Luận án Nghiên cứu chế tạo và khảo sát quá trình chuyển pha ZnS/ZnO của các cấu trúc nano ZnS một chiều

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu chế tạo và khảo sát quá trình chuyển pha ZnS/ZnO của các cấu trúc nano ZnS một chiều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu chế tạo và khảo sát quá trình chuyển pha ZnS/ZnO của các cấu trúc nano ZnS một chiều

tắt Các cấu trúc một chiều ZnS như đai, dây và thanh nano đã được chế tạo thành công bằng phương pháp bốc bay nhiệt bột ZnS lên trên đế Silic (Si) phủ kim loại xúc tác vàng (Au) tại nhiệt độ 1150 oC. Kết quả khảo sát bằng các phép đo nhiễu xạ tia X, phổ tán sắc năng lượng cho thấy mẫu nhận được là tinh thể lục giác ZnS, với tỷ lệ nguyên tố Zn/S ~ 1. Dưới sự kích thích của nguồn laser xung (Nd: YAG) bước sóng 266 nm, các đai nano ZnS cho phát xạ bờ vùng mạnh ở nhiệt độ phòng với đỉnh phát xạ tại bước sóng ~ 340 nm. Kết quả nghiên cứu sự phụ thuộc của phổ huỳnh quang vào mật độ công suất nguồn kích thích cho thấy sự xuất hiện của các mode phát xạ laser tự phát trong cấu trúc đai nano ZnS. Tại mật độ công suất nguồn kích thích laser ~ 47.62 kW/cm2 đai nano ZnS cho phát xạ laser ở các trạng thái exciton tại các bước sóng 334, 330, 328 nm với bán độ rộng các đỉnh phát xạ này cỡ khoảng 0.5 - 0.7 nm. Ngoài ra, phát xạ laser còn quan sát được ở các mẫu dây nano, đai nano ZnS/ZnO sau khi ôxy hóa nhiệt tại nhiệt độ 600 oC trong môi trường khí ôxy sau 30 phút. Phát xạ laser ở các mẫu này được đặc trưng bởi sự tách các vạch phổ phát xạ gần bờ vùng của pha ZnO với bán độ rộng của các vạch phổ ~ 0.4 nm. Đặc biệt trong nghiên cứu của chúng tôi, sự ổn định của công nghệ nuôi, đã cho phép chế tạo được các cấu trúc một chiều ZnS, ZnS/ZnO và ZnO (bằng cách ôxy hóa nhiệt ZnS trong môi trường khí ôxy trong khi nuôi hoặc sau khi nuôi) có chất lượng tinh thể cao cho phát xạ bờ vùng mạnh ở nhiệt độ phòng. Lần đầu tiên các cấu trúc nano dị thể một chiều ZnS/ZnO cho phát xạ bờ vùng đồng thời của cả hai pha ZnS và ZnO ở nhiệt độ phòng đã được tạo ra. Việc nghiên cứu quá trình chuyển pha ZnS ZnO bằng phương pháp ôxy hóa nhiệt trong môi trường khí ôxy cho thấy khả năng điều khiển phát xạ bờ vùng (điều khiển độ rộng vùng cấm) trong cấu trúc nano tinh thể bán dẫn một chiều ZnS/ZnO. 61 3.1. GIỚI THIỆU ZnO, ZnS là hai chất bán dẫn vùng cấm thẳng nhóm II-VI đã và đang được xem như là những vật liệu tiềm năng nhất cho ứng dụng chế tạo các linh kiện quang điện tử, quang học và điện tử. Cả hai vật liệu ZnS và ZnO đều có tính chất vật lý cơ bản gần giống nhau như cấu trúc tinh thể, hằng số mạng, nhiệt độ nóng chảy .vv (bảng 3.1) [167]. Với vùng cấm rộng cỡ 3.37 eV của ZnO và 3.7 eV của ZnS ở nhiệt độ phòng (RT: 3.72 eV đối với pha tinh thể phập phương, 3.77 eV đối với pha tinh thể lục giác), ZnS, ZnO và các cấu trúc hợp chất của chúng cũng là ứng viên nhiều tiềm năng nhất cho phát xạ laser cực tím (UV laser) và trong các bộ thu (detector) làm việc trong dải bước sóng 320 - 400 nm [168]. Bảng 3.1 Một số tính chất vật lý cơ bản của ZnS và ZnO Cấu trúc tinh thể Hằng số mạng Độ rộng vùng cấm (eV) Năng lượng liên kết exciton (meV) Nhiệt độ nóng chảy (K) Vị trí phát xạ UV (nm) a (nm) c (nm) ZnO (lục giác) 0.3249 0.5207 3.37 60 2248 368-390 ZnS ( lậpphương/ lục giác) 0.3823 0.6261 3.72/3.77 39 2103 330 - 345 ZnO có năng lượng liên kết exciton lớn 60 meV tại nhiệt độ phòng và phù hợp cho các ứng dụng quang điện tử tại bước sóng ngắn [23]. Năng lượng liên kết exciton cao trong tinh thể ZnO chính là nhân tố đảm bảo cho hiệu suất phát xạ exciton ở nhiệt độ phòng, và thực tế nghiên cứu đã cho thấy, các tinh thể ZnO chất lượng cao (cả dạng hạt, dạng màng mỏng, và dạng cấu trúc một chiều) có thể phát huỳnh quang (UV) khá cao tại nhiệt độ phòng. Hơn thế nữa, ZnO trong suốt với ánh sáng nhìn thấy và có thể có độ dẫn cao khi được pha tạp [204]. Mặt khác, cấu trúc không đối xứng tâm trong cấu trúc wurtzite và sự phân cực phát triển theo trục c đã làm cho vật liệu này trở thành vật liệu tự áp điện, tính áp điện kết hợp với cặp điện - cơ (electromechanical coupling) lớn, dẫn đến chúng có tính áp điện và hỏa điện (pyroelectric) mạnh rất hữu dụng trong các thiết bị truyền động, cảm biến áp điện, và thiết bị nano chuyển đổi năng lượng [20, 88, 130, 133, 206]. Mặt khác, ZnO cũng là một vật liệu tương hợp sinh học (biocompatible) với điểm đẳng điện cao (high isoelectric point-IEP) ~9.5, đã làm cho nó phù hợp cho sự hấp thụ protein với điểm đẳng điện thấp, do các protein tĩnh được điều khiển bằng tương tác tĩnh điện. Hơn nữa, Các cấu trúc nano của ZnO có các lợi ích có một không hai bao gồm diện tích bề mặt riêng lớn (high specific surface area), độc tính thấp, ổn định về mặt hóa học, tính hoạt động điện 62 hóa, và có độ dẫn cao. Do đó, chúng là vật liệu hứa hẹn các ứng dụng cho cảm biến sinh học và có thể sử dụng trực tiếp cho các ứng dụng y sinh mà không cần lớp phủ [180]. Tương tự như ZnO, ZnS là một chất bán dẫn đã được nghiên cứu rộng rãi. Trong tự nhiên ZnS ở dạng bột hoặc tinh thể có màu từ trắng tới vàng. Cả hai cấu trúc lập phương và lục giác của ZnS đều là liên kết đồng hóa trị. ZnS là một trong những chất bán dẫn được phát hiện đầu tiên và là một vật liệu quan trọng nhất trong ngành điện tử công nghiệp với những ứng dụng rộng rãi [177]. Vật liệu khối ZnS khi pha tạp thêm một vài phần triệu (ppm) chất hoạt hóa phù hợp đã được sử dụng như vật liệu huỳnh quang cho các ống tia âm cực sử dụng trong màn hiển thị X-quang. Ion kim loại pha tạp của ZnS là một trong những chủ đề nghiên cứu nóng nhất, ví dụ như, pha tạp mangan (Mn) tạo ra màu đỏ cam ~ 590 nm và đồng (Cu) pha tạp ZnS được sử dụng trong các thiết bị điện huỳnh quang (ELD). ZnS cũng được kỳ vọng trong phát triển một số ứng dụng mới, bao gồm cả thiết bị quang học phi tuyến, điốt phát quang (LEDs), màn hình phẳng, cửa sổ hồng ngoại, phát xạ trường, cảm biến, và phát xạ laser [73, 87, 146, 147, 164, 172, 201]. Các nghiên cứu về tính chất quang của các cấu trúc nano một chiều ZnS và ZnO đã nhanh chóng bùng nổ trong những năm gần đây với những tâm phát xạ chính trong vùng nhìn thấy từ 400 - 650 nm và những phát xạ bờ vùng (vùng UV, 368 - 390 nm đối với ZnO và 330 -3 45 nm đối với ZnS, như trong bảng 3.1) tại nhiệt độ phòng hoặc nhiệt độ thấp đã được ghi nhận. Nguyên nhân đằng sau sự thay đổi trong vị trí phát xạ bờ vùng trong các cấu trúc nano tinh thể ZnO (sự sai khác về khích thước) có thể là do nồng độ các sai hỏng nội tại trong mạng nền [14, 68]. Để đạt được hiệu suất hoạt động của exciton tại nhiệt độ phòng thì năng lượng liên kết của các exciton phải lớn hơn nhiều so với năng lượng nhiệt ở nhiệt độ phòng (26 meV). Về vấn đề này thì cả hai loại vật liệu ZnO và ZnS đều là những ứng viên tốt bởi vì năng lượng liên kết exciton chúng tương ứng là 60 meV và 39 meV, lớn hơn ZnSe (22 meV) và GaN (25 meV) [94]. Gần đây, các phát xạ laser trên các cấu trúc nano một chiều ZnO đã được quan sát tại nhiệt độ phòng với ngưỡng phát xạ laser thấp (ví dụ: hình 3.1) [25, 48, 72, 83, 127, 135, 157]. 63 Hình 3.1. (a) Sơ đồ minh họa dây nano nanolaser được mọc trên đế sapphire; (b)Ảnh FESEM của mảng dây nano ZnO; (c) Phổ phát xạ huỳnh quang của dây nano ZnO nanolaser dưới và trên ngưỡng phát laser; (d) Cường độ phát xạ của dây nano ZnO phụ thuộc vào năng lượng nguồn kích thích (bước sóng 266nm) tại nhiệt độ phòng [135] Hình 3.2. (a) Ảnh SEM của các dây nano ZnS được mọc trên đế anode ôxít nhôm được phủ lớp kim loại xúc tác vàng trong thời gian 30 phút bằng phương pháp điện hóa; (b) Phổ huỳnh quang của dây nano ZnS tại nhiệt độ phòng được kích thích bởi nguồn laser bước sóng 266 nm với mật độ công suất laser tăng 80-170 kW/cm 2[67] Đối với các cấu trúc nano ZnS 1D, các công trình nghiên cứu phát xạ laser ở nhiệt độ phòng của loại vật liệu này còn ít hơn so với các công bố về phát xạ laser trong các cấu trúc nano một chiều ZnO. Năm 2004 trên tạp chí Applied Physics Letters, tác giả Ding và các đồng nghiệp đã công bố quan sát được phát xạ laser trên các dây nano ZnS được mọc trên đế ôxít nhôm bằng phương pháp điện hóa trên anode ôxít nhôm [67]. Trên hình 3.2 (a) là ảnh SEM của các dây nano ZnS với đường kính trung bình khoảng 25 nm. Các dây nano ZnS này có cấu trúc đơn tinh thể lục giác. Phổ huỳnh quang của dây nano ZnS được kích thích bởi nguồn laser với bước sóng kích thích 266 nm, với mật độ công suất laser kích thích thấp 80 kW/cm2, có bán độ rộng đỉnh phổ là 12.6 nm tại bước sóng 334 nm (3.71eV). Phát xạ cưỡng bức này có nguồn ngốc từ các chuyển mức vùng - vùng trong ZnS. Cường 64 độ kích thích tăng, bán độ rộng của đỉnh phổ phát xạ giảm xuống còn ~ 2.2 nm và đỉnh phổ phát xạ có tâm tại bước sóng 338 nm (3.67 eV). Năm 2010 trên tạp chí Nanoscale Research Letters, tác giả Yang và các đồng nghiệp cũng đã công bố quan sát được phát xạ laser tại nhiệt độ phòng của các dải nano ZnS. Đỉnh phát xạ laser tập trung quanh bước sóng 332 m với bán độ rộng dưới 0.4 nm dưới kích thích của nguồn laser 266 nm [60]. 3.2. THỰC NGHIỆM Như đã trình bày ở chương 2, các cấu trúc nano tinh thể ZnS một chiều nhận được sau khi nuôi bằng phương pháp bốc bay nhiệt có chất lượng tinh thể tốt. Tuy nhiên sau khi chế tạo, do bề mặt lớn nên ở nhiệt độ phòng đã hình thành lên một lớp màng mỏng ZnO trên bề mặt dây nano ZnS ban đầu do bị ôxy hóa bởi môi trường không khí hoặc do ôxy dư trong hệ bốc bay nhiệt. Do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi đã chủ động đưa khí ôxy vào trong lò bốc bay ngay trong quá trình nuôi (in situ oxidation) hoặc sau khi nuôi (post- oxidaiton) các cấu trúc nano ZnS một chiều nhằm mục đích nghiên cứu, khảo sát quá trình chuyển pha ZnS ZnO và sự ảnh hưởng của nhiệt độ ôxy hóa đến hình thái cấu trúc và tính chất quang của mẫu. Các bước thực nghiệm được tiến hành như sau: Bƣớc 1. Chế tạo các cấu trúc nano một chiều ZnS bằng phương pháp bốc bay nhiệt bột ZnS trên đế Si/Au theo cơ chế VLS như được trình bày trong chương 2 phần thực nghiệm. Bƣớc 2. Các cấu trúc nano ZnS một chiều như dây nano, đai nano nhận được sau khi nuôi được chủ động ôxy hóa trong môi trường khí ôxy ngay khi chế tạo (in situ oxidation) hoặc ôxy hóa sau khi nuôi (post oxidation) được ôxy hóa trong nhiệt độ 500 – 800 oC trong thời gian 30 phút. Các cấu trúc nano một chiều ZnS nhận được sau khi nuôi và ZnS/ZnO hoặc ZnO sau khi ôxy hóa được khảo sát một cách chi tiết về hình thái cấu trúc và tính chất quang thông qua các thiết bị hiện đại như: Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD), đo phổ tán sắc năng lượng tia X (EDS), hiển vi điện tử quét (FESEM), phổ RAMAN, phổ huỳnh quang (PL), phổ kích thích huỳnh quang (PLE) tại nhiệt độ phòng và phổ huỳnh quang phụ thuộc vào nhiệt độ, phổ huỳnh quang catốt (CL), phổ huỳnh quang kích thích bằng laser xung (năng lượng cao với bước sóng kích thích 226 nm của hệ laser Nd:YAG) và phương pháp đo phổ huỳnh quang phụ thuộc vào mật độ công suất nguồn laser kích thích để nghiên cứu phát xạ laser trong mẫu chế tạo được. Các kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày chi tiết dưới đây. 65 3.3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.3.1. Sự hình thành các cấu trúc nano một chiều ZnS bằng phƣơng pháp bốc bay nhiệt bột ZnS lên trên đế Si/Au theo cơ chế hơi - lỏng - rắn (VLS) 3.3.1.1. Hình thái bề mặt và các đặc tính cấu trúc của các nano tinh thể một chiều ZnS nhận được sau khi nuôi Hình 3.3. Sơ đồ phân bố vùng nhiệt độ đặt đế trong lò và ảnh FESEM của các nano tinh thể ZnS một chiều tại các vùng nhiệt độ đặt đế khác nhau Một ưu điểm nổi bật của công nghệ chế tạo các cấu trúc nano một chiều bằng phương pháp bốc bay nhiệt là khả năng tạo ra các hình thái cấu trúc một chiều khác nhau trong cùng một mẻ chế tạo. Tuỳ thuộc vào các điều kiện chế tạo cụ thể như nhiệt độ bốc bay, nhiệt độ đế, lưu lượng khí mang, loại đế sử dụngcác cấu trúc một chiều như dây, đai, thanh nanocó thể được chế tạo. Trong nghiên cứu này, để nghiên cứu sự hình thành các cấu trúc nano một chiều, chúng tôi đã tiến hành bốc bay bột ZnS và khảo sát sự phụ thuộc của hình thái cấu trúc vào nhiệt độ đế tại các vùng nhiệt độ khác nhau của các cấu trúc nano tinh thể ZnS một chiều, theo sơ đồ phân bố nhiệt độ minh hoạ trên hình 3.3. Trong sơ đồ này: Vùng I (nhiệt độ đế 900 - 1100 oC): là vùng đế Si/Au được đặt cách nguồn vật liệu khoảng ~ 5 cm. Vùng II (nhiệt độ đế 800 - 900 oC): là vùng đế Si/Au được đặt cách nguồn vật liệu khoảng ~ 7 cm. Vùng III (nhiệt độ đế 750 - 800 oC): là vùng đế Si/Au được đặt cách nguồn vật liệu khoảng ~9 cm. 66 Kết quả quan sát ảnh FESEM của các mẫu nhận tương ứng với các vùng nhiệt độ (hình 3.3) cho thấy: tại Vùng I - vùng gần nguồn bốc bay nhất, các cấu trúc một chiều hình thành là các đai nano với kích thước bề rộng vài micromét, bề ngang từ cỡ vài nanomét đến vài chục nanomét và chiều dài lên tới vài chục cho đến vài trăm micromét. Tại vùng II, cấu trúc một chiều nhận được là các đai nano, xen lẫn các dây nano. Các dây nano có đường kính từ vài chục đến vài trăm nm và chiều dài cỡ hàng chục micromét. Tại vùng nhiệt độ đế thấp nhất (Vùng III), sản phẩm nhận được là các dây nano, được phân bố theo lớp khác nhau, phía trên là các dây nano dài đến vài chục micromét và đường kính dây kích thước từ 50 – 300 nm, trong khi lớp bên dưới là các dây ngắn, kích thước lớn và bề mặt gồ ghề. Khi quan sát ở độ phân giải cao hơn, hình chèn trong các hình 3.3 (I, III), kết quả cho thấy trên đỉnh/ở đầu các đai hoặc dây nano đều xuất hiện các hạt kim loại xúc tác vàng. Điều này, chứng tỏ cơ chế mọc các cấu trúc nano một chiều ZnS trong nghiên cứu của chúng tôi là theo cơ chế VLS. Hình 3.4. Phổ nhiễu xạ tia X (XRD) của đai nano ZnS nhận được sau khi nuôi Hình 3.4 là kết quả khảo sát phổ nhiễu xạ tia X của đai nano nhận được tại vùng I. Phổ được đặc trưng bởi các đỉnh nhiễu xạ sắc nét, có cường độ cao hoàn toàn tương ứng với các đỉnh nhiễu xạ trên các mặt phẳng tinh thể của tinh thể ZnS lục giác (theo thẻ chuẩn số 98-007-1748). Ngoài ra, trên phổ chỉ quan sát được các đỉnh nhiễu xạ liên quan đến kim loại xúc tác vàng. Từ kết quả phân tích phổ XRD, có thể nhận thấy các cấu trúc nano tinh thể một chiều ZnS nhận được sau khi nuôi bằng phương pháp bốc bay nhiệt theo cơ chế VLS, là đơn pha và có chất lượng tinh thể cao. 67 Hình 3.5. Ảnh FESEM (a) và phổ EDS (b) của đai nano ZnS nhận được sau khi nuôi Để kiểm tra một lần nữa thông số về thành phần hoá học của các cấu trúc nano mộ chiều ZnS chế tạo được. Chúng tôi đã chụp ảnh FESEM kết hợp với phân tích thành phần hoá học sử dụng thiết bị đo phổ tán sắc năng lượng (EDS) tích hợp trong kính hiển vi điện tử quét có độ phân giải siêu cao Jeol JSM-7600F. Kết quả nhận được được minh hoạ trên hình 3.5 (a) và 3.5 (b). Kết quả cho thấy thành phần hoá học chủ yếu của đai và dây nano quan sát tương ứng trên hình 5 (a) là Zn, S và một lượng nhỏ O (chiếm 5.1 % về nguyên tử). Kết quả cũng cho thấy có tồn tại một lượng nhỏ Si trong kết quả phân tích. Lượng Si này theo chúng tôi, là thành phần của đế Si. Với tỷ lệ 49.1 nguyên tử % Zn, và 45.2 % nguyên tử S, có thể kết luận dây và đai nhận được là ZnS. Sự xuất hiện của O trong kết quả phân tích chứng tỏ các dây nano, đai nano ZnS nhận được có thể đã bị ôxy hóa tự nhiên tại nhiệt độ phòng hoặc bị ôxy hóa một phần trong quá trình nuôi do ôxy dư trong buồng bốc bay. Ngoài ra, sự tồn tại của O trong lớp SiO2 tự nhiên hình thành trên đế Si, cũng có thể có đóng góp vào kết quả phân tích ở trên. Kết quả nhận được ở trên là khá phù hợp với các công bố gần đây về các cấu trúc một chiều ZnS, trong đó dường như luôn tồn tại một lượng ôxy (ZnO) trong các cấu trúc nano ZnS chế tạo được [139]. Sự tồn tại của O vì thế chắc chắn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến các tính chất của dây/đai nano ZnS và do đó cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc hơn. 3.3.1.2. Tính chất quang của dây nano, đai nano ZnS nhận được sau khi nuôi * Phổ huỳnh quang và phổ kích thích huỳnh quang của dây nano, đai nano ZnS nhận được sau khi nuôi Hình 3.6 là phổ PL và PLE của các dây, đai nano ZnS nhận sau khi nuôi. Phổ PL được đặc trưng bởi một dải phát xạ rộng với cực trị đỉnh phổ tại bước sóng ~ 500 nm. Đây là đỉnh phát xạ thường quan sát được trong các mẫu cấu trúc một chiều ZnS và được giải 68 thích là do các sai hỏng liên quan đến các nút khuyết ôxy hoặc do sai hỏng Zn-O-S gây nên trên bề mặt của dây ZnS [39, 71, 128, 154]. Một số tác giả khác cho rằng nguồn gốc của phát xạ xanh lục này là do tạp kim loại xúc tác vàng gây ra [128]. Hình 3.6. Phổ huỳnh quang (PL) và phổ kích thích huỳnh quang (PLE) tại nhiệt độ phòng của dây, đai nano ZnS nhận được sau khi nuôi Phổ PLE tương ứng của đỉnh 500 nm được đặc trưng bởi 3 đỉnh tại các bước sóng ~ 280, 337 và 375 nm. Đỉnh 280 và 337 nm là liên quan đến các hấp thụ gần bờ vùng của ZnS. Ở đây đã có một sự dịch chuyển xanh đáng kể về phía năng lượng cao so với bờ vùng của ZnS khối ở ~ 342 nm. Đỉnh kích thích tại 375 nm có thể được giải thích là do hấp thụ gần bờ vùng của ZnO. Như vậy, kết quả khảo sát phổ PLE một lần nữa khẳng định sự tồn tại của pha tinh thể ZnO trong các cấu trúc nano một chiều ZnS ngay trước khi mẫu được ôxy hoá. * Phổ huỳnh quang catốt tại nhiệt độ phòng của các cấu trúc nano một chiều ZnS nhận được sau khi nuôi Trong nghiên cứu về các cấu trúc nano tinh thể một chiều, do các cấu trúc này thường được nuôi trên các loại đế khác nhau, trong đó có loại đế mà thành phần hoá học của nó có thể ảnh hưởng đến thành phần và tính chất quang của các cấu trúc một chiều nhận được, dẫn tới rất khó rút ra kết luận một cách chắc chắn về nguyên nhân, nguồn gốc của các phổ PL quan sát. Vấn đề này đã được giải quyết trong nghiên cứu của chúng tôi bằng cách sử dụng thiết bị đo phổ huỳnh quang catốt (MonoCL4- Gatan) và hệ phân tích thành phần nguyên tố hóa học (EDS-XMAX50 OXFORD) được tích hợp trong hệ đo hiển vi điện tử quét phân giải siêu cao (Jeol JSM-7600F) cho phép đo được chính xác thành phần và tính chất quang của các cấu trúc ở quy mô nanomét. Với hệ thiết bị này, chúng tôi có thể có thông tin đồng thời về hình thái bề mặt, thành phần nguyên tố hóa học và phổ 69 huỳnh quang catốt trên cùng một vị trí ảnh và có thể đo phổ CL ở chế độ toàn phổ và chế độ tại một điểm (spot). Ảnh FESEM-CL cũng có thể cho thông tin về các phát xạ trong vùng nhìn thấy, vùng UV hoặc vùng không phát xạ. Hình 3.7. Ảnh FESEM-CL được đánh dấu các vị trí đo phổ CL (Spot 1, 2, 3) (a); Phổ huỳnh quang catốt (CL-cathodoluminescence) chế độ toàn phổ (b); Phổ huỳnh quang catốt tại vị trí 1 (SPOT 1) được FIT theo hàm GAUSS tại 5 đỉnh phát xạ 337, 370, 440, 520 và 600 nm (c); Phổ CL tại các vị trí khác nhau được đánh dấu trên ảnh FESEM-CL (d) của các đai nano ZnS nhận được sau khi nuôi Hình 3.7 (a) là ảnh FESEM ở chế độ đo CL toàn phổ và vị trí đánh dấu đo CL tại spot 1&2 trên đai nano ZnS nhận được sau khi nuôi. Ở chế độ đo toàn phổ (hình 3.7 b), phổ CL nhận được là do đóng góp bởi toàn bộ các dây nano, đai nano ZnS có trong ảnh FESEM-CL. Trên phổ CL ở chế độ toàn phổ cho thấy có hai vùng phát xạ chính: i) vùng phát xạ UV gồm 2 đỉnh phổ có bước sóng 337 nm và 370 nm, nguồn gốc của các đỉnh phát xạ này là do các chuyển mức phát xạ gần bờ vùng (NBE) trong hai pha ZnS và ZnO tương ứng [58, 71, 128, 177]; ii) và một dải phát xạ rộng trong vùng nhìn thấy có cường độ mạnh có đỉnh tại 2 bước sóng 440 nm và 520 nm (ngoài ra còn một đỉnh phát xạ có bước sóng khoảng 670 nm được cho là hài bậc hai của đỉnh 337 nm). Đỉnh phát xạ 440 nm được cho là do các nút khuyết S (S vacancies) gây ra, trong khi đỉnh phát xạ 520 nm có thể được giải thích do các sai hỏng liên quan 70 đến Zn-O-S [39, 71, 128, 154]. Nhận định này của chúng tôi về nguồn gốc của đỉnh phát xạ 520 nm là phù hợp với kết quả phân tích phổ EDS ở trên với ~ 5.1 % nguyên tử của ôxy tồn tại trong mẫu và hầu hết là ở trên bề mặt dây/đai nano (kết quả phân tích EDS mapping). Hình 3.7. (c) là phổ CL đo tại nhiệt độ phòng tại vị trí spot 1 được đánh dấu trên ảnh FESEM-CL và được FIT theo hàm GAUSS tại vị trí 5 đỉnh (337, 370, 440, 520, 600 nm). Trên phổ CL đo tại
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_che_tao_va_khao_sat_qua_trinh_chuyen_pha.pdf
1. Bìa LUẬN ÁN.pdf
2. Bìa TÓM TẮT LUẬN ÁN.pdf
2. Tóm tắt LUẬN ÁN.pdf
3. Thông tin mới của LUẠN ÁN.En.pdf
3. Thông tin mới của LUẠN ÁN.VN.pdf