Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 133 trang nguyenduy 01/10/2025 140
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực

Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực
o với dòng U6 và trung 
bình toàn khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 ở Đông Hà – Quảng Trị 
59
Bảng 3.3. Sinh trưởng và chất lượng thân cây giữa các gia đình Bạch đàn urô tại khảo nghiệm hậu thế 
thế hệ 2 ở Đông Hà – Quảng Trị (6 tuổi) 
D (cm) H (m) V (dm3/cây) Xếp 
hạng 
Gia 
đình Nguồn hạt 
Tỷ lệ 
sống (%) 
TB V% TB V% TB V% 
Icl (điểm) Năng suất (m3/ha/năm)
1 81 Vạn Xuân SSO 37,5 13,3 7,3 14,8 5,6 117,2 8,7 36,1 25,9 
2 108 Vạn Xuân SSO 62,5 13,1 7,6 14,4 6,4 113,1 8,9 28,8 25,0 
3 76 Vạn Xuân SSO 59,4 13,4 7,9 14,2 7,5 109,8 9,4 32,5 24,3 
4 69 Ba Vì SP 53,1 12,9 8,3 13,8 7,8 107,0 10,6 35,5 23,7 
5 75 Vạn Xuân SSO 59,4 12,9 8,0 14,0 6,5 104,5 9,5 35,6 23,1 
. . . . . . . . 
76 97 Vạn Xuân SSO 43,8 9,7 18,5 10,9 13,4 45,7 19,6 22,1 10,1 
77 20 Ba Vì SSO 65,6 9,9 18,1 11,3 13,9 45,5 20,5 25,9 10,1 
78 PN14 Phù Ninh 46,9 9,4 19,9 10,5 15,2 40,3 24,4 24,9 8,9 
79 64 Ba Vì SP 50,0 9,0 22,0 10,4 10,9 38,4 24,2 17,3 8,5 
80 U6 Trung Quốc 56,3 8,6 26,1 9,2 20,3 31,5 31,6 20,7 7,0 
Trung bình khảo nghiệm 53,8 11,1 12,5 69,6 25,6 15,4 
Sắc xuất của F (Fpr.) <0.001 <0.001 <0.001 
Khoảng sai dị đảm bảo (Lsd.) 2,0 1,8 32,1 
TB 10 gia đình tốt 12,9 13,9 103,2 33,2 22,8 
TB 10 gia đình xấu nhất 9,6 11,0 44,5 23,1 9,8 
60
Giống như kết quả tại khảo nghiệm ở Ba Vì, các gia đình có sinh trưởng tốt 
tại Đông Hà là các gia đình có chất lượng thân cây tốt. Điều này có thể kết luận 
rằng các tính trạng sinh trưởng có thể có tương quan với các tính trạng chất lượng 
thân cây. Để có kết luận chính xác cần có sự đánh giá tương quan di truyền giữa 
tính trạng sinh trưởng và chất lượng thân cây. 
Ở các kết quả nghiên cứu trước đây, biến dị di truyền về sinh trưởng và chất 
lượng thân cây của Bạch đàn urô đã được ghi nhận biến động từ trung bình tới cao 
và biến động này tùy thuộc theo từng lập địa (Mori et al., 1988; Kurinobu et al., 
1996; Nirsatmanto et al., 1996; Wei & Boralho, 1997; Kube et al., 2001; Raymond 
and Schimleck, 2002; Arnold & Cuevas, 2003; Xu et al., 2003; Schimleck et al., 
2004; Arnold et al., 2004; Nguyễn Đức Kiên et al., 2008; Nguyễn Đức Kiên et al., 
2009a) [80], [121], [68], [94], [33], [97], [64], [65]. 
Như vậy, việc chọn lọc các gia đình ưu việt Bạch đàn urô trong hai khảo 
nghiệm hậu thế tại Ba Vì và Đông Hà chắc chắn sẽ mang lại tăng thu di truyền 
cao cho các chương trình trồng rừng. Chọn lọc các cá thể ưu trội trong các gia 
đình ưu việt từ hai khảo nghiệm này, nhân giống bằng hữu tính hoặc vô tính cần 
được thực hiện để xây dựng các vườn giống thế hệ sau và phát triển trồng rừng 
dòng vô tính Bạch đàn urô ở nước ta trong thời gian tới. 
3.1.3. Biến dị giữa các dòng vô tính Bạch đàn urô 
Rừng trồng dòng vô tính với việc sử dụng các dòng ưu việt trong trồng 
rừng là một loại hình rừng đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt 
Nam. Phát triển rừng trồng dòng vô tính cũng đòi hỏi sự hiểu biết về biến dị và 
khả năng di truyền để quyết định chiến lược cải thiện giống và chọn lọc dòng vô 
tính, đồng thời dự đoán được tăng thu di truyền có thể nhận được từ việc sử dụng 
61
các dòng vô tính ưu việt (White, 1987; Namkoong et al., 1981; Hodge and 
White, 1992) [83]. Tuy nhiên, các thông tin về biến dị và khả năng di truyền của 
của các dòng vô tính Bạch đàn urô còn rất hạn chế ở cả Việt Nam và trên thế 
giới. 
Tại Việt Nam, trên cơ sở chọn lọc các cây trội Bạch đàn urô tại các khảo 
nghiệm hậu thế thế hệ 1 và thế hệ 2, nhiều dòng vô tính có triển vọng đã được 
chọn lọc và xây dựng khảo nghiệm dòng vô tính tại Nam Đàn – Nghệ An và Ba 
Vì – Hà Nội. Với 50 - 70 dòng tham gia khảo nghiệm, 10 cá thể/ô thí nghiệm và 
được lặp lại 5 lần thì các khảo nghiệm này thực sự rất có giá trị nhằm xác định 
được các dòng ưu việt và khả năng di truyền cho chương trình chọn giống Bạch 
đàn urô ở nước ta. 
Kết quả đánh giá biến dị về sinh trưởng và chất lượng thân cây của các 
dòng vô tính Bạch đàn urô ở giai đoạn 4 tuổi tại Ba Vì và 5 tuổi tại Nam Đàn đều 
cho thấy sinh trưởng và chất lượng thân cây giữa các dòng vô tính Bạch đàn urô 
đã có sự phân hóa rõ rệt (bảng 3.4). Tại Ba Vì, biến động về sinh trưởng giữa các 
dòng là khá lớn, từ 4,6 - 9,4 cm về đường kính, từ 7,2 - 13,9 m về chiều cao, từ 
6,4 - 55,8 dm3/cây về thể tích và từ 39,8 - 191,7 điểm về chỉ tiêu chất lượng thân 
cây tổng hợp. Tại Nam Đàn, biến động về đường kính, chiều cao, thể tích và chỉ 
tiêu chất lượng tổng hợp giữa các dòng tương ứng là từ 9,3 - 12,3 cm, 8,9 - 12,5 
m, 32,2 - 80,0 dm3/cây và 81,1 - 200,3 điểm. Có thể thấy rõ biến động về sinh 
trưởng và chất lượng thân cây giữa các dòng tại Ba Vì lớn hơn nhiều so với biến 
động giữa các dòng tại Nam Đàn, mặc dù sinh trưởng của các dòng Bạch đàn urô 
tại Nam Đàn tốt hơn ở Ba Vì. Do đó việc chọn lọc các dòng ưu việt tại Ba Vì sẽ 
có thể dễ dàng hơn so với chọn lọc các dòng ưu việt tại Nam Đàn. 
62
Bảng 3.4. Sinh trưởng và chất lượng thân cây của các dòng vô tính 
Bạch đàn urô tại Nam Đàn (5 tuổi) và Ba Vì (4 tuổi) 
Các chỉ tiêu sinh trưởng và chất lượng thân cây 
Xếp 
hạng Dòng 
V 
(dm3) Dòng 
Tỷ lệ 
sống 
(%) 
D 
(cm) V % H (m) V %
V 
(dm3) V % 
Icl 
(điểm)
Năng 
suất 
(m3/ha/năm)
Tại Ba Vì Tuổi 3 Tuổi 4 
1 U18 31,2 U18 58,0 9,4 10,8 13,9 7,3 55,8 12,5 191,7 18,4 
2 U11 31,4 U11 52,0 9,3 10,5 14,1 7,7 54,9 11,2 334,8 18,1 
3 U1 27,9 U265 46,0 9,1 10,6 13,7 9,0 49,5 11,3 113,6 16,3 
4 U265 26,9 U1 78,0 9,3 10,8 13,5 8,2 48,4 12,6 247,0 16,0 
5 U4 23,0 U4 92,0 8,1 12,7 13,2 8,8 37,2 14,5 128,4 12,3 
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 
40 UU89 14,5 HatVG 60,0 7,0 18,3 10,1 16,2 23,1 21,6 88,4 7,6 
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 
51 U1394 9,8 PN14 98,0 7,0 15,2 9,2 9,5 19,4 22,6 127,6 6,4 
67 U822 6,4 U1425 48,0 5,5 16,2 7,7 6,3 9,8 28,9 14,0 3,2 
68 U1425 5,5 U822 64,0 5,1 17,0 6,6 9,9 7,4 33,6 26,8 2,4 
69 U1083 4,6 U1088 50,0 4,6 15,3 7,8 7,5 7,1 33,1 60,4 2,3 
70 U1088 3,8 U1083 54,0 4,6 18,0 7,2 7,3 6,4 29,8 39,8 2,1 
Tb 73,0 7,3 10,5 25,4 89,3 8,4 
Fpr <,001 <,001 <,001 <,001 
Lsd 1 1,3 9,5 
Tại Nam Đàn Tuổi 4 Tuổi 5 
1 U1088 59,3 U1088 82,5 12,3 11,6 12,5 9,9 80,0 12,5 200,3 21,1 
2 U821 57,2 U821 75,0 12,3 11,1 12,4 6,4 79,7 10,2 188,0 21,0 
3 U416 54,5 U416 75,0 12,2 11,2 12,7 6,0 77,8 11,8 153,1 20,5 
4 U262 51,8 U262 77,5 12,3 11,2 12,4 6,8 76,5 12,1 139,8 20,2 
5 U348 51,6 U348 55,0 12,3 9,3 12,2 7,5 74,7 10,1 157,4 19,7 
9 U894 46,6 U894 47,5 11,9 11,6 12,3 6,7 72,2 13,3 239,1 19,1 
10 U566 46,6 U267 52,5 12,3 11,4 11,7 8,2 72,0 12,0 202,6 19,0 
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 
21 U6 46,3 U6 67,5 12,0 11,5 10,3 8,2 63,2 13,3 119,0 16,7 
29 Hạt TBVG 37,6 Hạt TBVG 90,0 11,0 14,1 10,1 9,4 49,8 15,9 104,9 13,1 
46 U891 24,5 U834 82,5 9,4 16,6 9,9 9,6 37,0 17,7 68,9 9,8 
47 U411 23,8 U951 80,0 9,6 16,6 9,6 9.5 35,0 15,0 172,1 9,2 
48 U951 23,6 U412 45,0 9,4 17,2 9,6 9,9 34,7 19,0 95,1 9,2 
49 U431 23,4 U431 60,0 9,3 15,9 8,7 10,5 33,4 19,5 45,0 8,9 
50 U412 15,1 U411 90,0 9,3 17,5 8,9 10,6 32,2 19,5 81,1 8,5 
Tb 37,4 62,7 10,9 11,0 55,8 130,3 14,7 
Fpr <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 
Lsd 1,5 0,9 19,0 
63
Số liệu tại bảng 3.4 cũng cho thấy 10 dòng tốt nhất theo xếp hạng thể tích 
thân cây thì cũng là 10 dòng tốt nhất về sinh trưởng đường kính. Trong đó 7 dòng 
nằm trong nhóm 10 dòng tốt nhất về chiều cao. Đại bộ phận những dòng ưu trội 
theo đường kính cũng là những dòng ưu trội theo thể tích. Như vậy việc chọn lọc 
dòng vô tính có sức sinh trưởng tốt có thể được đơn giản hơn, khi mà chỉ cần dựa 
vào chỉ tiêu đường kính. Tại Ba Vì, 5 dòng sinh trưởng nhanh nhất (là các dòng 
U18, U11, U265, U1, và U4) có thể tích thân cây trung bình đạt 49,2 dm3/cây và 
vượt 127,4% so với trung bình toàn thí nghiệm. Nếu so sánh với đối chứng U6 
(xếp thứ 24 trong bảng xếp hạng) thì 5 dòng cũng vượt từ 30,1% tới 95,1% về thể 
tích thân cây. Trong khi đó, 5 dòng ưu việt chọn lọc tại Nam Đàn (U1088, U821, 
U416, U262 và U348) chỉ có độ vượt về thể tích thân cây là 23,0% so với thể tích 
thân cây dòng U6. Do đó cần công nhận các dòng này là các dòng tiến bộ kỹ 
thuật để phát triển ngay vào sản xuất. 
Xem xét thứ tự xếp hạng về sinh trưởng thể tích của các dòng tại Ba Vì ở 
tuổi 3 và 4, và các dòng tại Nam Đàn ở tuổi 4 và 5 cho thấy thứ tự xếp hạng 
không có sự thay đổi đáng kể. Trong số 10 dòng sinh trưởng nhanh nhất về thể 
tích tại tuổi 3 thì chỉ có 9 dòng duy trì được tốc độ sinh trưởng nhanh ở tuổi 4, 
chỉ có 1 dòng khác đã không duy trì được sinh trưởng sau chỉ có 1 năm (bảng 
3.4). Như vậy nhịp điệu sinh trưởng của các dòng Bạch đàn urô trong khảo 
nghiệm tại Ba Vì và Nam Đàn không biến động mạnh. Tuy nhiên, để có kết luận 
chính xác cần phải nghiên cứu kỹ hơn về tương quan giữa tính trạng theo tuổi 
nhằm xác định được nhịp điệu sinh trưởng và tuổi tối ưu cho chọn giống. Ở Bạch 
đàn urô, tuổi tối ưu cho chọn giống các tính trạng sinh trưởng được xác định là 
tuổi 3 (Nguyễn Đức Kiên và công sự, 2009a)[65]. 
64
3.1.4. Biến dị giữa các dòng vô tính Bạch đàn lai UP 
Nghiên cứu lai giống bạch đàn được bắt đầu ở nước ta từ những năm 1990 
với công trình nghiên cứu lai giống một số loài bạch đàn của Lê Đình Khả và 
Nguyễn Việt Cường (2001) [11]. Các tác giả đã nghiên cứu lai giống giữa các loài 
Bạch đàn urô (E. urophylla), Bạch đàn camal (E. camaldulensis) và Bạch đàn liễu 
(E. exserta). Kết quả đánh giá cho thấy các giống lai khác loài giữa các loài bạch 
đàn có sinh trưởng nhanh hơn các loài bố mẹ, đặc biệt là nhanh hơn hẳn so với hậu 
thế thụ phấn tự do của các cây bố mẹ tham gia lai giống. Do vậy các giống lai khác 
loài bạch đàn đã thể hiện ưu thế lai về sinh trưởng rất rõ rệt (Nguyễn Việt Cường, 
2002) [2]. Giống lai giữa Bạch đàn urô và Bạch đàn camal (UC) có sinh trưởng 
nhanh hơn rõ rệt so với giống lai giữa Bạch đàn urô và Bạch đàn liễu (UE hoặc 
EU) trên lập địa có tầng đất sâu, ẩm và giàu dinh dưỡng ở vùng đồng bằng sông 
Hồng, trong khi giống lai UE hoặc EU lại có sinh trưởng tốt hơn giống lai UC trên 
lập địa vùng đồi có tầng đất nông, nghèo dinh dưỡng. 
Do đặc tính sinh trưởng nhanh, hình dạng thân đẹp, gỗ rất phù hợp làm gỗ 
xẻ và có khả năng chống chịu sâu bệnh hại tốt nên Bạch đàn pellita cũng bắt đầu 
được quan tâm trong nghiên cứu lai giống từ năm 2000. Trong khuôn khổ dự án 
Sida - SAREC về nghiên cứu cải thiện giống cây rừng và đề tài “Nghiên cứu chọn 
tạo giống năng suất cao và chất lượng tốt cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu”, 
Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (nay là Viện Nghiên cứu cải thiện giống và 
công nghệ sinh học lâm nghiệp) cũng đã tiến hành lai giống giữa Bạch đàn urô và 
Bạch đàn pellita. Kết quả trong giai đoạn 2005 – 2006 đã tạo ra được hơn 60 tổ 
hợp lai UP (E. urophylla x E. pellita) và PU (E. pellita x E. urophylla). Từ đó một 
số khảo nghiệm hậu thế giống lai đã được xây dựng tại Hà Nội, Nghệ An, Quảng 
Trị và Bình Dương. Trong khuôn khổ của luận án này, hai khảo nghiệm dòng vô 
65
tính Bạch đàn lại UP đầy đủ nhất ở Đông Hà và Ba Vì được sử dụng để đánh giá 
biến dị nhằm chọn ra các dòng UP ưu việt vừa sinh trưởng nhanh và chất lượng gỗ 
phù hợp với công nghiệp đồ gỗ gia dụng và phù hợp với cả ở miền Bắc và miền 
Nam. 
Tại khảo nghiệm dòng vô tính ở Đông Hà, kết quả phân tích thống kê cho 
thấy ở tuổi 5, có sai khác rõ rệt về sinh trưởng cũng như các chỉ tiêu chất lượng 
giữa các dòng với nhau (bảng 3.5). Biến động giữa các dòng Bạch đàn urô và 
dòng Bạch đàn lai UP là rất lớn, từ 24,4 - 114,2 dm3/cây về thể tích thân cây và 
từ 48,6 – 143,0 điểm về chỉ số chất lượng tổng hợp. Trong khi đó, tại khảo 
nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai UP tại Ba Vì, biến động giữa các dòng Bạch 
đàn lai UP chỉ từ 12,1 đến 48,1 dm3/cây về thể tích thân cây tại tuổi 4. Nhưng 
biến động giữa các dòng về chất lượng thân cây tại đây lại lớn hơn nhiều so với 
biến động ở Đông Hà, với biến động về chỉ tiêu chất lượng tổng hợp là từ 26,8 
đến 354,3 điểm. 
Năm dòng sinh trưởng nhanh nhất (dòng UP54, U892, UU39, UP35, và 
U1088) tại Đông Hà có thể tích thân cây trung bình đạt 154,4 dm3/cây sau 5 tuổi, 
vượt 32,1% so với trung bình toàn thí nghiệm, và vượt từ 54,9% tới 127,0% so 
với đối chứng hạt sản xuất đại trà. Trong đó, 5 dòng UP72, UP66, UP99, UP35, 
và UP23 có sinh trưởng nhanh hơn dòng U6 và PN14 tại khảo nghiệm ở Ba Vì. 
Thể tích thân cây trung bình của 5 dòng này đạt 40,0 dm3/cây, và vượt từ 40,0% 
tới 56,3% so với dòng PN14 và dòng U6. Như vậy trong các dòng sinh trưởng 
nhanh tại 2 khảo nghiệm chỉ duy nhất có một dòng UP35 là sinh trưởng tốt trên 
cả 2 lập địa. Tại Đông Hà, dòng U892 tuy là dòng có sinh trưởng nhanh thứ ba 
trong khảo nghiệm tại tuổi 4, nhưng lại là dòng có hình dáng thân không thẳng 
(Icl=112,7 điểm, thấp hơn điểm trung bình toàn khảo nghiệm) 
66
Bảng 3.5. Sinh trưởng và chất lượng thân cây của các dòng vô tính 
Bạch đàn lai UP tại Đông Hà (5 tuổi) và tại Ba Vì (4 tuổi) 
D (cm) H (m) V (dm3/cây) 
STT Dòng 
TB V % TB V % TB V % 
Icl 
(điểm)
Năng 
suất 
(m3/ha/năm) 
Tại Đông Hà (5 tuổi) 
1 UP54 72,5 13,6 7,8 15,2 5,8 114,2 8,4 143,0 30,1 
2 U892 80,0 12,7 9,2 13,7 5,5 89,4 10,1 112,7 23,6 
3 UU39 55,0 12,3 9,4 13,0 6,0 83,0 10,8 135,8 21,9 
4 UP35 72,5 12,5 7,9 12,9 5,9 81,0 10,1 210,2 21,4 
5 U1088 85,0 12,0 9,7 13,6 6,0 77,9 10,8 175,6 20,6 
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 
26 HạtSXĐT 32,5 10,4 11,2 11,1 8,5 50,3 14,0 91,8 13,3 
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 
32 U6 67,5 10,2 13,1 10,0 12,9 45,0 15,5 82,2 11,9 
33 U516 52,5 10,0 14,9 10,3 12,5 43,7 16,1 92,5 11,5 
34 U411 75,0 9,1 14,8 10,5 11,7 36,4 16,4 73,2 9,6 
35 U1083 70,0 9,2 14,6 10,2 11,8 36,2 17,1 82,3 9,6 
36 U532 40,0 8,8 16,2 10,7 12,1 34,1 14,5 69,6 9,0 
37 U342 40,0 7,5 19,3 10,2 11,2 24,4 20,2 48,6 6,4 
Tb 66,1 10,8 11,9 58,8 117,7 15,5 
Fpr <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 
Lsd 1,37 1,25 18,4 
Tại Ba Vì 4 tuổi 
1 UP72 94,0 9,2 10,6 13,2 7,7 48,1 12,2 354.3 21,2 
2 UP66 78,0 8,7 10,4 12,4 8,2 45,2 12,3 143,0 19,9 
3 UP99 90,0 8,8 10,8 13,4 8,6 44,6 12,6 243,7 19,6 
4 UP35 82,0 9,0 11,2 13,0 7,5 43,9 12,6 269,1 19,3 
5 UP23 94,0 8,7 11,5 13,7 7,2 43,1 12,8 287,1 19,0 
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 
24 PN14 82,0 8,0 15,3 10,9 11,3 30,8 16,6 144,8 13,6 
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 
28 U6 78,0 7,9 15,6 9,7 14,4 29,5 18,9 95,9 13,0 
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 
36 UU59 80,0 7,0 16,9 9,7 15,3 20,5 20,1 81,0 9,0 
37 UP47 74,0 6,7 19,4 9,8 16,2 18,9 23,0 167,0 8,3 
38 UP22 62,0 6,1 18,8 10,0 15,3 15,7 20,9 163,0 6,9 
39 UP48 68,0 5,9 20,8 9,7 17,3 14,2 27,3 33,0 6,2 
40 UP52 64,0 5,9 20,8 8,3 17,7 12,1 26,3 26,8 5,3 
Tb 78,0 7,9 11,5 32 142,9 14,1 
Fpr <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 
Lsd 1,2 1,7 13,2 
67
Do vậy cần xem xét khi chọn dòng này để phát triển cho sản xuất trong 
tương lai. Đáng chú ý là trong nhóm các dòng có sinh trưởng nhanh ở khảo 
nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai UP tại Ba Vì lại không có một dòng nào là 
dòng thuần Bạch đàn urô, mặc dù Ba Vì thuộc vùng có điều kiện khá phù hợp 
cho loài Bạch đàn urô (Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình, 2001) [23]. 
3.1.5. Tổng hợp chung các dòng vô tính Bạch urô và Bạch đàn lai UP 
Từ kết quả nghiên cứu về biến dị và khả năng di truyền về sinh trưởng các 
dòng Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP, đã chọn được 11 dòng gồm 10 dòng 
được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật ( 5 dòng UP35; UP72, UP95, UP97 
UP99 ở Ba Vì; 1 dòng UP54 ở Đông Hà; 3 dòng U821, U416, U262 ở Nam Đàn; 
1 dòng U892 ở Đông Hà) và một dòng được công nhận giống Quốc Gia là U1088 
ở Nam Đàn và Đông Hà. 
Hình 3.4: Khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai UP tại Ba Vì (3 tuổi) 
68
3.2. Biến dị về khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng cellulose của Bạch 
đàn urô và Bạch đàn lai UP 
 Bạch đàn urô (E. urophylla) được coi là một trong những loài cây trồng 
rừng chính ở Việt Nam để sản xuất bột giấy, ván dăm và gỗ trụ mỏ, với luân kỳ 
kinh doanh từ 6 đến 8 năm. Các nghiên cứu về cải thiện giống cho loài cây này 
đã được tiến hành và bước đầu đạt được những kết quả rất triển vọng, như đã 
chọn lọc được một số xuất xứ tốt là Lewotobe, Lembata và Egon (Lê Đình Khả 
và cộng sự., 2003) [12]. Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy Phù Ninh cũng đã 
chọn lọc thành công một số dòng Bạch đàn có năng suất vượt 20% đến 40% so 
với giống đại trà. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến cải thiện 
về khả năng sinh trưởng mà chưa chú ý nhiều đến cải thiện về các tính chất gỗ 
như khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng cellulose. 
 Năng suất bột giấy là chỉ tiêu tổng hợp của cả 3 chỉ tiêu thể tích, khối lượng 
riêng của gỗ và hiệu suất bột giấy (Năng suất bột giấy = Thể tích x Khối lượng 
riêng của gỗ x Hiệu suất bột giấy). Do đó chọn lọc về năng suất bột giấy phải kết 
hợp cả 3 chỉ tiêu này. Tuy nhiên, các nghiên cứu cụ thể về giá trị kinh tế 
(economic weight) của từng tính trạng này chưa được thực hiện nên cũng rất khó 
khăn trong chọn lọc năng suất bột giấy dựa vào chỉ số chọn lọc (selection index). 
 Hiệu suất bột giấy ở Bạch đàn urô được tính dựa theo phương trình tương 
quan đã được xác lập giữa hàm lượng cellulose từ lõi khoan và hiệu suất bột giấy 
từ thớt gỗ ở độ cao 1,3m và ghi nhận tương quan giữa hàm lượng cellulose với 
hiệu suất bột giấy là rất chặt (Nguyễn Đức Kiên, 2009a) [65]. Các nghiên cứu về 
sinh trưởng và tính chất gỗ của bạch đàn đến hiệu quả của quá trình sản xuất bột 
giấy cũng đã được nghiên cứu và khẳng định các tính trạng sinh trưởng, khối 
lượng riêng và hiệu suất bột giấy có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả trồng rừng, 
69
cũng như giá thành của quá trình sản xuất bột giấy (Borallho et al. 1993; Greaves 
et al. 1997) [37], [53]. Chọn giống theo sinh trưởng kết hợp giữa các tính trạng 
này là một hướng đi có ý nghĩa trong chọn giống cây rừng. 
 Khối lượng riêng của gỗ có liên quan chặt chẽ với độ cứng và tính chịu lực 
của cây (Zobel và Jacksson (1995)[123]. Xác định khối lượng riêng của gỗ cho 
những khảo nghiệm giống với nhiều gia đình, nhiều dòng, và nhiều cá thể đòi hỏi 
rất tốn kém về thời gian và kinh phí. Do đó, sử dụng Pilodyn để đánh giá nhanh 
khối lượng riêng của gỗ là một trong những phương pháp rất hiệu quả và có ý 
nghĩa thực tiễn trong nghiên cứu chọn tạo giống cây rừng. Phương pháp này đã 
được áp dụng đối với Bạch đàn urô trong các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 1 ở 
Việt Nam, với hệ số tương quan là -0,86 (Nguyễn Đức Kiên, 2008)[64]. Bên 
cạnh đó, luận án còn sử dụng phương pháp nước chiếm chỗ của Olesen (1971) để 
xác định khối lượng riêng của các dòng Bạch đàn lai. 
 Cellulose là thành phần chính của gỗ, chiếm từ 40% đến 50% khối lượng gỗ 
khô kiệt, chúng nằm chủ yếu ở màng thứ cấp của vách tế bào và là thành phần 
chính của bột giấy (chiếm từ 74% đến 86%). Hàm lượng cellulose có tương quan 
chặt tới rất chặt với hiệu suất bột giấy (Wallis et al. 1996) [116], do đó có thể sử 
dụng như là công cụ gián tiếp để đánh giá hiệu suất bột giấy trong các loài cây 
rừng. Hàm lượng cellulose trong luận án này được xác định từ lõi khoan lấy ở độ 
cao 1,3 m bằng phương pháp của Wallis et al. (1997) [117]. Phương pháp này đã 
được sử dụng trong nghiên cứu biến dị di truyền ở các loài bạch đàn E. nitens và 
bạch đàn E. globulus và kết quả cho thấy hàm lượng cellulose có tương quan cao 
với hiệu suất bột giấy của toàn bộ thân cây (Raymond & Schimleck. 2002; 
Schimleck et al. 2004) [94], [97]. Để phục vụ nghiên cứu, trong các khảo nghiệm 
dòng vô tính tại Ba Vì và Đông Hà, nghiên cứu sinh đã thu mẫu ngẫu nhiên 612 
70
cây thuộc 70 dòng Bạch đàn urô, trong đó có 42 dòng Bạch đàn lai tại Ba Vì và 
40 dòng Bạch đàn lai tại Đông Hà. Mẫu gỗ sử dụng cho xác định khối lượng 
riêng của gỗ và xác định hàm lượng cellulose đều được thu riêng rẽ. 
3.2.1. Biến dị về trị số Pilodyn và khối lượng riêng của gỗ 
a.Biến dị trị số Pilodyn giữa các gia đình Bạch đàn urô tại Ba Vì và 
Đông Hà 
 Số liệu ở bảng 3.6 cho thấy chỉ 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_cai_thien_giong_nham_tang_nang_suat_chat.pdf
  • docbia lot.DOC
  • docbia ngoai.DOC
  • docbia TOM TAT LUAN AN.DOC
  • docThongtinlen Mạng.doc
  • doctomtat LA.doc