Luận án Nghiên cứu cải thiện sinh kế trong khai thác hải sản đối với ngư dân vùng ven biển Thành phố Hải Phòng

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu cải thiện sinh kế trong khai thác hải sản đối với ngư dân vùng ven biển Thành phố Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu cải thiện sinh kế trong khai thác hải sản đối với ngư dân vùng ven biển Thành phố Hải Phòng

82 đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ, trong đó có cả chính sách hỗ trợ về tài chính, lãi suất tín dụng. Theo Quyết định 289/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Tp. Hải Phòng đã hỗ trợ với tổng kinh phí là 54,729 tỷ đồng cho 3.735 tàu cá. Tuy nhiên thực tế điều tra cho thấy, việc tiếp cận và được nhận các khoản tiền hỗ trợ là rất khó khăn do có nhiều thủ tục, quy định khó thực hiện. Kể cả khi tiếp cận được thì mức tiền hỗ trợ cũng ở mức thấp, khó có thể giúp ngư dân tạo được bước đột phá trong cải thiện sinh kế của mình. Hầu hết ngư dân đều cho rằng chính sách còn dàn trải, thiếu tập trung, hiệu quả mang lại không cao, chưa thực sự giúp họ cải thiện được tình hình. Điển hình như chính sách theo Quyết định số 289/QĐ-TTg, số tiền ngư dân được hỗ trợ chỉ từ 10 - 20 triệu đồng. Về các chính sách hỗ trợ khác, số tàu cá, ngư dân được hưởng còn rất ít so với yêu cầu thực tế. 4.2.6. Đánh giá về các nguồn lực sinh kế trong khai thác hải sản đối với ngư dân - So sánh nguồn lực sinh kế giữa ngư dân là chủ tàu và ngư dân làm thuê Sự khác nhau về nguồn lực sinh kế tương đối rõ giữa các nhóm đối tượng ngư dân. Ngoài yếu tố năng lực trình độ, điều kiện vật chất, tài chính, quan hệ xã hội kém hơn so với ngư dân là chủ tàu, ngư dân là lao động làm thuê thường ít được hưởng các chính sách hỗ trợ về vật chất, tài chính, tín dụng do hầu hết các chính sách được ban hành đều mới chỉ tập trung vào các đối tượng ngư dân có tàu khai thác với tiêu chí căn cứ chủ yếu là công suất tàu (Bảng 4.17). Bảng 4.17. So sánh nguồn lực sinh kế của ngư dân chủ tàu và ngư dân làm thuê Nguồn lực sinh kế Ngư dân là chủ tàu Ngư dân là lao động làm thuê Con người - Trình độ học vấn cao hơn - Có kinh nghiệm khai thác - Có kinh nghiệm quản lý - Cơ bản được đào tạo chuyên môn - Trình độ học vấn thấp hơn - Có kinh nghiệm khai thác - Ít có kinh nghiệm quản lý - Ít được đào tạo chuyên môn Tự nhiên - Chủ động tiếp cận và khai thác - Thông qua chủ tàu Vật chất - Sở hữu tàu khai thác - Được hưởng lợi từ chính sách đầu tư, hỗ trợ vật chất của Nhà nước nhiều hơn - Chịu rủi ro - Không có tàu - Không được hưởng lợi từ chính sách đầu tư, hỗ trợ vật chất của Nhà nước - Ít chịu rủi ro Tài chính - Tiềm lực kinh tế khá hơn - Phải bỏ vốn đầu tư - Thu nhập cao hơn - Được hưởng lợi từ chính sách hỗ trợ của Nhà nước - Rủi ro tài chính cao - Có mua bảo hiểm thuyền viên - Tiềm lực kinh tế kém hơn - Không mất vốn đầu tư - Thu nhập thấp hơn - Ít được hưởng lợi từ chính sách hỗ trợ của Nhà nước - Ít bị rủi ro tài chính - Ít có bảo hiểm thuyền viên Xã hội - Quan hệ xã hội rộng hơn - Có vị thế hơn - Ít quan hệ xã hội - Bị yếu thế hơn 83 - So sánh nguồn lực sinh kế giữa ngư dân khai thác xa bờ và ngư dân khai thác gần bờ So sánh giữa nhóm ngư dân khai thác xa bờ và khai thác gần bờ cho thấy, với ngư dân là chủ tàu khai thác xa bờ thường có kinh nghiệm khai thác, trình độ quản lý tốt hơn; điều kiện về vật chất, tàu thuyền tốt hơn; có tiềm lực kinh tế hơn; quan hệ xã hội tốt hơn so với ngư dân là chủ tàu khai thác gần bờ. Bảng 4.18. So sánh nguồn lực sinh kế của ngư dân khai thác xa bờ và ngư dân khai thác gần bờ Đối tượng Nguồn lực sinh kế Ngư dân khai thác xa bờ Ngư dân khai thác gần bờ N g ư d ân l à ch ủ t àu Con người - Trình độ học vấn cao hơn - Có kinh nghiệm khai thác - Có kinh nghiệm quản lý - Cơ bản được đào tạo chuyên môn - Trình độ học vấn thấp hơn - Có kinh nghiệm khai thác - Ít có kinh nghiệm quản lý - Ít được đào tạo chuyên môn Tự nhiên - Tiếp cận, khai thác tốt hơn - Tiếp cận, khai thác hạn chế hơn Vật chất - Tàu thuyền công suất lớn hơn - Được hưởng lợi nhiều hơn từ chính sách đầu tư công - Tàu thuyền công suất nhỏ hơn - Ít được hưởng lợi từ chính sách đầu tư công Tài chính - Tiềm lực kinh tế khá hơn - Thuận lợi khi vay vốn - Tham gia bảo hiểm - Hưởng lợi nhiều hơn từ chính sách - Tiềm lực kinh tế kém hơn - Khó khăn khi vay vốn - Ít tham gia bảo hiểm - Ít được hưởng lợi từ chính sách Xã hội - Quan hệ xã hội tốt hơn - Vay vốn thuận lợi hơn - Quan hệ xã hội bị hạn chế - Khó khăn vay vốn N g ư d ân l à la o đ ộ n g l àm t h u ê Con người - Có kinh nghiệm khai thác xa bờ - Hạn chế hơn Tự nhiên - Không trực tiếp - Không trực tiếp Vật chất - Không có tàu - Không có tàu Tài chính - Khó khăn tài chính - Tiền công cao hơn - Khó khăn tài chính - Tiền công thấp hơn Xã hội - Quan hệ xã hội bị hạn chế - Khó khăn vay vốn - Quan hệ xã hội bị hạn chế - Khó khăn vay vốn Đặc biệt xu hướng gần đây, do chủ trương không khuyến khích phát triển khai thác gần bờ nên các chính sách chủ yếu hướng tới ưu tiên ngư dân có tàu công 84 suất lớn, khai thác xa bờ. Do vậy chủ tàu gần bờ cũng ít được hưởng lợi trong chính sách. Ngư dân làm thuê nhóm khai thác xa bờ và gần bờ có điểm chung là hầu hết đều có hoàn cảnh khó khăn, không có tàu thuyền, việc tiếp cận nguồn lực tự nhiên phải thông qua các chủ tàu, bị chủ tàu kiểm soát, quan hệ xã hội hạn chế. Ngư dân làm thuê trên tàu khai thác xa bờ được đánh giá tốt hơn ở chỗ là họ có kinh nghiệm, trình độ khai thác, kỹ năng đi biển tốt hơn, đồng thời có thu nhập tốt hơn so với nhóm ngư dân làm thuê trên các tàu gần bờ (Bảng 4.18). - Sự chuyển hóa và điểm khởi đầu của các nguồn lực sinh kế Từ thực tế nghiên cứu cho thấy, 5 nguồn lực sinh kế được phân tích trên có mối quan hệ mật thiết, chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó, nguồn lực con người và nguồn lực tài chính được coi là hai nguồn lực đặc biệt quan trọng và có thể được xem là điểm bắt đầu để cải thiện các nguồn lực sinh kế còn lại đối với ngư dân. Trước hết, về nguồn lực con người, nếu không có sức khỏe, kinh nghiệm, kỹ năng đi biển, kỹ thuật khai thác chắc chắn ngư dân sẽ không thể tham gia nghề khai thác hải sản. Trước đây, khi nguồn lực tự nhiên dồi dào, ngư dân chỉ cần có sức khỏe, kinh nghiệm khai thác, với nguồn lực vật chất đơn giản như thuyền nan, bẫy, đăng... là có thể thực hiện chiến lược sinh kế kiếm sống. Tuy nhiên với xu hướng hiện nay, khi nguồn lợi ngày một cạn kiệt, cạnh tranh khai thác ngày một cao, khoa học ứng dụng vào trong khai thác hải sản ngày một phát triển đòi hỏi ngư dân càng phải có trình độ nhất định mới có thể tiếp cận, sử dụng công nghệ ứng dụng đó, đồng thời biết cách tổ chức sản xuất khai thác hiệu quả và khai thác hợp lý nguồn lợi hải sản. Như vậy, nguồn lực con người tốt sẽ đồng nghĩa với việc sẽ là “điểm khởi đầu” tạo ra được nguồn lực xã hội tốt, bảo vệ và phát triển được nguồn lực tự nhiên, bảo đảm sự phát triển sinh kế bền vững trong tương lai. Nguồn lực tài chính được xem là quan trọng, giúp ngư dân thực hiện các hoạt động sinh kế của mình. Nếu có được nguồn lực tài chính tốt, ngư dân sẽ biết cách đầu tư đóng mới, cải hoán nâng cấp tàu thuyền, mua sắm các trang thiết bị khai thác, bảo đảm an toàn hàng hải trong khai thác, chủ động phát triển khai thác xa bờ, thay bằng phải khai thác gần bờ, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, vừa góp phần bảo vệ và phát triển bền vững nguồn lợi hải sản. Như vậy, bảo đảm tốt nguồn lực tài chính cho ngư dân sẽ là “điểm khởi đầu” để chuyển hóa tạo ra nguồn lực vật chất tốt và nguồn lực tự nhiên bền vững. 85 4.3. TỔ CHỨC, ĐỊNH CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH CẢI THIỆN SINH KẾ TRONG KHAI THÁC HẢI SẢN ĐỐI VỚI NGƯ DÂN VÙNG VEN BIỂN 4.3.1. Các tổ chức 4.3.1.1. Tổ chức quản lý Nhà nước UBND Tp. Hải Phòng được giao quản lý khai thác hải sản cấp thành phố; giúp việc cho UBND thành phố là sở NN&PTNT. Trực thuộc sở NN&PTNT có các phòng, chi cục chức năng chuyên môn, trong đó Chi cục KT&BVNLTS có chức năng tham mưu, giúp việc cho sở NN&PTNT về lĩnh vực khai thác và bảo vệ nguồn lợi hải sản và các chính sách hỗ trợ cho ngư dân. Ở cấp quận, huyện, công tác quản lý khai thác hải sản, tàu cá, ngư dân được giao cho phòng NN&PTNT hoặc phòng Kinh tế. Ở cấp xã, phường giao cho một Phó Chủ tịch hoặc một cán bộ của UBND phụ trách (Hình 4.2). Hình 4.2. Tổ chức quản lý ngành thủy sản của thành phố Hải Phòng Sở NN&PTNT Phòng NTTS Chi cục KT&BVNLTS Chi cục quản lý chất lượng nông, lâm và thủy sản Chi cục Thú y Phòng NN&PTNT, Phòng Kinh tế quận, huyện UBND xã, phường, thị trấn Bộ NN&PTNT UBND Tp. Hải Phòng Các tổ chức ngư dân Ngư dân Ngư dân Chính phủ 86 4.3.1.2. Tổ chức ngư dân - Hội Nghề cá Hải Phòng là một trong những hội hoạt động mạnh trong các tỉnh trọng điểm miền Bắc, với gần 3.000 hội viên. Hoạt động của hội viên luôn gắn với việc làm chủ sản xuất, làm chủ khai thác, nuôi trồng gắn với tái tạo và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Ở cấp cơ sở, qua khảo sát điều tra cho thấy, hầu hết ngư dân đều có tham gia tổ chức này. - Nghiệp đoàn nghề cá: Nghiệp đoàn nghề cá Việt Nam là tổ chức thuộc Công đoàn ngành Nông nghiệp và PTNT. Nghiệp đoàn cùng với Liên đoàn Lao động các địa phương cùng ngư dân, giúp đỡ, hỗ trợ ngư dân tổ chức lại sản xuất, giải quyết hài hòa quan hệ, lợi ích giữa chủ tàu và người lao động, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên biển. Tại Hải Phòng, Nghiệp đoàn nghề cá Ngọc Hải (Đồ Sơn) là nghiệp đoàn nghề cá đầu tiên được thành lập (tháng 12/2014) trực thuộc Liên đoàn Lao động quận Đồ Sơn, gồm 49 tàu và 161 ngư dân trên địa bàn phường Ngọc Hải tham gia. - Liên tập đoàn đánh cá, hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác: Điển hình về mô hình khai thác hải sản của Hải Phòng là Liên tập đoàn đánh cá Nam Triệu ở Thủy Nguyên (tiền thân là Tập đoàn đánh cá Lập Lễ), trong đó có hai HTX là HTX khai thác dịch vụ thủy sản Số 1 và HTX đóng mới, sửa chữa tàu thuyền. Tập đoàn có tổng số 793 tàu, trong đó có 702 chiếc tàu khai thác, 86 tàu làm dịch vụ là và 5 tàu vận tải; tàu có công suất trên 90 CV là 215 chiếc, chiếm 21,1%. Lao động khai thác hải sản của tập đoàn hầu hết đều là những ngư dân có kinh nghiệm; chủ tàu và lái tàu đều có bằng thuyền trưởng, máy trưởng. Bảng 4.19. Số tổ, đội khai thác hải sản của thành phố Hải Phòng năm 2013 TT Địa phương Số tổ (tổ) Số tàu (tàu) Số LĐ (lao động) 1 Đại Hợp (Kiến Thụy) 12 87 710 2 Ngọc Hải (Đồ Sơn) 12 76 678 3 Lập Lễ (Thủy Nguyên) 20 109 547 4 Phả Lễ (Thủy Nguyên) 08 48 244 5 Phù Long (Cát Hải) 0 0 0 Toàn thành phố 52 320 2.179 87 Trong hoạt động khai thác, các chủ tàu thường liên kết lại với nhau tạo thành các tổ đội khai thác. Tuy nhiên, hầu hết các tổ đội được thành lập không chính thức, ít công bố hay báo cáo chính thức với các tổ chức chính quyền (đối với tổ, đội thành lập chính thức được UBND xã, phường ra quyết định thành lập). Chính vì vậy, theo báo cáo của sở NN&PTNT Tp. Hải Phòng (2014), tổng số tàu thuyền tham gia khai thác theo mô hình tổ, đội này trong toàn Thành phố mới chỉ có 52 tổ, đội với 320 tàu tham gia, chiếm tỷ lệ chưa đến 10%, trong đó chủ yếu được thành lập ở những địa phương có nhiều tàu khai thác xa bờ như Lập Lễ, Ngọc Hải, Đại Hợp, còn đối với những nơi như Phù Long không có mô hình tổ chức sản xuất này (Bảng 4.19). 4.3.1.3. Các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp liên quan Đóng trên địa bàn Tp. Hải Phòng có 4 trường đại học; 12 trường cao đẳng; 45 cơ sở đào tạo nghề hệ trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật; 3 viện nghiên cứu trực thuộc Trung ương, trong đó có nhiều trường đào tạo chuyên ngành liên quan trực tiếp đến các nghề đi biển như Đại học Hàng hải Việt Nam, Cao đẳng nghề thủy sản miền Bắc; Đài Thông tin vệ tinh INMARSAT Hải Phòng; Đài Thông tin duyên hải Hải Phòng; Đài Thông tin duyên hải Bạch Long Vỹ và trên 50 cơ sở chế biến, kinh doanh và bảo quản thủy sản (có giấy đăng ký kinh doanh), trong đó có một số doanh nghiệp lớn như Công ty thủy sản Hạ Long (thuộc Tổng Công ty Thủy sản Việt Nam), Công ty 128 (thuộc Bộ Tư lệnh Hải Quân). Hoạt động của các cơ quan, đơn vị này ảnh hưởng nhất định đến hoạt động sinh kế của ngư dân vùng ven biển Hải Phòng, góp phần giúp ngư dân tăng thêm các nguồn lực sinh kế, nguồn lực xã hội, đồng thời giúp ngư dân né tránh, hạn chế được các tác động ảnh hưởng tiêu cực của môi trường dễ bị tổn thương. Điển hình như Viện Nghiên cứu Hải sản đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong thảo lĩnh vực khai thác hải sản cho Tp. Hải Phòng. Viện đã xây dựng các bản dự báo ngư trường khai thác hải sản ngắn hạn ở vùng biển Hải Phòng và lân cận. Hải Phòng là địa phương đầu tiên trong cả nước áp dụng quy trình dự báo ngư trường cấp vùng, địa phương; xây dựng quy trình công nghệ dự báo ngư trường khai thác hải sản ngắn hạn (1 tháng hoặc 10 ngày) với phạm vi không gian hẹp hơn (15x15 hải lý) cho 3 nghề khai thác chính ở vùng biển Hải Phòng và lân cận là nghề lưới rê, lưới kéo và chụp mực. 88 4.3.2. Các định chế, chính sách 4.3.2.1. Chính sách tín dụng Thực hiện chính sách hỗ trợ tín dụng cho ngư dân, UBND Tp. Hải Phòng (2010, 2011) đã ban hành Quyết định 1356/QĐ-UBND và Quyết định số 1076/2011/QĐ-UBND về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủy sản Thành phố giai đoạn 2011 - 2013. Theo đó, hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay đóng mới, cải hoán tàu khai thác hải sản vùng biển xa trong thời gian 3 năm; mức vay đối với đóng mới là 400 triệu đồng, cải hoán là 250 triệu đồng. Bên cạnh thực hiện chính sách tín dụng trên, Tp. Hải Phòng chỉ đạo các sở ngành, địa phương triển khai thực hiện một số chính sách tín dụng khác cho ngư dân như theo Nghị quyết số 48/NQ-CP của Chính phủ về cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản (Chính phủ, 2009b); Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn (Chính phủ, 2010c), Quyết định 63/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 65/2011/QĐ- TTg về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản (Thủ tướng Chính phủ, 2010d, 2011b). Tuy nhiên, trong triển khai thực hiện có nhiều bất cập. Theo Quy định của Quyết định 63/2010/QĐ-TTg và Quyết định 65/2011/QĐ-TTg, yêu cầu các máy móc, thiết bị được hỗ trợ phải đảm bảo yếu tố nội địa hóa 60% trở lên mới được hỗ trợ, nên hầu hết ngư dân không tiếp cận được chính sách này vì không đáp ứng được điều kiện. Mặc dù đã được sửa đổi và thay thế bằng Quyết định 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013, nhưng việc triển khai chính sách này vẫn còn những bất cập như việc quy định đối tượng chỉ là hộ, liên hộ, chưa tính đến doanh nghiệp; lãi suất tín dụng còn cao so với mặt bằng lãi suất vay thương mại. Theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP, việc quy định đối tượng phải là hộ gia đình, hộ kinh doanh trên địa bàn nông thôn là chưa phù hợp, dẫn đến ngư dân trên địa bàn các phường, thị trấn không được hưởng chính sách này. Về quy định mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với đối tượng là các cá nhân, hộ sản xuất và các HTX nhưng trong thực tế hầu hết các tổ chức tín dụng khi làm thủ tục cho ngư dân vay vẫn yêu cầu phải có tài sản thế chấp (Nghị định này được thay thế bởi Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015). 4.3.2.2. Chính sách hỗ trợ trang thiết bị Với chính sách hỗ trợ trang thiết bị thông tin và giám sát hoạt động của tàu 89 cá trên biển, Tp. Hải Phòng đã triển khai đầu tư xây dựng trạm bờ máy thông tin liên lạc tầm xa sóng HF, hỗ trợ lắp máy thông tin liên lạc có tích hợp thiết bị định vị vệ tinh (GPS) đối với các tàu khai thác từ 90 CV trở lên, xây dựng trạm bờ, triển khai dự án MOVIMAR để gắn thiết bị (chíp) thu tín hiệu từ vệ tinh cho tàu cá của ngư dân. Đến năm 2013, thành phố đã đầu tư trang bị được 41 máy ICOM, 52 thiết bị Movimar, 200 máy trực canh cho ngư dân. Việc trang bị hệ thống thông tin liên lạc hai chiều giữa đài tàu và đài bờ có tích hợp định vị vệ tinh vừa có ý nghĩa trong việc giám sát hoạt động của tàu cá, ngăn ngừa đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không theo qui định (Illegal, Unreported and Unregulated - IUU fishing), vừa có ý nghĩa hỗ trợ ngư dân khắc phục và giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai trong mùa mưa bão. Các tàu cá được trang bị thiết bị thu tín hiệu từ vệ tinh sẽ nhận được thông tin dự báo thời tiết; dự báo ngư trường; tự động báo vị trí tàu về bờ 2 giờ/lần, giúp ngư dân chủ động tránh được bão. Tuy nhiên, so với thực tế nhu cầu của ngư dân, việc đầu tư, hỗ trợ trang bị trang thiết bị thông tin và giám sát hoạt động tàu cá trên biển của Hải Phòng còn rất thiếu. 4.3.2.3. Chính sách hỗ trợ xăng dầu, bảo hiểm - Theo Quyết định số 289/QĐ-TTg Qua điều tra thực tế cho thấy, nhìn chung chính sách đã kịp thời giúp ngư dân khắc phục khó khăn để bám biển sản xuất, duy trì khai thác thuỷ, hải sản, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống ngư dân, góp phần vào an ninh quốc phòng trên các vùng biển, bảo đảm ổn định nguồn thực phẩm cũng như nguyên liệu cho các nhà máy chế biến phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần ổn định giá tiêu dùng trong nước, kiềm chế lạm phát, ổn định đời sống kinh tế, xã hội. Kết quả Tp. Hải Phòng đã hỗ trợ được cho 3.735 tàu với tổng kinh phí là gần 55 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ bảo hiểm thân tàu cho 529 tàu với kinh phí 425 triều đồng; bảo hiểm tai nạn thuyền viên cho 3.338 người với kinh phí 189 triệu đồng; hỗ trợ về dầu cho 3.735 tàu với tổng kinh phí 53.975 triệu đồng; hỗ trợ đóng mới 1 tàu với số tiền là 140 triệu đồng. Bên cạnh mặt tích cực còn có nhiều mặt hạn chế của chính sách này như mức hỗ trợ thấp, hỗ trợ mang tính dàn trải, không khuyến khích được phát triển khai thác xa bờ mà lại làm tăng thêm tàu thuyền công suất nhỏ khai thác gần bờ. Nhiều ngư dân phản ánh ngoài chính sách từ Quyết định 289/QĐ-TTg thì họ hầu như không được hưởng, thậm chí không biết đến các chính sách khác. 90 - Theo Quyết định 48/2009/QĐ-TTg Theo Quyết định 48/2009/QĐ-TTg, chính sách bảo hiểm thân tàu, tai nạn thuyền viên được Thành phố triển khai thực hiện ngay từ đầu. Có 7 tàu cá thuộc xã Lập Lễ đăng ký và được Thành phố phê duyệt tham gia hoạt động tại vùng biển xa. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có tàu nào được hưởng hỗ trợ vì đối tượng được hưởng chính sách này rất hạn chế (chỉ áp dụng cho tàu cá, ngư dân hoạt động tại vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa và DK1), ngư dân Hải Phòng hầu như không được hưởng lợi từ chính sách này. Đối với chính sách bảo hiểm, số tàu và thuyền viên tham gia bảo hiểm hầu hết là tàu khai thác xa bờ và là chủ tàu, còn đối với tàu khai thác gần bờ và lao động khai thác làm thuê cho các chủ tàu hầu như là không tham gia do lao động nghề cá làm theo mùa vụ và không ổn định. 4.3.2.4. Chính sách đào tạo, chuyển đổi nghề cho ngư dân Theo Quyết định số 1076/2011/QĐ-UBND về Quy chế thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủy sản Tp. Hải Phòng giai đoạn 2011 - 2015 quy định hỗ trợ 100% kinh phí tập huấn, quản lý cho công tác khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo, bồi dưỡng, chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp, thủy sản; bồi dưỡng, tập huấn cho thuyền trưởng, máy trưởng tàu cá, thuyền viên tàu cá xa bờ... Đến năm 2013, Thành phố đã đào tạo, hỗ trợ đào tạo được 1.200 thuyền trưởng, máy trưởng tàu cá các loại, trong đó trên 90% thuyền trưởng, máy trưởng tàu khai thác xa bờ. Việc chuyển đổi nghề nghiệp của ngư dân đã được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, diễn ra theo hai hướng chính, đó là việc chuyển đổi trong nội bộ nghề khai thác hải sản và chuyển đổi từ các nghề khai thác hải sản sang ngành nghề khác như nghề nuôi trồng thuỷ sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, nông nghiệp. Đối với chuyển đổi trong nội bộ nghề khai thác theo hướng tăng lao động khai thác xa bờ và giảm khai thác gần bờ, đến năm 2013 số lao động khai thác xa bờ là 3.482 lao động, tăng 9,1% so với năm 2010. Lao động khai thác theo từng nhóm nghề cũng có sự chuyển dịch, trong đó nghề lưới rê,
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_cai_thien_sinh_ke_trong_khai_thac_hai_san.pdf
KTPT - TTLA - Nguyen Van Cuong.pdf
TTT - Nguyen Van Cuong.doc
TTT - Nguyen Van Cuong.pdf