04b 17,22 ± 0,37b Vàng lốm đốm DT84 87,14 ± 0,63ab -1,62 ± 0,04a 16,23 ± 0,43a Trắng ngà DT51 87,78 ± 0,70a -1,09 ± 0,02d 16,61 ± 0,49a Trắng ngà DT26 86,43 ± 0,69bc -1,37 ± 0,03e 15,87 ± 0,25ab Trắng ngà Ghi chú: TQ: giống đậu tương Trung Quốc nhập khẩu; M1: giống đậu tương Hoa Kỳ nhập khẩu; DT84, DT26, DT51 là các giống đậu tương Việt Nam; Các giá trị trong cùng một cột có chữ ở mũ khác nhau là khác nhau có ý nghĩa ở mức ý nghĩa α = 0,05. Kết quả bảng 3.14 cho một số nhận xét sau: Giá trị L* có sự khác nhau về độ sáng (màu trắng) giữa các loại đậu phụ làm từ các giống đậu tương khác nhau. Giá trị L* của các loại đậu phụ có giá trị nằm trong khoảng 84,16-88,55. Đậu phụ làm từ giống đậu tương TQ có màu sáng nhất (L*=88,55), đậu phụ làm từ giống đậu tương M1 có màu tối nhất (L*=82,17), nhìn bằng mắt có màu hơi xám. Các loại đậu phụ khác cho kết quả L* từ 86,16-87,78; đa số đều có màu trắng ngà. Giống M1 có màu vàng lốm đốm, không đều màu. Giá trị a* thể hiện màu xanh lá cây (giá trị âm) đến đỏ (giá trị dương). Giá trị a* của các loại đậu đều có giá trị âm (màu xanh lá cây) từ -0,94 đến -1,37. Giá trị a* rất nhỏ (gần giá trị 0) và chênh lệch giữa các loại đậu phụ là không đáng kể nên không ảnh hưởng nhiều đến màu sắc khi đánh giá cảm quan bằng mắt thường. Giá trị b* thể hiện màu xanh da trời (giá trị âm) đến màu vàng (giá trị dương). Chỉ số b* của các loại đậu tương đều có giá trị dương, nằm trong khoảng 15,87- 18,24. Trong đó đậu phụ làm từ giống đậu tương TQ có giá trị cao nhất (18,24). Các loại đậu phụ đều có giá trị b* > 0, cho cảm quan bằng mắt có màu vàng nhạt. Ảnh hưởng của giống đến màu sắc của đậu phụ có thể do lượng chất màu thực vật được xác định về mặt di truyền như Anthocyanins (màu sẫm của một số giống đậu tương), Carotenoid và Flavonoid góp phần vào màu vàng của đậu tương [42]. Có sự tương quan dương mạnh giữa giá trị b* và hàm lượng lipit trong đậu phụ (r=0,84). Điều này có thể giải thích đậu phụ có lipit cao giữ màu tốt bằng các liên kết ưa béo. 77 Kết luận nội dung 2 Nguyên liệu đậu tương có ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng đậu phụ. Trong đó các chỉ tiêu hàm lượng dinh dưỡng, tỷ lệ tỷ lệ protein 11S/7S có ảnh hưởng quan trọng nhất. Qua nghiên cứu đã lựa chọn được giống đậu tương phù hợp Mơ cho sản xuất đậu phụ Mơ là DT84. Giống DT84 có các đặc tính sau: Hình dạng bầu dục và màu vỏ vàng đậm; khối lượng 1000g là 153,8g; độ ẩm: 12,96 ± 0,18%; Protein (% ck): 37,93 ± 0,98; Lipit (% ck): 17,27 ± 0,40; Tro tổng (% ck): 4,61 ± 0,04; tỷ lệ 11S/7S: 2,01; Sản lượng đậu phụ thu được (kg đậu phụ/kg đậu tương): 2,33 ± 0,07. Giống đậu tương DT84 sẽ được sử dụng cho các nghiên cứu tiếp theo. 3.3. Ảnh hưởng của tác nhân đông tụ nước chua tới chất lượng đậu phụ 3.3.1. Xác định các axit hữu cơ và vi khuẩn lactic tạo nước chua 3.3.1.1. Xác định các axit hữu cơ thành phần của nước chua Nước chua (tác nhân đông tụ trong sản xuất đậu phụ Mơ truyền thống) được tạo ra từ quá trình lên men tự nhiên dịch whey trong thời gian 18-24h (dịch whey là nước gạn thu được từ quá trình đông tụ và ép đậu phụ). Việc xác định thành phần axit hữu cơ trong nước chua sẽ cho những thông tin hữu ích về sản phẩm của quá trình lên men (axit hữu cơ chiếm vai trò chủ đạo) từ đó có được các định hướng về nghiên cứu phân lập, định danh chủng vi sinh vật lên men tạo nước chua. Các axit thành phần có trong nước chua của đậu phụ Mơ truyền thống được xác định theo phương pháp đã mô tả ở mục 2.3.2.8. Kết quả được trình bày ở bảng 3.15. Bảng 3.15. Thành phần axit hữu cơ trong nước chua đậu phụ Mơ Cơ sở sản xuất Lactic, (mg/ml) Acetic (mg/ml) Butyric (mg/ml) Tổng (mg/ml) Cơ sở A 4,29 0,20 0,08 4,57 Cơ sở B 5,28 0,74 0,00 6,02 Cơ sở C 5,19 0,73 0,65 6,56 Trung bình 4,92 ± 0,55 0,56 ± 0,31 0,24 ± 0,35 5,72 ± 1,03 % 86,0% 9,7% 4,3% 100,0% Ghi chú: Kết quả sắc ký phân tích hàm lượng axit hữu cơ trong nước chua đậu phụ Mơ được trình bày ở phần phụ lục. Bảng 3.15 đã chỉ ra trong nước chua có 03 axit chủ yếu là axit lactic, axit acetic, axit butyric. Trong đó hàm lượng axit lactic chiếm tỷ lệ chủ yếu (trung bình 86%), axit acetic và butyric chiếm tỷ lệ nhỏ hơn, giá trị trung bình tương ứng là 9,7% và 4,3%. Như vậy, thành phần nước chua là dung dịch các axit hữu cơ – sản phẩm của quá trình lên men lactic tự nhiên. Trong đó axit lactic đóng vai trò chủ đạo. Kết quả này cũng phù hợp với các công bố thế giới rằng nước chua có thành phần là các axit hữu cơ và axit lactic có hàm lượng chủ yếu [160], [112]. Ce Li và cộng sự đã xác định được trong thành phần nước chua đậu phụ truyền thống Trung Quốc có hàm 78 lượng axit lactic có hàm lượng từ 2,41- 10,49mg/ml sau thời gian lên men 16-24h (và lượng axit lactic chiếm tỷ trọng chính đạt vào khoảng 77% tổng axit hữu cơ) [25]. Như vậy, kết quả phân tích thành phần nước chua đậu phụ làng Mơ truyền thống khá phù hợp với các công bố quốc tế về nước chua sản xuất đậu phụ (axit lactic chiếm vai trò chủ đạo và có tỷ trọng lớn nhất). Việc xác định được thành phần các axit hữu cơ trong nước chua giúp làm rõ bản chất quá trình đông tụ trong sản xuất đậu phụ Mơ truyền thống. Nước chua có thành phần là các axit hữu cơ nên có pH thấp vì vậy đông tụ protein trong sản xuất đậu phụ Mơ theo nguyên lý đông tụ pI đẳng điện. Cụ thể: dịch sữa đậu nành sau khi được đun sôi (để protein hình cầu biến tính, duỗi mạch) sẽ được bổ sung nước chua. Do nước chua có thành phần là các axit hữu cơ nên pH của dịch sữa sẽ giảm dần. Đến pI, thì protein bắt đầu kết tủa. Tiếp tục bổ sung nước chua, Protein đông tụ ngày càng nhiều và tạo thành khối đông tụ. Gạn dịch whey sẽ thu được khối gel đông tụ. Khối gel này đi ép sẽ được đậu phụ thành phẩm. Kết quả thành phần axit lactic trong nước chua (giá trị trung bình 86%) cũng đã chỉ ra rằng đây là quá trình lên men lactic. Điều này cũng phù hợp với các công bố quốc tế về nước chua trong sản xuất đậu phụ truyền thống [160], [112] và kết quả giúp giải thích được việc sản xuất nước chua tại cơ sở làng nghề truyền thống là lên men lactic để tạo dung dịch có pH thấp làm tác nhân đông tụ protein. Dịch whey (là nước gạn thu được của công đoạn đông tụ) được bổ sung nước giống (là nước chua của ngày hôm trước) sau đó để lên men 18-24h tạo thành nước chua. Như vậy, về bản chất đây là quá trình cấy giống vào dịch whey sau đó để lên men tự nhiên tạo thành nước chua. Kết quả trên cũng định hướng nghiên cứu rằng để ổn định chất lượng đậu phụ Mơ, việc phân lập, định danh chủng vi khuẩn lactic là cần thiết. 3.3.1.2. Phân lập và định danh vi khuẩn lactic trong nước chua sản xuất đậu phụ Mơ truyền thống - Sự biến đổi mật độ vi khuẩn lactic của whey đậu phụ trong quá trình lên men Để phân lập vi khuẩn lactic có trong nước chua đậu phụ Mơ truyền thống, việc xác định biến đổi mật độ vi khuẩn lactic trong quá trình lên men tự nhiên whey đậu phụ là cần thiết. Từ kết quả này sẽ xác định được thời điểm mật độ vi khuẩn lactic đạt lớn nhất và từ đó lấy mẫu vi khuẩn tại các thời điểm phát triển mạnh nhất đưa đi phân lập định danh. Tiến hành theo phương pháp đã mô tả ở mục 2.3.3.3. Kết quả được biểu diễn trên hình 3.5. Hình 3.5 thể hiện vi khuẩn lactic ở cả ba cơ sở sản xuất đậu trên đều phát triển theo các pha phát triển của vi sinh vật. Mật độ vi khuẩn lactic tăng nhanh trong khoảng 9 giờ lên men đạt giá trị từ 1,46*107 đến 2,05*107cfu/ml. Trong thời gian ở pha cân bằng, mỗi cơ sở sản xuất có thời điểm vi khuẩn lactic đạt cực đại là khác nhau. Mẫu nước chua lấy từ cơ sở A, B thời gian vi khuẩn lactic có mật độ lớn nhất là sau khi lên men 18 giờ với mật độ tương ứng 2,99*107cfu/ml và 2,82*107cfu/ml. Còn với mẫu nước chua cơ sở C, thời gian số lượng vi khuẩn lactic đạt cực đại sớm hơn so với hai mẫu trước, vào thời điểm 15 giờ với mật độ 2,15*107cfu/ml. Sự khác nhau về sự phát triển của vi khuẩn lactic ở mỗi cơ sở sản xuất có thể do điều kiện lên men cũng như lượng nước chua bổ sung vào quá trình đông tụ đậu phụ. Tuy 79 nhiên, trong khoảng 18-24h, mật độ vi khuẩn lactic là lớn nhất. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu của Ce Li và cộng sự [25]. Cả ba mẫu nước chua sẽ kết thúc quá trình cân bằng tại thời điểm lên men 21 giờ. Hình 3.5. Biến đổi mật độ của vi khuẩn lactic trong quá trình lên men tự nhiên whey đậu phụ - Đặc điểm khuẩn lạc vi khuẩn phân lập từ các mẫu nước chua lên men tự nhiên tại làng Mơ Tiến hành xác định thời điểm mật độ vi khuẩn lactic đạt lớn nhất ở từng mẫu. Mẫu lấy tại cơ sở sản xuất A, thời điểm vi khuẩn phát triển mạnh nhất là 18 giờ với mật độ khuẩn lạc là 2,99*107 cfu/ml. Tương tự cơ sở sản xuất B cũng là 18 giờ với mật độ khuẩn lạc 22,82*107 cfu/ml và sơ sở sản xuất C là 15 giờ với mật độ khuẩn lạc 2,15*107 cfu/ml. Lấy mẫu tại các thời điểm phát triển mạnh nhất với từng mẫu mang đi pha loãng và trang trên môi trường MRS theo phương pháp đã mô tả ở mục 2.2.4. Kết quả hình ảnh khuẩn lạc của các mẫu được thể hiện trên hình 3.6; 3.7; 3.8. Các đặc điểm hình thái, đặc tính tính sinh lý, sinh hóa của các chủng lactic phân lập từ nước chua đậu phụ Mơ được trình bày trên bảng 3.16. Bảng 3.16. Các đặc điểm hình thái, đặc tính tính sinh lý, sinh hóa của các chủng lactic phân lập từ nước chua đậu phụ Mơ Kí hiệu chủng Đặc điểm hình thái KOH Gram Khả năng phát triển ở 45oC Khả năng sinh khí từ Glucose NĐ11 Khuẩn lạc tròn, mép trơn, màu trắng đục - + - + NĐ12 Khuẩn lạc tròn, mép mỏng mọc lan, màu trắng đục - + - + NĐ2 Khuẩn lạc tròn, mép trơn, màu trắng đục - + - + Ghi chú: KOH (-): không xuất hiện dịch nhớt tương ứng với vi khuẩn Gram (+) 80 Hình 3.6. Hình ảnh khuẩn lạc mẫu NĐ11; NĐ12. Hình 3.7. Hình ảnh khuẩn lạc mẫu NĐ2. - NĐ3: không xuất hiện bất cứ khuẩn lạc nào ở các nồng độ 10-5 và 10-6 Hình 3.8. Hình ảnh khuẩn lạc mẫu NĐ3. Ghi chú: mẫu bên trái (pha loãng 10-5) và mẫu bên phải 10-6 (pha loãng 10-6). 81 Kết quả thực nghiệm như sau: chỉ sau 24 giờ nuôi cấy đã thấy rõ khuẩn lạc của vi khuẩn lactic. Mật độ khuẩn lạc ở các thời điểm 24 giờ và 48 giờ không khác nhau nhiều (sau 24 giờ không có nhiều khuẩn lạc mới mọc thêm). Tốc độ hình thành khuẩn lạc của vi khuẩn lactic rất nhanh, trên các đĩa có rất ít các vi khuẩn tạp phát triển. Từ kết quả thu được ở bảng 3.16 ta thấy các chủng phân lập được đều là vi khuẩn gram dương. Xác định Gram bằng KOH cho kết quả (-) không xuất hiện dịch nhớt tương ứng với vi khuẩn Gram (+). Những điều này đều phù hợp với các công bố trước đây về vi khuẩn lactic. Các chủng đều có khả năng sinh khí từ đường glucose nên có thể xếp chúng vào nhóm vi khuẩn lên men lactic dị hình. - Trình tự đoạn gen và định loài Để định danh vi khuẩn lactic, tiến hành tách chiết DNA và PCR của các chủng lactic và xác định phổ điện di theo phương pháp đã mô tả ở mục 2.2.4. Kết quả được thể hiện ở hình 3.9 và hình 3.10. Kết quả tách chiết DNA tổng số Hình 3.9. Phổ điện di DNA tổng số Kết quả PCR với cặp mồi đặc hiệu Hình 3.10. Phổ điện di sản phẩm PCR khuếch đại đoạn gen 16rDNA Trình tự đoạn gen của chủng vi khuẩn lactic được trình bày ở phần phụ lục. Trên cơ sở dữ liệu EzTaxon (https://www.ezbiocloud.net/), trình tự 16S rDNA của chủng nghiên cứu có độ tương đồng cao nhất so với trình tự 16S rDNA của các chủng chuẩn cụ thể như sau: các chủng mẫu ND1.1; 1.2; 2.2 tương đồng 99,73% với Lactobacillus fermentum CECT 562(T) (AJ575812). Bảng 3.17. Chủng lactic chiếm ưu thế được phân lập, định danh trong nước chua sản xuất đậu phụ Mơ truyền thống Mẫu Định loài Mẫu 1.1 Lactobacillus fermentum Mẫu 1.2 Lactobacillus fermentum Mẫu 2 Lactobacillus fermentum Kết quả vi khuẩn phân lập từ nước chua đậu phụ Mơ là chủng Lactobacillus fermentum giúp giải thích được thành phần nước chua trong sản xuất đậu phụ Mơ 1.1 1.2 2.2 M 1,5 kb - 1.1 1.2 2.2 82 truyền thống chủ yếu là axit lactic. Do là chủng vi khuẩn lactic chiếm ưu thế nên việc sản xuất nước chua truyền thống là quá trình lên men lactic tự nhiên. Kết quả vi khuẩn phân lập từ nước chua đậu phụ Mơ là chủng Lactobacillus fermentum có sự khác biệt với công bố trước đây. Các chủng phân lập với nước chua trong sản xuất đậu phụ truyền thống Trung Quốc được phân lập, định danh là Lactobacillus axitophilus [163], L. plantarum [25] Lactobacillus paracasei,..Điều này có thể là do khác biệt về địa lý, môi trường và điều kiện sản xuất thực tế nên có thể có các hệ vi sinh vật khác nhau. Như vậy, Lactobacillus fermentum là chủng vi khuẩn lactic chiếm ưu thế trong nước chua sản xuất đậu phụ Mơ truyền thống. Trên thế giới chủng vi khuẩn Lactobacillus fermentum đang được sử dụng phổ biến trong việc tạo cấu trúc, mùi thơm, hương vị cho nhiều sản phẩm thực phẩm mới, chủng được đánh giá là có tiềm năng trong probiotic, giảm cholesterol, kháng khuẩn và chống oxi hóa [66], [80]. Một số chủng đã được làm chế phẩm sinh học thương mại PCC, ME-3 và CECT5716 []. 3.3.2. Quá trình hình thành nước chua và ảnh hưởng tới chất lượng đậu phụ 3.3.2.1. Xác định động học quá trình lên men dịch whey Biến đổi của thành phần vi sinh vật hiếu khí tổng số, vi khuẩn lactic trong 48h lên men ở điều kiện nhiệt độ phòng (khoảng 30oC) được trình bày trong hình 3.11. Hình 3.11. Sự biến đổi vi sinh vật hiếu khí tổng số, vi khuẩn lactic và tổng số nấm men, nấm mốc trong whey đậu phụ trong quá trình lên men tự nhiên 83 Tại thời điểm ban đầu mật độ vi sinh vật hiếu khí tổng số, vi khuẩn lactic đạt khoảng 106 cfu/ml. Điều này là do whey ban đầu nhiệt độ đạt 55-650C, chỉ phù hợp cho một số vi khuẩn chịu được nhiệt độ cao phát triển. Theo thời gian nhiệt độ của whey ban đầu giảm đến nhiệt độ phòng, quá trình lên men xảy ra nhanh, một lượng lớn vi khuẩn lactic phát triển. Mật độ vi khuẩn lactic có trong whey tại tất cả các thời điểm đều gần sát với mật độ của vi sinh vật hiếu khí tổng số. Điều đó, chứng tỏ rằng vi khuẩn lactic chiếm ưu thế hơn so với các vi sinh vật khác trong nước chua lên men tự nhiên. Trong khoảng thời gian từ 15- 18h, mật độ của vi khuẩn hiếu khí tổng số và vi khuẩn lactic lên đến lần lượt là khoảng 4,55*107 đến 2,48*107 cfu/ml. Sau đó, mật độ vi khuẩn lactic có xu hướng giảm dần, còn vi khuẩn hiếu khí tổng số sau 18h có xu hướng giảm và đến 48h mật độ còn lại là 1,15*107 cfu/ml. Sau 36h lên men, nấm men, nấm mốc bắt đầu phát triển. Kết quả này cũng phù hợp với công bố của Qiao và cộng sự (2010) [160]. Hình 3.12. Sự biến đổi của pH của whey trong quá trình lên men tự nhiên. Hình 3.13. Sự biến đổi của hàm lượng đường tổng số, protein và axit hữu cơ của whey trong quá trình lên men tự nhiên. Sự biến đổi pH của whey trong 48h lên men tự nhiên được thể hiện trong hình 3.12. Tại thời điểm ban đầu, pH của whey là 6,3 rồi giảm khá nhanh xuống khoảng 4,7 trong 12h đầu tiên. Sau đó, trong 36h tiếp theo, pH của whey lên men giảm với tốc độ chậm hơn và xuống mức pH 4,0. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Ce Li và cộng sự, Qiao (2010) với nước chua chế biến đậu phụ truyền thốn
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_cac_yeu_to_cong_nghe_anh_huong_den_qua_tr.pdf
Thông tin đưa lên web bằng tiếng Anh.docx
Thông tin đưa lên web bằng tiếng Anh.pdf
Thông tin đưa lên web bằng tiếng Việt.docx
Thông tin đưa lên web bằng tiếng Việt.pdf
Tóm tắt luận án_Nguyễn Quang Đức.doc
Tóm tắt luận án_Nguyễn Quang Đức.pdf
Trích yếu luận án_Nguyễn Quang Đức.docx
Trích yếu luận án_Nguyễn Quang Đức.pdf