Luận án Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất của chất lưu chứa ống nano cacbon trong hấp thụ năng lượng mặt trời

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất của chất lưu chứa ống nano cacbon trong hấp thụ năng lượng mặt trời", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất của chất lưu chứa ống nano cacbon trong hấp thụ năng lượng mặt trời
lỏng nền. Trong luận án, chúng tôi sử dụng hỗn hợp axit HNO3 và H2SO4 để biến tính CNTs, xử lý bằng SOCl2, 48 mục đích là pháp gắn nhóm chức hóa học -COOH và -OH vào CNTs để tăng khả năng phân tán CNTs vào chất lỏng nền. CNTs được chế tạo bằng phương pháp bốc bay nhiệt pha hơi tại Viện Khoa học Vật liệu, đường kính trung bình của CNTs là 20 nm, chiều dài từ 1 đến 10 μm. Ảnh SEM của CNTs thu được như trên Hình 2.1. Quy trình gắn nhóm COOH lên CNTs được mô tả theo Hình 2.2. CNTs được khuấy đều trong hỗn hợp axit HNO3 và H2SO4 có tỉ lệ tính theo số mol là 1:3. Chúng tôi sử dụng máy khuấy từ để khuấy trong điều kiện áp suất thường và giữ cho nhiệt độ là 70 oC. Dung dịch thu được sau phản ứng sẽ được lọc rửa bằng máy lọc hút chân không để đảm bảo rằng không còn thành phần axit dư. Chúng tôi sử dụng giấy chỉ thị pH để kiểm tra axit dư, khi thấy giấy chỉ thị không đổi màu chứng tỏ CNTs sau khi ô xi hóa đã sạch. Sau quá trình này CNTs đã được biến tính và có các nhóm cacboxy COOH gắn trên bề mặt ống. Đối với một số chất lỏng, ta cần gắn nhóm chức -OH lên CNTs để tăng hiệu quả của quá trình phân tán CNTs. Để có nhóm chức -OH lên CNTs thì vật liệu CNTs- COOH sẽ được phản ứng với dung dịch SOCl2 trong 6h ở 60 oC ở nhiệt độ phòng để thu được CNTs-COCl. Cuối cùng hợp chất thu được sẽ cho lọc rửa bằng H2O2 để thu được CNTs-OH, tức là có các nhóm chức -OH gắn lên CNTs, quy trình như trên Hình 2.3. Hình 2.1. Ảnh SEM của CNTs chế tạo bằng phương pháp CVD 49 Hình 2.2. Quy trình gắn nhóm chức -COOH lên CNTs Hình 2.3. Quy trình gắn nhóm OH lên CNTs 2.2.2. Quy trình chế tạo chất lỏng nano Quy trình chế tạo chất lỏng nano như Hình 2.4. CNTs sau khi được biến tính sẽ được rung siêu âm, khuấy từ hoặc trộn với chất lỏng nền. Hình 2.4. Quy trình chế tạo chất lỏng nano Trong luận án chúng tôi lựa chọn chất lỏng nền theo dải nhiệt độ hoạt động khác nhau. Các loại chất lỏng được nghiên cứu chế tạo bao gồm: nước cất (DI) đáp ứng dải nhiệt độ hoạt động 0-100 oC, ethylen glycol (EG) đáp ứng dải nhiệt độ hoạt động -12 oC ÷ 197 oC; chất lỏng nền EG/DI đáp ứng dải nhiệt độ hoạt động -30 oC ÷ 107 oC; chất lỏng nền dầu silicone đáp ứng dải nhiệt độ hoạt động -22 oC ÷ 280 oC, và vật liệu nền là bitumen đáp ứng dải nhiệt độ hoạt động 75 oC ÷ 450 oC. CNTs CNTs biến tính Chất lỏng nền Rung siêu âm, khuấy, trộn Nghiên cứu tính chất 50 Các nguyên liệu và hóa chất chính được sử dụng trong luận án bao gồm: H2SO4 (98%), HNO3 (98%) được cung cấp bởi công ty hóa chất Shantou Xilong, Trung Quốc; SOCl2 (Sigma Aldrich); H2O2 (Merck); Ethylene Glycol (Merck) khối lượng mol 62,07, khối lượng riêng 1,11 g/cm3; Dầu silicone (Momentive) với độ nhớt 350 cst nhiệt độ bay hơi khoảng 300oC và một số hóa chất khác. 2.3. Các phép đo thực nghiệm Để phân tích đặc tính của các mẫu, có nhiều phép đo khác nhau được sử dụng, tùy vào tình chất cần tìm hiểu. Trong luận án, các phép đo có thể phân loại thành các phép đo hình thái, tính chất quang và tính chất nhiệt. Các phép đo hình thái học cho biến về hình dạng, cấu tạo cũng như sự phân bố kích thước các hạt. Các phép đo quang học sử dụng máy quang phổ để tìm hiểu phổ hấp thụ và truyền qua của các mẫu chất lỏng. Các phép đo về tính chất nhiệt cho biết về độ dẫn nhiệt, cũng như khả năng chuyển hóa quang nhiệt của chất lỏng nano. 2.3.1. Các phép đo hình thái Nghiên cứu cấu trúc của chất lỏng nano trong luận án sử dụng các thiết bị đo tinh vi để thu được những kết quả chính xác như kính hiển vi điện tử quét (Scaning electron microsope – SEM) hay kính hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao (High resolution Transmission electron microscopy – HRTEM). Hình ảnh bề mặt mẫu có độ phân giải cao của máy SEM là do sự tương tác giữa chùm electron với các nguyên tử trong mẫu tạo ra các bức xạ khác nhau. Phân tích các bức xạ này sẽ cho ta biết các thông tin về thành phần cũng như hình thái bề mặt của mẫu. Các bức xạ để phân tích chủ yếu gồm điện tử thứ cấp và điện tử tán xạ ngược. HRTEM là một chế độ TEM cho phép tạo ảnh cấu trúc tinh thể của các mẫu ở cấp độ phân tử. Khi chùm electron chiếu tới mẫu thì sẽ xuất hiện sóng tán xạ. Trong sóng tán xạ có các thông tin về cấu trúc vật liệu, sự giao thoa giữa chùm tia tán xạ này với chùm tia thẳng góc sẽ cho hình ảnh HRTEM. Với độ phân giải cao, ảnh HRTEM cho các hình ảnh cấu trúc tinh thể, các khiếm quyết trong tinh thể. Trong luận án sử dụng thiết bị FESEM Hitachi S4800 và HRTEM Jeon-JEM 2100 tại Viện Khoa học vật liệu. Ngoài ra, có một cách để đánh giá sự thay đổi hình thái học đó là các kĩ thuật xác định sự phân bố kích thước. Phương pháp được sử dụng phổ biến để tìm hiểu 51 thông tin này là phương pháp đo tán xạ ánh sáng động học (dynamic light scattering – DLS). DLS liên quan tới chuyển động Brown của các hạt. Khi mẫu được chiếu bởi một chùm laser có bước sóng xác định, chuyển động Brown của các hạt nhỏ sẽ làm thay đổi cường độ ánh sáng tán xạ theo một hướng cho trước. Từ các tín hiệu này ta sẽ thu được tốc độ của chuyển động Brown. Do các hạt càng nhỏ thì chuyển động Brown càng nhanh nên từ tốc độ Brown ta có thể xác định được kích thước hạt theo phương trình Stokes-Einstein [70]. Trong luận án sử dụng máy Marvel ZS Nano S Analyzer (London, UK) tại Viện Khoa học vật liệu dùng phương pháp đo DLS với bước sóng laser 532 nm có sơ đồ như trên Hình 2.5. Hình 2.5. Sơ đồ nguyên lý máy đo Zetasizer Nano ZS Để khẳng định sự hình thành các nhóm chức trên bề mặt CNTs, trong luận án sử dụng phép đo phân tích phổ hấp thụ hồng ngoại (Fourier Transform Infrared Spectroscopy – FTIR) và phép đo Raman. Từng loại nhóm chức sẽ có phổ FTIR đặc trưng, so sánh với phổ của mẫu sẽ xác định được các nhóm chức có trong mẫu. Để thu được phổ Raman, một nguồn sáng đơn sắc (thường là laser) chiếu tới mẫu và gây ra sự tán xạ không đàn hồi. Phân tích phổ Raman cho biết về thành phần của vật liệu, cấu trúc tinh thể và cấu trúc pha. Sự thay đổi tần số của photon tán xạ so với photon tới cung cấp các thông tin về mẫu đo. Đó là do các dao động mạng hấp thụ năng lượng của photon chiếu tới và phát xạ ra một photon mới. Sự thay đổi của photon tán xạ sẽ cung cấp thông tin về các dao động của các liên kết trong chất phân tích. Trong luận án sử dụng máy đo phổ FTIR Shimazu IR Prestige21 và máy đo phổ Raman iHR550 Jobin-Yvon với bước sóng laser là 514 nm. 52 2.3.2. Các phép đo quang Hình 2.6. Sơ đồ máy đo quang phổ Các tính chất quang của chất lỏng nano đóng vai trò quan trọng trong khả năng hấp thụ năng lượng mặt trời. Phổ hấp thụ và truyền qua của chất lỏng nano trong luận án được đo bằng máy quang phổ Shimazu UV 2450 (Nhật Bản). Ánh sáng từ nguồn chiếu qua mẫu cần đo và mẫu so sánh, đầu thu tín hiệu sẽ xử lý và cho ra hình ảnh phổ như trên sơ đồ Hình 2.6. 2.3.3. Các phép đo nhiệt Một trong những tính chất nhiệt quan trọng của chất lỏng nano trong hấp thụ năng lượng mặt trời đó là độ dẫn nhiệt. Trong luận án sử dụng thiết bị Linseis THB 500 tại Trung tâm Phát triển Công nghệ cao để đo độ dẫn nhiệt. Máy đo dựa trên phương pháp THB (Transient Hot Bridge), sơ đồ nguyên lý đo như trên Hình 2.7, bố cục cảm biến gồm bốn dải giống hệt nhau và được nối với nhau dạng cầu Wheastone. Một dòng điện chạy qua cảm biến và tạo ra một cấu hình nhiệt độ không đồng nhất, làm cầu Wheastone ở trạng thái không cân bằng. Từ các tín hiệu đó thiết bị sẽ xác định được đặc tính nhiệt của các mẫu cần đo. Hình 2.7. Sơ đồ nguyên lý đo độ dẫn nhiệt 53 Để đánh giá khả năng chuyển hóa bức xạ mặt trời thành nhiệt, chúng tôi đã xây dựng thiết bị mô phỏng bức xạ năng lượng mặt trời như Hình 2.8. Bên trong buồng có hệ thống đèn mô phỏng bức xạ mặt trời. Buồng có thể được hút chân không để hạn chế sự truyền nhiệt của chất lỏng nano ra môi trường xung quanh. Hình 2.8. Thiết bị mô phỏng bức xạ năng lượng mặt trời Kết luận chương 2 Chương 2 đã trình bày về phương pháp phương pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp thực nghiệm. Nội dung chương đưa ra phương pháp chế tạo vật liệu, lựa chọn các chất lỏng nền là nước, EG, hỗn hợp EG/DI, dầu silicone và bitumen, các phương pháp nghiên cứu tính chất vật liệu thu được như là phép đo hình thái, phép đo quang, phép đo nhiệt. 54 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ TÍNH TOÁN LÝ THUYẾT 3.1. Mô hình tính toán độ dẫn nhiệt của chất lỏng nano chứa CNTs 3.1.1. Mô hình độ dẫn nhiệt của Hemanth và Patel Mô hình về độ dẫn nhiệt của chất lỏng nano được nhóm Hemanth (Ấn Độ) đưa ra vào năm 2004 trên tạp chí Physical Review Letters [71]. Nhóm Patel áp dụng mô hình của Hemanth và tính độ dẫn nhiệt của chất lỏng nền chứa CNTs và công bố trên tạp chí Bulletin of Materials Science [72]. Nhóm Patel đã đưa ra biểu thức độ dẫn nhiệt hiệu dụng của chất lỏng chứa thành phần ống nano cacbon dưới dạng như sau: 1 (1 ) s l eff l l s k r k k k r (1) Trong đó: + ε là tỷ lệ phần trăm về thể tích của CNTs trong chất lỏng + rl và rs lần lượt là bán kính của phân tử chất lỏng và đường kính của CNTs + kl và ks lần lượt là hệ số dẫn nhiệt của chất lỏng nền và hệ số dẫn nhiệt của CNTs Hình 3.1. So sánh kết quả tính toán lý thuyết của H E Patel với kết quả thực nghiệm của nhóm nghiên cứu Hwang trong trường hợp phân tán CNTs vào nước cất [73] 55 Nhóm Hwang phân tán CNTs vào nước cất [4], đo độ dẫn nhiệt của chất lỏng nano và so sánh dữ liệu thực nghiệm với tính toán lý thuyết của nhóm Patel, kết quả như trên Hình 3.1. Kết quả của nhóm nghiên cứu cho thấy mô hình tính toán Hamilton-Crosser dự đoán dữ liệu thấp hơn so với thực nghiệm, còn mô hình của Patel thì dự đoán dữ liệu gần với thực nghiệm hơn. Tuy nhiên mô hình của Patel vẫn có những điểm chưa hợp lý, dẫn đến kết quả tính toán vẫn cao hơn so với kết quả thực nghiệm. Chính vì lý do này, nhóm nghiên cứu của B.H.Thang đề xuất một mô hình mới để tính toán lý thuyết và dự đoán kết quả gần dữ liệu thực nghiệm hơn so với mô hình của H E Patel. 3.1.2. Mô hình tính toán lý thuyết độ dẫn nhiệt của nhóm B.H. Thang Một số điểm chưa hợp lý trong mô hình của Patel, đó là Patel áp dụng cho hạt nano hình cầu, chưa tính đến dạng ống của CNTs. Thêm nữa trong biểu thức của mình Patel thay bán kính rp của hạt nano bằng đường kính của rs của ống nano cacbon, nhóm cũng không giải thích rõ điều này. Cuối cùng, mô hình Hemanth áp dụng cho các hạt nano đẳng hướng, nên khi Patel tính toán độ dẫn nhiệt của chất lỏng nano chứa CNTs cũng coi tính chất dẫn nhiệt của CNTs là đẳng hướng. Tuy nhiên do có cấu trúc dạng ống nên tính chất dẫn nhiệt của CNTs không đẳng hướng. Theo chiều dọc ống CNTs sẽ dẫn nhiệt tốt, nhưng theo chiều vuông góc với ống thì CNTs sẽ dẫn nhiệt kém. Do những điểm chưa hợp lý trên nền kết quả tính toán lý thuyết của Patel vẫn chưa gần với dữ liệu thực nghiệm. Nhằm đưa ra kết quả tính toán chính xác hơn, nhóm nghiên cứu của GS. Phan Ngọc Minh và TS. Bùi Hùng Thắng đề xuất một mô hình sửa đổi trong đó nhóm tính đến CNTs có dạng hình ống và coi hai đầu giống như hai bán cầu. Thêm nữa nhóm xét đến CNTs phân tán ngẫu nhiên theo mọi hướng và dùng độ dẫn nhiệt hiệu dụng của CNTs. Hình 3.2 là đồ thị so sánh kết quả thực nghiệm chất lỏng nano chứa MWCNT nền là nước cất của nhóm Hwang [73] với kết quả tính toán lý thuyết theo mô hình sửa đổi. Chiều dài và đường kính trung bình của CNTs trong thực nghiệm của nhóm Hwang lần lượt là 10–50 μm và 10–30 nm [73], trong tính toán lý thuyết sử dụng độ dẫn nhiệt của nước cất là 0,6 W/mK và của CNTs là 1800 W/mK, bán kính của phân 56 tử nước là 0,1 nm, bán kính trung bình của CNTs là 10 nm. Kết quả trên Hình 3.2 cho thấy kết quả thực nghiệm của nhóm Hwang phù hợp với tính toán lý thuyết. Hình 3.2. So sánh kết quả tính toán lý thuyết với kết quả thực nghiệm của nhóm Hwang Tương tự như trên, nhóm cũng so sánh kết quả thực nghiệm của nhóm Lifei Chen (2008) [74] với tính toán lý thuyết. Nhóm thu được kết quả thực nghiệm phù hợp với tính toán lý thuyết. Trong mô hình cải tiến trên mới xét đến chất lỏng nền là đơn chất, chưa tính đến chất lỏng nền có thể là hỗn hợp gồm nhiều chất lỏng khác nhau. Vì vậy chúng tôi đã phát triển mô hình cải tiến cho trường hợp chất lỏng nền là hỗn hợp của hai chất lỏng khác nhau, cụ thể là hỗn hợp chất lỏng gồm ethylen glycol và nước cất (EG/DI). 3.2. Phát triển mô hình tính toán cải tiến cho hỗn hợp chất lỏng EG/DI 3.2.1. Mô hình lý thuyết Mô hình này xem xét sự truyền nhiệt qua hỗn hợp chất lỏng ethelene glycol/nước (EG/DI) chứa CNTs. Thứ nhất là truyền nhiệt qua các phân tử EG, thứ hai là qua các phân tử nước, thứ ba là qua các ống nano cacbon. Nhiệt lượng tổng hợp truyền qua chất lỏng có thể biểu diễn như sau: E W CNTq q q q (2) 57 E E W W eff CNT CNT E W CNT dT dT dT q k A k A k A dx dx dx (3) Trong đó A, k và (dT/dx) biểu diễn tiết diện truyền nhiệt, độ dẫn nhiệt và gradient nhiệt của môi trường. Biểu diễn kí hiệu “E”, “W” and “CNT” tương ứng với ethylene glycol, nước và CNT. Và keff-CNT là độ dẫn nhiệt hiệu dụng của CNTs. Giả sử có sự cân bằng nhiệt tại mỗi vị trí trong chất lỏng, ta có: E W CNT dT dT dT dT dx dx dx dx (4) Do đó, phương trình (4) được viết thành: E E W W eff CNT CNT dT q k A k A k A dx (5) E W CNT E E W W eff CNT CNT dT dT k A A A k A k A k A dx dx (6) E W CNT E E W W eff CNT CNTk A A A k A k A k A (7) Giả sử rằng tỉ số tiết diện truyền nhiệt AE:AW:ACNT tỉ lệ với tổng diện tích bề mặt của phân tử ethylene glycol (SE), phân tử nước (SW) và ống nano cacbon (SCNT) trong một đơn vị thể tích của hỗn dịch. Coi các phân tử EG và phân tử nước có dạng hình cầu với bán kính là rE, rW, ống nano cacbon có dạng hình trục với bán kính rCNT và chiều dài là L. Diện tích bề mặt và thể tích của các phân tử chất lỏng là: 24E Es r (8) 34 3 E Ev r (9) 24W Ws r (10) 34 3 W Wv r (11) 58 Vì hai đầu ống nano cacbon có dạng bán cầu nên diện tích bề mặt và thể tích của ống nano cacbon là: 24 2CNT CNT CNTs r r L (12) 3 24. 3 CNT CNT CNTv r r L (13) Tổng diện tích bề mặt có thể được tính theo số hạt và diện tích của từng hạt. Giả sử tỉ lệ thể tích của CNTs là εCNT, tỉ lệ thể tích của chất lỏng là (1 - εCNT). Tỉ lệ thể tích của ethylene glycol trong chất lỏng nền là εE, nên tỉ lệ thể tích của EG trong chất lỏng nano là (1 - εCNT).εE và tỉ lệ của nước trong chất lỏng nano là (1 - εCNT)(1 - εE). Số hạt của ba thành phần trên là: 3 (1 ) (1 ) 4 3 CNT E CNT E E E E n v r (14) 3 (1 )(1 ) (1 )(1 ) 4 3 CNT E CNT E W W W n v r (15) 3 24. 3 CNT CNT CNT CNT CNT CNT n v r r L (16) Diện tích bề mặt của các phân tử EG là: 2 3 (1 ) (1 ) . .4 3 4 3 CNT E CNT E E E E E E E S n s r r r (17) Diện tích bề mặt của các phân tử nước là: 2 3 (1 )(1 ) (1 )(1 ) . .4 3 4 3 CNT E CNT E W W W W W W S n s r r r (18) Diện tích bề mặt của các ống nano cacbon là: .CNT CNT CNTS n s (19) 2 4 2 3 4 3 CNT CNT CNT CNT CNT r L S r r L (20) 59 4 2 3 4 3 CNT CNT CNT CNT CNT r LS r r L (21) Vì chiều dài CNTs rất lớn so với bán kính của nó nên ta coi: 0CNT r L (22) Từ phương trình (21) và (22), SCNT được biểu diễn: 2 CNT CNT CNT S r (23) Vì AE : AW : ACNT = SE : SW : SCNT, ta thu được: E W CNT E E W W eff CNT CNTk S S S k S k S k S (24) Thay thế phương trình (17), (18) và (23) vào phương trình (24), ta được: (1 ) (1 )(1 ) 2 3 3 (1 ) (1 )(1 ) 2 3 3 CNT E CNT E CNT E W eff CNT E W CNT CNT E CNT E CNT E W CNT k k k r r r k r r r (25) 2(1 ) 3(1 ) 2(1 ) 3(1 ) CNT eff CNTE WE E E W CNT CNT CNTE E E W CNT CNT kkk r r r k r r r (26) Chú ý rằng trong các thí nghiệm, thông thường ε < 10%, rE << rCNT, rW << rCNT, từ phương trình (26) ta có: 2(1 ) 3(1 ) (1 ) CNT eff CNTE WE E E W CNT CNT E E E W kkk r r r k r r (27) Giả thiết CNTs phân tán ngẫu nhiên và có góc lệch φ so với phương Oy, dòng nhiệt truyền theo chiều Oy. Theo nguyên lý phân tán ngẫu nhiên, chu vi vòng tròn do một đầu của ống CNTs quay tròn quanh trục Oy sẽ tỷ lệ thuận với số ống CNTs hợp với Oy một góc lệch φ, cụ thể: 60 2 sinC L (28) Hình 3.3. Mô hình tính độ dẫn nhiệt hiệu dụng của CNTs Mặt khác, độ dẫn nhiệt hiệu dụng của CNTs khi lệch so với phương truyền nhiệt một góc φ là: cosCNTk k (29) Từ công thức (28) và (29) chúng ta tính được độ dẫn nhiệt hiệu dụng keff-CNT của CNTs khi phân tán ngẫu nhiên là: / 2 0 / 2 0 eff CNT C k d k C d (30) / 2 0 / 2 0 2 sin . cos . 2 sin . CNT eff CNT L k d k L d (31) 61 / 2 0 / 2 0 1 sin 2 . 2 sin . eff CNT CNT d k k d (32) 1 2 eff CNT CNTk k (33) Từ phương trình (33) và (27), độ dẫn nhiệt hiệu dụng của chất lỏng nano chứa CNTs là: (1 ). .. 3(1 ) (1 ) E W CNT CNTE E E W CNT CNT E E E W k kk r r r k r r (34) Từ phương trình (34), sự tăng độ dẫn nhiệt của chất lỏng nano chứa CNTs là: 0 . 3(1 ) (1 ) CNT CNT CNT CNT E E E W k r k k k r r (35) Từ phương trình (35), độ tăng độ dẫn nhiệt tương đối của chất lỏng nano chứa CNTs là: 0 0 . 3(1 ) % 100%. 100%. (1 ).. CNT CNT CNT CNT E WE E E W k k k r k kkk r r (36) 3.2.2. So sánh mô hình với kết quả thực nghiệm đã công bố Chúng tôi so sánh mô hình lý thuyết do luận án phát triển nêu ở mục 3.2.1 với kết quả thực nghiệm của nhóm V. Kumaresan (2012) [75]. Trong thí nghiệm của nhóm Kumaresan, đường kính trung bình của ống nano cacbon 42.6 nm [75], bán kính trung bình của CNTs là rCNT = 21.3 nm. Trong tính toán của chúng tôi, bán kính của phân tử ethylene glycol và phân tử nước tương ứng là 0,12 nm và 0,1 nm; và độ dẫn nhiệt của ethylene glycol và nước lần lượt là 0,26 W/mK and 0,6 W/mK [76]. Trong tài liệu tham khảo [77], nhóm của Liu đo độ dẫn nhiệt bằng phương pháp phổ Raman của ống nano cacbon đơn tường (Single walled carbon nanotubes - 62 SWCNT) và đa tường (Multi walled carbon nanotubes - MWCNT) lần lượt là 2.400 W/mK và 1.400 W/mK. Do đó chúng tôi chọn độ dẫn nhiệt của CNTs trong tính toán này là kCNT = 1.400 W/mK. Hình 3.4 cho thấy mô hình dự đoán chính xác so với đường thực nghiệm mà nhóm của Kumaresan thu được. Hình 3.4. So sánh mô hình lý thuyết với mô hình thực nghiệm của Kumaresan trong trường hợp phân tán MWCNT trong hỗn hợp EG/DI Như vậy chúng tôi đã phát triển mô hình lý thuyết dự đoán độ dẫn nhiệt của chất lỏng nano chứa CNTs, nền là hỗn hợp nước/ethylene glycol. Đây là chất lỏng giống với chất làm mát thương phẩm. Kết quả tính toán cho thấy độ dẫn nhiệt của chất lỏng nano chứa CNTs tăng gần như tuyến tính ở nồng độ thấp. Điều này cho thấy khả năng dùng chất lỏng nano chứa CNTs trong các hệ thống làm mát cũng như trong các hệ thống hấp thụ nhiệt năng lượng mặt trời. 3.3. Nghiên cứu mô hình lý thuyết tính chất quang và hấp thụ nhiệt của chất lỏng nano Để đánh giá khả năng chuyển hóa năng lượng mặt trời của chất lỏng nano thì có hai yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả hấp thụ, thứ nhất là độ dẫn nhiệt của chất lỏng nano, thứ hai là các tính chất quang của chất lỏng nano. Trong phần này chúng tôi 63 nghiên cứu các cách tiếp cận khác nhau để mô tả tính chất quang của chất lỏng nano, sau đó xây dựng mô hình tính toán hấp thụ nhiệt của chất lỏng nano. 3.3.1. Định luật Lambert-Beer Hệ số truyền qua là một thông số quan trọng của chất lỏng nano trong các bộ thu năng lượng mặt trời và có thể tìm được thông qua định luật Lambert – Beer. Cường độ chùm sáng khi truyền qua môi trường ở khoảng cách r: ex 0( ) trI r I e (37) Trong đó μext là hệ số dập tắt hiệu dụng, bằng tổng của hệ số hấp thụ μa và hệ số tán xạ μs. Phần trăm năng lượng mặt trời bị hấp thụ bởi
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_che_tao_va_khao_sat_tinh_chat_cua_chat_lu.pdf
3-Nhung dong gop moi cua luan an-hv - Tienh Anh.doc
3-Nhung dong gop moi cua luan an-hv.doc
5-Tom tat luan an - Tam-moi.pdf
6-Tom tat luan an - Tam-moi - Tieng anh.pdf
8-Trich yeu luan an-Tam.doc
Dong gop moi A-V Nguyen Trong Tam.pdf
Quyet dinh HD HV Nguyen Trong Tam.pdf
Trich yeu luan an - Nguyen Trong Tam.pdf

