Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu cải thiện giống nhằm tăng năng suất, chất lượng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực

o với dòng U6 và trung bình toàn khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 ở Đông Hà – Quảng Trị 59 Bảng 3.3. Sinh trưởng và chất lượng thân cây giữa các gia đình Bạch đàn urô tại khảo nghiệm hậu thế thế hệ 2 ở Đông Hà – Quảng Trị (6 tuổi) D (cm) H (m) V (dm3/cây) Xếp hạng Gia đình Nguồn hạt Tỷ lệ sống (%) TB V% TB V% TB V% Icl (điểm) Năng suất (m3/ha/năm) 1 81 Vạn Xuân SSO 37,5 13,3 7,3 14,8 5,6 117,2 8,7 36,1 25,9 2 108 Vạn Xuân SSO 62,5 13,1 7,6 14,4 6,4 113,1 8,9 28,8 25,0 3 76 Vạn Xuân SSO 59,4 13,4 7,9 14,2 7,5 109,8 9,4 32,5 24,3 4 69 Ba Vì SP 53,1 12,9 8,3 13,8 7,8 107,0 10,6 35,5 23,7 5 75 Vạn Xuân SSO 59,4 12,9 8,0 14,0 6,5 104,5 9,5 35,6 23,1 . . . . . . . . 76 97 Vạn Xuân SSO 43,8 9,7 18,5 10,9 13,4 45,7 19,6 22,1 10,1 77 20 Ba Vì SSO 65,6 9,9 18,1 11,3 13,9 45,5 20,5 25,9 10,1 78 PN14 Phù Ninh 46,9 9,4 19,9 10,5 15,2 40,3 24,4 24,9 8,9 79 64 Ba Vì SP 50,0 9,0 22,0 10,4 10,9 38,4 24,2 17,3 8,5 80 U6 Trung Quốc 56,3 8,6 26,1 9,2 20,3 31,5 31,6 20,7 7,0 Trung bình khảo nghiệm 53,8 11,1 12,5 69,6 25,6 15,4 Sắc xuất của F (Fpr.) <0.001 <0.001 <0.001 Khoảng sai dị đảm bảo (Lsd.) 2,0 1,8 32,1 TB 10 gia đình tốt 12,9 13,9 103,2 33,2 22,8 TB 10 gia đình xấu nhất 9,6 11,0 44,5 23,1 9,8 60 Giống như kết quả tại khảo nghiệm ở Ba Vì, các gia đình có sinh trưởng tốt tại Đông Hà là các gia đình có chất lượng thân cây tốt. Điều này có thể kết luận rằng các tính trạng sinh trưởng có thể có tương quan với các tính trạng chất lượng thân cây. Để có kết luận chính xác cần có sự đánh giá tương quan di truyền giữa tính trạng sinh trưởng và chất lượng thân cây. Ở các kết quả nghiên cứu trước đây, biến dị di truyền về sinh trưởng và chất lượng thân cây của Bạch đàn urô đã được ghi nhận biến động từ trung bình tới cao và biến động này tùy thuộc theo từng lập địa (Mori et al., 1988; Kurinobu et al., 1996; Nirsatmanto et al., 1996; Wei & Boralho, 1997; Kube et al., 2001; Raymond and Schimleck, 2002; Arnold & Cuevas, 2003; Xu et al., 2003; Schimleck et al., 2004; Arnold et al., 2004; Nguyễn Đức Kiên et al., 2008; Nguyễn Đức Kiên et al., 2009a) [80], [121], [68], [94], [33], [97], [64], [65]. Như vậy, việc chọn lọc các gia đình ưu việt Bạch đàn urô trong hai khảo nghiệm hậu thế tại Ba Vì và Đông Hà chắc chắn sẽ mang lại tăng thu di truyền cao cho các chương trình trồng rừng. Chọn lọc các cá thể ưu trội trong các gia đình ưu việt từ hai khảo nghiệm này, nhân giống bằng hữu tính hoặc vô tính cần được thực hiện để xây dựng các vườn giống thế hệ sau và phát triển trồng rừng dòng vô tính Bạch đàn urô ở nước ta trong thời gian tới. 3.1.3. Biến dị giữa các dòng vô tính Bạch đàn urô Rừng trồng dòng vô tính với việc sử dụng các dòng ưu việt trong trồng rừng là một loại hình rừng đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam. Phát triển rừng trồng dòng vô tính cũng đòi hỏi sự hiểu biết về biến dị và khả năng di truyền để quyết định chiến lược cải thiện giống và chọn lọc dòng vô tính, đồng thời dự đoán được tăng thu di truyền có thể nhận được từ việc sử dụng 61 các dòng vô tính ưu việt (White, 1987; Namkoong et al., 1981; Hodge and White, 1992) [83]. Tuy nhiên, các thông tin về biến dị và khả năng di truyền của của các dòng vô tính Bạch đàn urô còn rất hạn chế ở cả Việt Nam và trên thế giới. Tại Việt Nam, trên cơ sở chọn lọc các cây trội Bạch đàn urô tại các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 1 và thế hệ 2, nhiều dòng vô tính có triển vọng đã được chọn lọc và xây dựng khảo nghiệm dòng vô tính tại Nam Đàn – Nghệ An và Ba Vì – Hà Nội. Với 50 - 70 dòng tham gia khảo nghiệm, 10 cá thể/ô thí nghiệm và được lặp lại 5 lần thì các khảo nghiệm này thực sự rất có giá trị nhằm xác định được các dòng ưu việt và khả năng di truyền cho chương trình chọn giống Bạch đàn urô ở nước ta. Kết quả đánh giá biến dị về sinh trưởng và chất lượng thân cây của các dòng vô tính Bạch đàn urô ở giai đoạn 4 tuổi tại Ba Vì và 5 tuổi tại Nam Đàn đều cho thấy sinh trưởng và chất lượng thân cây giữa các dòng vô tính Bạch đàn urô đã có sự phân hóa rõ rệt (bảng 3.4). Tại Ba Vì, biến động về sinh trưởng giữa các dòng là khá lớn, từ 4,6 - 9,4 cm về đường kính, từ 7,2 - 13,9 m về chiều cao, từ 6,4 - 55,8 dm3/cây về thể tích và từ 39,8 - 191,7 điểm về chỉ tiêu chất lượng thân cây tổng hợp. Tại Nam Đàn, biến động về đường kính, chiều cao, thể tích và chỉ tiêu chất lượng tổng hợp giữa các dòng tương ứng là từ 9,3 - 12,3 cm, 8,9 - 12,5 m, 32,2 - 80,0 dm3/cây và 81,1 - 200,3 điểm. Có thể thấy rõ biến động về sinh trưởng và chất lượng thân cây giữa các dòng tại Ba Vì lớn hơn nhiều so với biến động giữa các dòng tại Nam Đàn, mặc dù sinh trưởng của các dòng Bạch đàn urô tại Nam Đàn tốt hơn ở Ba Vì. Do đó việc chọn lọc các dòng ưu việt tại Ba Vì sẽ có thể dễ dàng hơn so với chọn lọc các dòng ưu việt tại Nam Đàn. 62 Bảng 3.4. Sinh trưởng và chất lượng thân cây của các dòng vô tính Bạch đàn urô tại Nam Đàn (5 tuổi) và Ba Vì (4 tuổi) Các chỉ tiêu sinh trưởng và chất lượng thân cây Xếp hạng Dòng V (dm3) Dòng Tỷ lệ sống (%) D (cm) V % H (m) V % V (dm3) V % Icl (điểm) Năng suất (m3/ha/năm) Tại Ba Vì Tuổi 3 Tuổi 4 1 U18 31,2 U18 58,0 9,4 10,8 13,9 7,3 55,8 12,5 191,7 18,4 2 U11 31,4 U11 52,0 9,3 10,5 14,1 7,7 54,9 11,2 334,8 18,1 3 U1 27,9 U265 46,0 9,1 10,6 13,7 9,0 49,5 11,3 113,6 16,3 4 U265 26,9 U1 78,0 9,3 10,8 13,5 8,2 48,4 12,6 247,0 16,0 5 U4 23,0 U4 92,0 8,1 12,7 13,2 8,8 37,2 14,5 128,4 12,3 ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 40 UU89 14,5 HatVG 60,0 7,0 18,3 10,1 16,2 23,1 21,6 88,4 7,6 ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 51 U1394 9,8 PN14 98,0 7,0 15,2 9,2 9,5 19,4 22,6 127,6 6,4 67 U822 6,4 U1425 48,0 5,5 16,2 7,7 6,3 9,8 28,9 14,0 3,2 68 U1425 5,5 U822 64,0 5,1 17,0 6,6 9,9 7,4 33,6 26,8 2,4 69 U1083 4,6 U1088 50,0 4,6 15,3 7,8 7,5 7,1 33,1 60,4 2,3 70 U1088 3,8 U1083 54,0 4,6 18,0 7,2 7,3 6,4 29,8 39,8 2,1 Tb 73,0 7,3 10,5 25,4 89,3 8,4 Fpr <,001 <,001 <,001 <,001 Lsd 1 1,3 9,5 Tại Nam Đàn Tuổi 4 Tuổi 5 1 U1088 59,3 U1088 82,5 12,3 11,6 12,5 9,9 80,0 12,5 200,3 21,1 2 U821 57,2 U821 75,0 12,3 11,1 12,4 6,4 79,7 10,2 188,0 21,0 3 U416 54,5 U416 75,0 12,2 11,2 12,7 6,0 77,8 11,8 153,1 20,5 4 U262 51,8 U262 77,5 12,3 11,2 12,4 6,8 76,5 12,1 139,8 20,2 5 U348 51,6 U348 55,0 12,3 9,3 12,2 7,5 74,7 10,1 157,4 19,7 9 U894 46,6 U894 47,5 11,9 11,6 12,3 6,7 72,2 13,3 239,1 19,1 10 U566 46,6 U267 52,5 12,3 11,4 11,7 8,2 72,0 12,0 202,6 19,0 ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 21 U6 46,3 U6 67,5 12,0 11,5 10,3 8,2 63,2 13,3 119,0 16,7 29 Hạt TBVG 37,6 Hạt TBVG 90,0 11,0 14,1 10,1 9,4 49,8 15,9 104,9 13,1 46 U891 24,5 U834 82,5 9,4 16,6 9,9 9,6 37,0 17,7 68,9 9,8 47 U411 23,8 U951 80,0 9,6 16,6 9,6 9.5 35,0 15,0 172,1 9,2 48 U951 23,6 U412 45,0 9,4 17,2 9,6 9,9 34,7 19,0 95,1 9,2 49 U431 23,4 U431 60,0 9,3 15,9 8,7 10,5 33,4 19,5 45,0 8,9 50 U412 15,1 U411 90,0 9,3 17,5 8,9 10,6 32,2 19,5 81,1 8,5 Tb 37,4 62,7 10,9 11,0 55,8 130,3 14,7 Fpr <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 Lsd 1,5 0,9 19,0 63 Số liệu tại bảng 3.4 cũng cho thấy 10 dòng tốt nhất theo xếp hạng thể tích thân cây thì cũng là 10 dòng tốt nhất về sinh trưởng đường kính. Trong đó 7 dòng nằm trong nhóm 10 dòng tốt nhất về chiều cao. Đại bộ phận những dòng ưu trội theo đường kính cũng là những dòng ưu trội theo thể tích. Như vậy việc chọn lọc dòng vô tính có sức sinh trưởng tốt có thể được đơn giản hơn, khi mà chỉ cần dựa vào chỉ tiêu đường kính. Tại Ba Vì, 5 dòng sinh trưởng nhanh nhất (là các dòng U18, U11, U265, U1, và U4) có thể tích thân cây trung bình đạt 49,2 dm3/cây và vượt 127,4% so với trung bình toàn thí nghiệm. Nếu so sánh với đối chứng U6 (xếp thứ 24 trong bảng xếp hạng) thì 5 dòng cũng vượt từ 30,1% tới 95,1% về thể tích thân cây. Trong khi đó, 5 dòng ưu việt chọn lọc tại Nam Đàn (U1088, U821, U416, U262 và U348) chỉ có độ vượt về thể tích thân cây là 23,0% so với thể tích thân cây dòng U6. Do đó cần công nhận các dòng này là các dòng tiến bộ kỹ thuật để phát triển ngay vào sản xuất. Xem xét thứ tự xếp hạng về sinh trưởng thể tích của các dòng tại Ba Vì ở tuổi 3 và 4, và các dòng tại Nam Đàn ở tuổi 4 và 5 cho thấy thứ tự xếp hạng không có sự thay đổi đáng kể. Trong số 10 dòng sinh trưởng nhanh nhất về thể tích tại tuổi 3 thì chỉ có 9 dòng duy trì được tốc độ sinh trưởng nhanh ở tuổi 4, chỉ có 1 dòng khác đã không duy trì được sinh trưởng sau chỉ có 1 năm (bảng 3.4). Như vậy nhịp điệu sinh trưởng của các dòng Bạch đàn urô trong khảo nghiệm tại Ba Vì và Nam Đàn không biến động mạnh. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác cần phải nghiên cứu kỹ hơn về tương quan giữa tính trạng theo tuổi nhằm xác định được nhịp điệu sinh trưởng và tuổi tối ưu cho chọn giống. Ở Bạch đàn urô, tuổi tối ưu cho chọn giống các tính trạng sinh trưởng được xác định là tuổi 3 (Nguyễn Đức Kiên và công sự, 2009a)[65]. 64 3.1.4. Biến dị giữa các dòng vô tính Bạch đàn lai UP Nghiên cứu lai giống bạch đàn được bắt đầu ở nước ta từ những năm 1990 với công trình nghiên cứu lai giống một số loài bạch đàn của Lê Đình Khả và Nguyễn Việt Cường (2001) [11]. Các tác giả đã nghiên cứu lai giống giữa các loài Bạch đàn urô (E. urophylla), Bạch đàn camal (E. camaldulensis) và Bạch đàn liễu (E. exserta). Kết quả đánh giá cho thấy các giống lai khác loài giữa các loài bạch đàn có sinh trưởng nhanh hơn các loài bố mẹ, đặc biệt là nhanh hơn hẳn so với hậu thế thụ phấn tự do của các cây bố mẹ tham gia lai giống. Do vậy các giống lai khác loài bạch đàn đã thể hiện ưu thế lai về sinh trưởng rất rõ rệt (Nguyễn Việt Cường, 2002) [2]. Giống lai giữa Bạch đàn urô và Bạch đàn camal (UC) có sinh trưởng nhanh hơn rõ rệt so với giống lai giữa Bạch đàn urô và Bạch đàn liễu (UE hoặc EU) trên lập địa có tầng đất sâu, ẩm và giàu dinh dưỡng ở vùng đồng bằng sông Hồng, trong khi giống lai UE hoặc EU lại có sinh trưởng tốt hơn giống lai UC trên lập địa vùng đồi có tầng đất nông, nghèo dinh dưỡng. Do đặc tính sinh trưởng nhanh, hình dạng thân đẹp, gỗ rất phù hợp làm gỗ xẻ và có khả năng chống chịu sâu bệnh hại tốt nên Bạch đàn pellita cũng bắt đầu được quan tâm trong nghiên cứu lai giống từ năm 2000. Trong khuôn khổ dự án Sida - SAREC về nghiên cứu cải thiện giống cây rừng và đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống năng suất cao và chất lượng tốt cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu”, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (nay là Viện Nghiên cứu cải thiện giống và công nghệ sinh học lâm nghiệp) cũng đã tiến hành lai giống giữa Bạch đàn urô và Bạch đàn pellita. Kết quả trong giai đoạn 2005 – 2006 đã tạo ra được hơn 60 tổ hợp lai UP (E. urophylla x E. pellita) và PU (E. pellita x E. urophylla). Từ đó một số khảo nghiệm hậu thế giống lai đã được xây dựng tại Hà Nội, Nghệ An, Quảng Trị và Bình Dương. Trong khuôn khổ của luận án này, hai khảo nghiệm dòng vô 65 tính Bạch đàn lại UP đầy đủ nhất ở Đông Hà và Ba Vì được sử dụng để đánh giá biến dị nhằm chọn ra các dòng UP ưu việt vừa sinh trưởng nhanh và chất lượng gỗ phù hợp với công nghiệp đồ gỗ gia dụng và phù hợp với cả ở miền Bắc và miền Nam. Tại khảo nghiệm dòng vô tính ở Đông Hà, kết quả phân tích thống kê cho thấy ở tuổi 5, có sai khác rõ rệt về sinh trưởng cũng như các chỉ tiêu chất lượng giữa các dòng với nhau (bảng 3.5). Biến động giữa các dòng Bạch đàn urô và dòng Bạch đàn lai UP là rất lớn, từ 24,4 - 114,2 dm3/cây về thể tích thân cây và từ 48,6 – 143,0 điểm về chỉ số chất lượng tổng hợp. Trong khi đó, tại khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai UP tại Ba Vì, biến động giữa các dòng Bạch đàn lai UP chỉ từ 12,1 đến 48,1 dm3/cây về thể tích thân cây tại tuổi 4. Nhưng biến động giữa các dòng về chất lượng thân cây tại đây lại lớn hơn nhiều so với biến động ở Đông Hà, với biến động về chỉ tiêu chất lượng tổng hợp là từ 26,8 đến 354,3 điểm. Năm dòng sinh trưởng nhanh nhất (dòng UP54, U892, UU39, UP35, và U1088) tại Đông Hà có thể tích thân cây trung bình đạt 154,4 dm3/cây sau 5 tuổi, vượt 32,1% so với trung bình toàn thí nghiệm, và vượt từ 54,9% tới 127,0% so với đối chứng hạt sản xuất đại trà. Trong đó, 5 dòng UP72, UP66, UP99, UP35, và UP23 có sinh trưởng nhanh hơn dòng U6 và PN14 tại khảo nghiệm ở Ba Vì. Thể tích thân cây trung bình của 5 dòng này đạt 40,0 dm3/cây, và vượt từ 40,0% tới 56,3% so với dòng PN14 và dòng U6. Như vậy trong các dòng sinh trưởng nhanh tại 2 khảo nghiệm chỉ duy nhất có một dòng UP35 là sinh trưởng tốt trên cả 2 lập địa. Tại Đông Hà, dòng U892 tuy là dòng có sinh trưởng nhanh thứ ba trong khảo nghiệm tại tuổi 4, nhưng lại là dòng có hình dáng thân không thẳng (Icl=112,7 điểm, thấp hơn điểm trung bình toàn khảo nghiệm) 66 Bảng 3.5. Sinh trưởng và chất lượng thân cây của các dòng vô tính Bạch đàn lai UP tại Đông Hà (5 tuổi) và tại Ba Vì (4 tuổi) D (cm) H (m) V (dm3/cây) STT Dòng TB V % TB V % TB V % Icl (điểm) Năng suất (m3/ha/năm) Tại Đông Hà (5 tuổi) 1 UP54 72,5 13,6 7,8 15,2 5,8 114,2 8,4 143,0 30,1 2 U892 80,0 12,7 9,2 13,7 5,5 89,4 10,1 112,7 23,6 3 UU39 55,0 12,3 9,4 13,0 6,0 83,0 10,8 135,8 21,9 4 UP35 72,5 12,5 7,9 12,9 5,9 81,0 10,1 210,2 21,4 5 U1088 85,0 12,0 9,7 13,6 6,0 77,9 10,8 175,6 20,6 ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 26 HạtSXĐT 32,5 10,4 11,2 11,1 8,5 50,3 14,0 91,8 13,3 ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 32 U6 67,5 10,2 13,1 10,0 12,9 45,0 15,5 82,2 11,9 33 U516 52,5 10,0 14,9 10,3 12,5 43,7 16,1 92,5 11,5 34 U411 75,0 9,1 14,8 10,5 11,7 36,4 16,4 73,2 9,6 35 U1083 70,0 9,2 14,6 10,2 11,8 36,2 17,1 82,3 9,6 36 U532 40,0 8,8 16,2 10,7 12,1 34,1 14,5 69,6 9,0 37 U342 40,0 7,5 19,3 10,2 11,2 24,4 20,2 48,6 6,4 Tb 66,1 10,8 11,9 58,8 117,7 15,5 Fpr <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 Lsd 1,37 1,25 18,4 Tại Ba Vì 4 tuổi 1 UP72 94,0 9,2 10,6 13,2 7,7 48,1 12,2 354.3 21,2 2 UP66 78,0 8,7 10,4 12,4 8,2 45,2 12,3 143,0 19,9 3 UP99 90,0 8,8 10,8 13,4 8,6 44,6 12,6 243,7 19,6 4 UP35 82,0 9,0 11,2 13,0 7,5 43,9 12,6 269,1 19,3 5 UP23 94,0 8,7 11,5 13,7 7,2 43,1 12,8 287,1 19,0 ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 24 PN14 82,0 8,0 15,3 10,9 11,3 30,8 16,6 144,8 13,6 ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 28 U6 78,0 7,9 15,6 9,7 14,4 29,5 18,9 95,9 13,0 ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... 36 UU59 80,0 7,0 16,9 9,7 15,3 20,5 20,1 81,0 9,0 37 UP47 74,0 6,7 19,4 9,8 16,2 18,9 23,0 167,0 8,3 38 UP22 62,0 6,1 18,8 10,0 15,3 15,7 20,9 163,0 6,9 39 UP48 68,0 5,9 20,8 9,7 17,3 14,2 27,3 33,0 6,2 40 UP52 64,0 5,9 20,8 8,3 17,7 12,1 26,3 26,8 5,3 Tb 78,0 7,9 11,5 32 142,9 14,1 Fpr <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 Lsd 1,2 1,7 13,2 67 Do vậy cần xem xét khi chọn dòng này để phát triển cho sản xuất trong tương lai. Đáng chú ý là trong nhóm các dòng có sinh trưởng nhanh ở khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai UP tại Ba Vì lại không có một dòng nào là dòng thuần Bạch đàn urô, mặc dù Ba Vì thuộc vùng có điều kiện khá phù hợp cho loài Bạch đàn urô (Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình, 2001) [23]. 3.1.5. Tổng hợp chung các dòng vô tính Bạch urô và Bạch đàn lai UP Từ kết quả nghiên cứu về biến dị và khả năng di truyền về sinh trưởng các dòng Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP, đã chọn được 11 dòng gồm 10 dòng được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật ( 5 dòng UP35; UP72, UP95, UP97 UP99 ở Ba Vì; 1 dòng UP54 ở Đông Hà; 3 dòng U821, U416, U262 ở Nam Đàn; 1 dòng U892 ở Đông Hà) và một dòng được công nhận giống Quốc Gia là U1088 ở Nam Đàn và Đông Hà. Hình 3.4: Khảo nghiệm dòng vô tính Bạch đàn lai UP tại Ba Vì (3 tuổi) 68 3.2. Biến dị về khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng cellulose của Bạch đàn urô và Bạch đàn lai UP Bạch đàn urô (E. urophylla) được coi là một trong những loài cây trồng rừng chính ở Việt Nam để sản xuất bột giấy, ván dăm và gỗ trụ mỏ, với luân kỳ kinh doanh từ 6 đến 8 năm. Các nghiên cứu về cải thiện giống cho loài cây này đã được tiến hành và bước đầu đạt được những kết quả rất triển vọng, như đã chọn lọc được một số xuất xứ tốt là Lewotobe, Lembata và Egon (Lê Đình Khả và cộng sự., 2003) [12]. Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy Phù Ninh cũng đã chọn lọc thành công một số dòng Bạch đàn có năng suất vượt 20% đến 40% so với giống đại trà. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến cải thiện về khả năng sinh trưởng mà chưa chú ý nhiều đến cải thiện về các tính chất gỗ như khối lượng riêng của gỗ và hàm lượng cellulose. Năng suất bột giấy là chỉ tiêu tổng hợp của cả 3 chỉ tiêu thể tích, khối lượng riêng của gỗ và hiệu suất bột giấy (Năng suất bột giấy = Thể tích x Khối lượng riêng của gỗ x Hiệu suất bột giấy). Do đó chọn lọc về năng suất bột giấy phải kết hợp cả 3 chỉ tiêu này. Tuy nhiên, các nghiên cứu cụ thể về giá trị kinh tế (economic weight) của từng tính trạng này chưa được thực hiện nên cũng rất khó khăn trong chọn lọc năng suất bột giấy dựa vào chỉ số chọn lọc (selection index). Hiệu suất bột giấy ở Bạch đàn urô được tính dựa theo phương trình tương quan đã được xác lập giữa hàm lượng cellulose từ lõi khoan và hiệu suất bột giấy từ thớt gỗ ở độ cao 1,3m và ghi nhận tương quan giữa hàm lượng cellulose với hiệu suất bột giấy là rất chặt (Nguyễn Đức Kiên, 2009a) [65]. Các nghiên cứu về sinh trưởng và tính chất gỗ của bạch đàn đến hiệu quả của quá trình sản xuất bột giấy cũng đã được nghiên cứu và khẳng định các tính trạng sinh trưởng, khối lượng riêng và hiệu suất bột giấy có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả trồng rừng, 69 cũng như giá thành của quá trình sản xuất bột giấy (Borallho et al. 1993; Greaves et al. 1997) [37], [53]. Chọn giống theo sinh trưởng kết hợp giữa các tính trạng này là một hướng đi có ý nghĩa trong chọn giống cây rừng. Khối lượng riêng của gỗ có liên quan chặt chẽ với độ cứng và tính chịu lực của cây (Zobel và Jacksson (1995)[123]. Xác định khối lượng riêng của gỗ cho những khảo nghiệm giống với nhiều gia đình, nhiều dòng, và nhiều cá thể đòi hỏi rất tốn kém về thời gian và kinh phí. Do đó, sử dụng Pilodyn để đánh giá nhanh khối lượng riêng của gỗ là một trong những phương pháp rất hiệu quả và có ý nghĩa thực tiễn trong nghiên cứu chọn tạo giống cây rừng. Phương pháp này đã được áp dụng đối với Bạch đàn urô trong các khảo nghiệm hậu thế thế hệ 1 ở Việt Nam, với hệ số tương quan là -0,86 (Nguyễn Đức Kiên, 2008)[64]. Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng phương pháp nước chiếm chỗ của Olesen (1971) để xác định khối lượng riêng của các dòng Bạch đàn lai. Cellulose là thành phần chính của gỗ, chiếm từ 40% đến 50% khối lượng gỗ khô kiệt, chúng nằm chủ yếu ở màng thứ cấp của vách tế bào và là thành phần chính của bột giấy (chiếm từ 74% đến 86%). Hàm lượng cellulose có tương quan chặt tới rất chặt với hiệu suất bột giấy (Wallis et al. 1996) [116], do đó có thể sử dụng như là công cụ gián tiếp để đánh giá hiệu suất bột giấy trong các loài cây rừng. Hàm lượng cellulose trong luận án này được xác định từ lõi khoan lấy ở độ cao 1,3 m bằng phương pháp của Wallis et al. (1997) [117]. Phương pháp này đã được sử dụng trong nghiên cứu biến dị di truyền ở các loài bạch đàn E. nitens và bạch đàn E. globulus và kết quả cho thấy hàm lượng cellulose có tương quan cao với hiệu suất bột giấy của toàn bộ thân cây (Raymond & Schimleck. 2002; Schimleck et al. 2004) [94], [97]. Để phục vụ nghiên cứu, trong các khảo nghiệm dòng vô tính tại Ba Vì và Đông Hà, nghiên cứu sinh đã thu mẫu ngẫu nhiên 612 70 cây thuộc 70 dòng Bạch đàn urô, trong đó có 42 dòng Bạch đàn lai tại Ba Vì và 40 dòng Bạch đàn lai tại Đông Hà. Mẫu gỗ sử dụng cho xác định khối lượng riêng của gỗ và xác định hàm lượng cellulose đều được thu riêng rẽ. 3.2.1. Biến dị về trị số Pilodyn và khối lượng riêng của gỗ a.Biến dị trị số Pilodyn giữa các gia đình Bạch đàn urô tại Ba Vì và Đông Hà Số liệu ở bảng 3.6 cho thấy chỉ
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_cai_thien_giong_nham_tang_nang_suat_chat.pdf
bia lot.DOC
bia ngoai.DOC
bia TOM TAT LUAN AN.DOC
Thongtinlen Mạng.doc
tomtat LA.doc