Luận án Nghiên cứu chế tạo và ứng dụng chất lỏng tản nhiệt chứa thành phần ống nanô Cacbon trong quản lý nhiệt cho vệ tinh

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu chế tạo và ứng dụng chất lỏng tản nhiệt chứa thành phần ống nanô Cacbon trong quản lý nhiệt cho vệ tinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu chế tạo và ứng dụng chất lỏng tản nhiệt chứa thành phần ống nanô Cacbon trong quản lý nhiệt cho vệ tinh

là trong khoảng thời gian dài không hoạt động và trong khoảng thời gian sinh ra nhiều 39 nhiệt, thiết bị vẫn phải được giữ trong dải hoạt động cho phép. Việc sử dụng PCM sẽ giữ cho thiết bị luôn ở trong trạng thái gần như đẳng nhiệt trong suốt quá trình vệ tinh hoạt động. PCM sẽ được luân phiên đóng băng và làm nóng chảy: khi thiết bị sinh ra nhiệt làm nóng PCM, lúc này PCM đang ở trạng thái đóng băng sẽ chuyển sang trạng thái lỏng (nhiệt độ không đổi). Trong quá trình thiết bị không hoạt động, nhiệt lượng sinh ra ở pha trước sẽ được giải phóng bằng bộ quản lý nhiệt và PCM lại trở lại trạng thái đóng băng. Vì vậy mà thiết bị luôn được giữ ở một nhiệt độ cố định. + Heatpipe: Heatpipe có thể di chuyển một lượng nhiệt tương đối lớn từ điểm này sang điểm khác dựa vào chu trình hai pha, từ đó tạo ra một bề mặt đẳng nhiệt. Cấu tạo của heatpipe gồm có bộ ngưng tụ, bộ bốc bay và một vùng đoạn nhiệt. Cả dung dịch lỏng và chất khí của heatpipe đều được giữ ở nhiệt độ bão hòa. Do heatpipe hoạt động dựa trên hiện tượng mao dẫn, nên bấc chỉ có thể cung cấp một lực chất lỏng tương đối nhỏ, vì vậy mà heatpipe không quá hiệu quả trong quản lý nhiệt cho vệ tinh. Khi nhiệt lượng được phát ra (có thể từ một thiết bị đang hoạt động hoặc do bị chiếu sáng trong một thời gian dài từ bức xạ mặt trời), nhiệt lượng này sẽ được chuyển đến bộ bốc bay. Tại đây nhiệt lượng này sẽ làm dung dịch lỏng ở trong bấc bị bốc hơi, đồng thời làm tăng áp suất khí tại bộ bốc bay, làm cho khí mang theo nhiệt di chuyển từ bộ bốc bay đến bộ ngưng tụ. Ở bộ ngưng tụ, khí nóng khi tiếp xúc với bề mặt lạnh sẽ bị ngưng tụ thành dung dịch lỏng, nhiệt lượng sinh ra trong quá trình này được chuyển ra ngoài. Dung dịch ở bộ ngưng tụ thông qua hiện tượng mao dẫn sẽ quay trở lại bộ bốc bay, từ đó tạo thành một chu trình khép kín không cần điều khiển. Hình 1.20. Cơ chế hoạt động của heatpipe trong điều khiển nhiệt cho vệ tinh [66] 40 - ATC: có thể khắc phục được nhược điểm của PTC. ATC có thể sử dụng một trong các thiết bị như heatpipe, louver, thiết bị làm mát/ làm nóng hay PFL. Sau đây là một số thiết bị quản lý nhiệt chủ động phục vụ cho việc quản lý nhiệt của vệ tinh: + Cửa thông hơi (Louvers): Louvers là thiết bị nhiệt chủ động đã được ứng dụng nhiều trên vệ tinh. Ở trạng thái mở hoàn toàn, Louvers có thể giải thoát nhiệt lượng gấp khoảng 6 lần so với khi đóng. Tuy là thiết bị điều khiển nhiệt chủ động nhưng Louvers lại không cần sử dụng đến năng lượng. Louvers phù hợp nhất đối với các vệ tinh mà năng lượng toả ra của các thiết bị thay đổi lớn do sự thay đổi trong chu kỳ hoạt động. Ngày nay, Louvers thường gồm các chi tiết sau: tấm nền cánh, các cánh hình chữ nhật, bộ chuyền động lò xo lưỡng kim, bộ phận cảm biến, giá đỡ. Trước đây còn có hai loại Louvers được sử dụng là loại dùng thủy lực và loại chong chóng, tuy nhiên do hạn chế trong hiệu suất nên bây giờ không còn được sử dụng rộng rãi. Tấm nền cánh là một bề mặt có tỷ lệ hấp thụ trên phát xạ thấp, dùng để phủ lên các thành phần của vệ tinh cần được điều khiển nhiệt độ. Cánh được điều khiển bởi bộ chuyền động, có tác dụng thay đổi khả năng quản lý nhiệt của Louvers. Khi các cánh được đóng lại, tấm nền cánh được bảo vệ và cách ly với môi trường bên ngoài, còn khi cánh được mở ra, tấm nền và môi trường bên ngoài sẽ có khả năng trao đổi nhiệt với nhau. Bộ chuyền động điều khiển cánh dựa vào nhiệt độ của tấm nền cánh. Bộ chuyền động ở đây là các dây lưỡng kim ở dạng xoắn, có khả năng co vào khi nhiệt độ giảm đi và giãn ra khi nhiệt độ tăng lên. Hình 1.21. Cửa thông hơi dùng trong quản lý nhiệt cho vệ tinh [66] 41 + Thermoelectric Coolers (TECs): TECs là một loại bơm thu nhỏ có khả năng làm lạnh cho các thiết bị cần nhiệt độ làm việc thấp trong một khoảng thời gian nhất định. TECs dựa trên nguyên lý Peltier, trong đó khả năng làm lạnh dựa trên sự di chuyển của dòng điện đi qua hai mặt kim loại khác nhau. Hai mặt này được nối với nhau bằng hai chất bán dẫn, một p-type và một n-type, nhiệt lượng sau đó được bơm từ mặt kim loại có nhiệt độ thấp hơn sang mặt có nhiệt độ cao hơn. + Hệ thống tuần hoàn chất lỏng dùng bơm (Pumped Fluid Loops - PFL): Một ống bơm chất lỏng sử dụng trong không gian thường bao gồm các thành phần: một bơm, một thiết bị trao đổi nhiệt và một bộ phận quản lý nhiệt. Quá trình được thực hiện chủ yếu bằng việc sử dụng nước làm mát để quản lý nhiệt. Dung dịch này hấp thụ nhiệt phát ra từ các thiết bị đang hoạt động và đưa nhiệt này tới bộ phận quản lý nhiệt. Dung dịch làm mát có hai loại được sử dụng: loại có thể tái sử dụng và loại không thể tái sử dụng. Đối với loại không thể tái sử dụng, dung dịch sẽ được đẩy khỏi vệ tinh sau khi sử dụng xong. Còn đối với dung dịch có thể tái sử dụng, dung dịch sẽ được làm mát, sau đó quay trở lại bắt đầu chu trình khi mà nhiệt năng đã được chuyển ra bên ngoài không gian thông qua quản lý nhiệt. Trong các phương pháp trên thì phương pháp tuần hoàn chất lỏng dùng bơm (PFL) là phương pháp đơn giản, dễ tiếp cận và tương thích với chất lỏng nanô có hệ số dẫn nhiệt cao. Hiện nay hướng nghiên cứu về hệ thống PFL trong điều khiển nhiệt cho vệ tinh vẫn đang tiếp tục được thực hiện, trong đó tập trung vào việc cải tiến về thiết kế cũng như nghiên cứu các cấu hình mới. Chẳng hạn trong năm 2015, nhóm nghiên cứu Roel C. van Benthem [67] đã phát triển hệ thống PFL không dùng van sử dụng cho vệ tinh truyền thông lớn. Trong năm 2016, nhóm nghiên cứu Robert Thorslund (Thụy Điển) đã phát triển hệ thống PFL có sử dụng bơm dựa trên công nghệ Electro Hydro Dynamic (EHD) với nhiều tính chất ưu việt [68]. Cũng trong năm 2016, nhóm nghiên cứu Ji-Xiang Wang (Trung Quốc) đã nghiên cứu về tấm lạnh có độ thích nghi cao để sử dụng cho hệ thống PFL [69]. Gần đây nhất, năm 2017, nhóm nghiên cứu V.S. Jasvanth (Ấn Độ) đã nghiên cứu thiết kế chế tạo một hệ thống PFL sử dụng ammonia cho vệ tinh với công suất có thể lên đến 500 W [70]. Tuy nhiên việc sử dụng chất lỏng nanô với hệ số dẫn nhiệt cao trong hệ thống PFL vẫn là vấn đề mới và gần đây mới có một số nhóm nghiên cứu thực hiện. 42 Hình 1.22. Mô tả hệ thống tuần hoàn dùng bơm sử dụng để quản lý nhiệt cho vệ tinh [66] 1.3.2. Chất lỏng nanô trong quản lý nhiệt cho vệ tinh a) Hiệu quả dẫn nhiệt của CNTs so với chất lỏng nền thông thường Do chất lỏng thường có độ dẫn nhiệt kém hơn so với chất rắn, vì vậy để nâng cao khả năng dẫn nhiệt của chất lỏng, người ta sử dụng nhiều loại hạt có kích thước nhỏ để phân tán đồng đều vào trong chất lỏng tản nhiệt. Cùng với sự phát triển của công nghệ nanô, nhiều loại các hạt có kích thước nanô chẳng hạn như các hạt nanô CuO, SiO2 ,... đã được sử dụng để pha trộn vào chất lỏng tản nhiệt [71]. Về bản chất, những vật liệu có kích thước nanô này có độ dẫn nhiệt cao hơn so với chất lỏng, do vậy khi được phân tán vào trong chất lỏng sẽ làm tăng độ dẫn nhiệt của chất lỏng, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý nhiệt [72-74]. Vật liệu ống nanô cácbon (CNTs) đã được giới khoa học-công nghệ quốc tế đặc biệt quan tâm kể từ khi được phát hiện vào năm 1991. CNTs có nhiều tính chất cơ học, vật lý, hoá học đặc biệt và nhiều tiềm năng ứng dụng mang tính đột phá. Các nghiên cứu và thử nghiệm đã cho thấy vật liệu CNTs là vật liệu có độ dẫn nhiệt rất cao, với CNTs đơn sợi độ dẫn nhiệt có thể lên đến 3.000 W/mK; còn đối với bó CNTs độ dẫn nhiệt đạt khoảng 450 W/mK ở nhiệt độ phòng (so sánh với độ dẫn 43 nhiệt của đồng là 400 W/mK, và của bạc là 429 W/mK) [75]. Tính chất ưu việt này của CNTs đã mở ra hướng ứng dụng nâng cao độ dẫn nhiệt cho các vật liệu, ứng dụng trong hệ thống quản lý nhiệt cho các linh kiện và thiết bị công suất. Bảng 1.4 so sánh độ dẫn nhiệt của CNTs so với một số loại chất lỏng tản nhiệt, kết quả cho thấy CNTs có khả năng dẫn nhiệt tốt với độ dẫn nhiệt lớn hơn từ 1.000 – 3.000 lần so với độ dẫn nhiệt của chất lỏng. Điều này mở ra hướng ứng dụng pha trộn CNTs trong chất lỏng để tăng cường hệ số dẫn nhiệt của chất lỏng. Đây là một hướng nghiên cứu mới và được nhiều nhóm nghiên cứu khoa học quan tâm. Bảng 1.4. So sánh hệ số dẫn nhiệt của CNTs và một số chất lỏng STT Vật liệu quản lý nhiệt và chất lỏng Độ dẫn nhiệt (W/m K) 1 CNTs đa tường chiều dài trên 4 μm ở nhiệt độ phòng 2.000-3.000 2 Acetic acid 0,193 3 Acetone 0,180 4 Alcohol, ethyl (ethanol) 0,171 5 Alcohol, methyl (methanol) 0,202 6 Alcohol, propyl 0,161 7 Ammonia, saturated 0,507 8 Aniline 0,172 9 Benzene 0,167 10 n-Butyl alcohol 0,167 11 Carbon Disulfide 0,161 12 Carbon Tetrachloride 0,104 13 Castor Oil 0,180 14 Chloroform 0,129 15 Decane 0,147 44 16 Dodecane 0,140 17 Engine Oil, unused 0,145 18 Ether 0,130 19 Ethyl acetate 0,137 20 Ethylene Glycol 0,258 21 Freon refrigerant R-11 0,093 22 Freon refrigerant R-12 0,071 23 Glycerine 0,285 24 n-Heptane 0,140 25 Hexane 0,124 26 Isobutyl alcohol 0,134 27 Kerosene 0,145 28 Methyl alcohol 0,212 29 n-Octane 0,147 30 n-Pentane 0,136 31 Phenol 0,190 32 Propylene glycol 0,147 33 Transformer oil 0,110 34 Toluene 0,151 35 Coolanol 0,132 36 Water, Fresh 0,609 b) Các nhóm nghiên cứu trên thế giới đang tập trung vào lĩnh vực này Hiện nay có nhiều nhóm nghiên cứu khác trên thế giới cũng đang quan tâm ứng dụng CNTs trong chất lỏng tản nhiệt, có thể liệt kê một số nhóm nghiên cứu điển hình dưới đây: 1) Nhóm nghiên cứu của Z.H. Han, B. Yang, S.H. Kim và M.R. Zachariah đã nghiên cứu sự lai hóa giữa ống nanô cácbon và các hạt oxit nanô nhôm/đồng hình cầu. Lý do cho sự lai hóa này là do trong hỗn hợp, nhiệt được truyền nhanh hơn giữa các ống CNTs thông qua các phân tử oxit nanô dạng cầu, từ đó giảm được 45 nhiệt trở tiếp xúc giữa các phân tử CNTs. Các hạt oxit nanô dạng cầu có đường kính trung bình là 70 nm và CNTs có chiều dài tối đa 2 µm. Các kết quả đo đạc của nhóm cho thấy rằng độ dẫn nhiệt của chất lỏng nền tăng khoảng 21% ở nhiệt độ phòng với nồng độ 0,2% CNTs. Hình 1.23. Sự cải thiện độ dẫn nhiệt của chất lỏng nền poly-alpha-olefin (PAO) với tỷ lệ hạt nanô 0,2% và 0,1% trong nghiên cứu của nhóm Z. H. Han 2) Nhóm nghiên cứu của A. Ijam, R. Saidur, và P. Ganesana sử dụng chất lỏng tản nhiệt Al2O3-nước và TiO2-nước cho bộ phận tản nhiệt. Kết quả nghiên cứu của nhóm cho thấy rằng khi thêm hạt oxit nanô Al2O3 ở tỷ lệ 4%, độ dẫn nhiệt tăng 11,98% và khi thêm oxit nanô TiO2 ở cùng tỷ lệ, thì độ dẫn nhiệt tăng 9,97%. Do vậy mà khả năng tản nhiệt của bộ phận tản nhiệt được cải thiện từ 2,95% tới 17,32% khi sử dụng hỗn hợp Al2O3-nước và 1,88% tới 16,53% khi sử dụng hỗn hợp TiO2-nước. 3) Nhóm nghiên cứu của M. S. Liua, M. C. C. Lin, và I. T. Huang đã nghiên cứu sự cải thiện độ dẫn nhiệt của ethylene glycol và dầu động cơ khi MWCNTs được thêm vào. Trong trường hợp của ethylene glycol, ở tỷ lệ 1% CNTs, độ dẫn 46 nhiệt được tăng 12.4%. Còn trong trường hợp của dầu động cơ, độ dẫn nhiệt tăng 30% ở tỷ lệ 2% CNTs. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn nhận thấy có sự khác biệt trong tốc độ tăng độ dẫn nhiệt giữa hai chất lỏng, khi dầu động cơ có tốc độ tăng độ dẫn nhiệt lớn hơn đáng kể khi ta tăng nồng độ CNTs. Hình 1.24. Sự tăng độ dẫn nhiệt của Ethylene Glycol và dầu động cơ với tỷ lệ CNTs tăng dần 4) Nhóm nghiên cứu của X. Lu, T. C. Hua, M. Liu, Y. Cheng đã nghiên cứu việc sử dụng heat pipe để tăng khả năng tản nhiệt của đèn LED công suất cao. Kết quả đo đạc của nhóm cho thấy nhiệt trở của heat pipe dao động trong khoảng 0,19 đến 3,1 K/W. Sự đồng nhất nhiệt độ trong bộ bốc bay được điều khiển trong khoảng 1,5oC, và nhiệt độ của đèn LED công suất cao (100 W) có thể luôn được điều khiển ổn định ở dưới 100oC. 5) Nhóm nghiên cứu của L. Kim, J. H. Choi, S. H. Jang, M. W. Shin đã thử nghiệm heat pipe trong tản nhiệt cho dàn đèn LED. So với đèn Halogen và huỳnh quang thông thường, đèn LED có ưu điểm là có độ sáng vượt trội và tuổi thọ cao hơn. Tuy nhiên, nhiệt độ hoạt động cao cũng có thể khiến cho tuổi thọ của hệ bị giảm đi đáng kể, vì vậy mà nhóm nghiên cứu của L. Kim đã thử nghiệm sử dụng heat pipe để giảm nhiệt độ hoạt động của hệ đèn LED, từ đó tăng tuổi thọ và tiết kiệm chi phí hoạt động. 47 Hình 1.25. So sánh nhiệt độ của hệ đèn LED khi có và không sử dụng heat pipe 6) Nhóm nghiên cứu của D. H. Yoo, K. S. Hong, và H. S. Yang đã nghiên cứu sự gia tăng độ dẫn nhiệt của chất lỏng nanô khi các hạt nanô như TiO2, Al2O3, Fe, hay WO3 được pha vào chất lỏng. Hình 1.26. Sự tăng độ dẫn nhiệt của chất lỏng nền khi TiO2, Al2O3, Fe, hay WO3 được pha vào chất lỏng 48 Như vậy việc nghiên cứu về chất lỏng nanô trong quản lý nhiệt cho vệ tinh là vấn đề hết sức mới mẻ, hấp dẫn, có giá trị khoa học lớn và cần thiết được thực hiện. Phát triển vệ tinh đang là một vấn đề rất được quan tâm hiện nay ở Việt Nam. Viện Công nghệ Vũ trụ, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam và FPT là 03 đơn vị đã và đang nghiên cứu phát triển vệ tinh của riêng mình. Chẳng hạn ngày 21/7/2012, vệ tinh nanô F-1 do FPT chế tạo đã được phóng thành công, đây là vệ tinh siêu nhỏ đầu tiên do Việt Nam tự chế tạo được phóng lên quỹ đạo, tuy nhiên không bắt được tín hiệu. Ngày 4/5/2013, vệ tinh VNREDSat-1 đã được phóng thành công. Đây là vệ tinh nhỏ quan sát tài nguyên thiên nhiên, môi trường, thiên tai, và cũng là vệ tinh viễn thám đầu tiên của Việt Nam. Vệ tinh này hiện được giao cho Viện Công nghệ Vũ trụ điều hành và khai thác. Ngày 4/8/2013, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đã phóng vệ tinh Pico Dragon, đây là vệ tinh nhỏ đầu tiên của Việt Nam tự chế tạo hoạt động thành công ngoài không gian. Tiếp đó, vệ tinh MicroDragon đã được phóng thành công vào năm 2019 và đang hoạt động hiệu quả trên quỹ đạo. Gần đây nhất, vào cuối năm 2021, vệ tinh NanoDragon cũng đã được phóng lên quỹ đạo. Tuy nhiên hệ thống quản lý nhiệt cho vệ tinh, đặc biệt hệ thống quản lý nhiệt bằng chất lỏng nanô vẫn chưa được thực hiện nghiên cứu tại Việt Nam. Nếu như có thể sử dụng chất lỏng nanô để tăng cường khả năng quản lý nhiệt vệ tinh nhỏ, Việt Nam có thể chủ động hơn trong việc tích hợp các công nghệ hiện đại vào vệ tinh mà vẫn có thể đảm bảo nhiệt độ hoạt động của các linh kiện nằm trong dải hoạt động cho phép. Hơn nữa, hiện nay Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cũng đang có một số kế hoạch phát triển vệ tinh lớn hơn trong tương lai bao gồm LOTUSat-1 và LOTUSat- 2. Với vệ tinh loại này, hiện cũng đã có một số nhóm nghiên cứu trên thế giới sử dụng tản nhiệt bằng chất lỏng chuyên dụng sử dụng hệ bơm PFL. Tuy nhiên, những chất lỏng tản nhiệt này cũng chưa được tối ưu bằng việc pha thêm các hạt nanô có độ dẫn nhiệt cao hơn nhiều. Vì vậy mà trong tương lai, khi Việt Nam hướng đến phát triển những vệ tinh lớn hơn, việc sử dụng chất lỏng nanô trong quản lý nhiệt cho vệ tinh sẽ là một hướng nghiên cứu mới mẻ đáp ứng được nhu cầu của việc quản lý nhiệt phức tạp trong vệ tinh. 49 1.4. Kết luận chương 1 Chương này đã tập trung giới thiệu tổng quan về vật liệu ống nanô cácbon (CNTs) và ứng dụng của vật liệu này trong lĩnh vực quản lý nhiệt nói chung và quản lý nhiệt cho vệ tinh nói riêng. Cụ thể hơn, vật liệu CNTs, với các tính chất ưu việt của nó (độ cứng Young lớn (1054 – 1200 Gpa), độ bền kéo cao (150 Gpa), khả năng dẫn điện linh hoạt (có thể là chất dẫn điện hoặc bán dẫn tùy theo cấu trúc), khối lượng riêng nhỏ (1,0 – 1,3 g/cm3), bền về hóa học, độ dẫn nhiệt tốt (kCNT ~ 2.000 – 3.000 W/mK), khả năng phát xạ điện tử tốt, bền vững ở nhiệt độ lên đến 2.800oC trong chân không và môi trường khí trơ), có thể được sử dụng trong chất lỏng tản nhiệt dùng trong vệ tinh. Hiện nay, vệ tinh cỡ nhỏ đang ngày càng được tích hợp nhiều thiết bị hiện đại (LCTF, SAR) để thực hiện được các nhiệm vụ mà trước đây chỉ có các vệ cỡ lớn mới thực hiện được, vì vậy việc ứng dụng chất lỏng nanô hứa hẹn sẽ giúp ích rất nhiều cho quá trình này. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, chỉ có chế tạo vệ tinh cỡ nhỏ mới phù hợp với điều kiện công nghệ cũng như giá thành ở nước ta. Chế tạo vệ tinh cỡ nhỏ cũng đang làm xu hướng mà ngay cả những nước phát triển về công nghệ như Nhật Bản, hay các nước châu Âu cũng đều đang hướng tới, chủ yếu do sự hợp lý về giá cả, việc chế tạo không quá khó, cũng như sự linh hoạt của việc thiết kế nhiệm vụ cho vệ tinh. Từ đó, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết của việc sử dụng chất lỏng tản nhiệt chứa CNTs để tăng hiệu suất tản nhiệt chủ động của chất lỏng nền và do vậy có thể tản nhiệt một cách hiệu quả hơn cho vệ tinh cỡ nhỏ. Luận án do vậy hướng tới việc nghiên cứu ứng dụng tính chất nhiệt của CNTs để nâng cao hệ số dẫn nhiệt cho hỗn hợp chất lỏng đa thành phần. Những vấn đề mới mà luận án đặt ra để tập trung giải quyết bao gồm: - Hướng nghiên cứu lý thuyết: tiến hành xây dựng mô hình tính toán lý thuyết hệ số dẫn nhiệt của chất lỏng tản nhiệt đa thành phần cho vệ tinh chứa CNTs. Sau đó, luận án sẽ so sánh mô hình lý thuyết với một các kết quả thực nghiệm để kiểm chứng sự chính xác của các phương trình tính toán. - Hướng nghiên cứu thực nghiệm: chế tạo thành công chất lỏng tản nhiệt đa thành phần chứa CNTs với sự phân tán đồng đều, ổn định và có độ dẫn nhiệt tốt. Sau đó, luận án sẽ tiến hành đo đạc các thông số khác nhau của 50 chất lỏng nền để kiểm nghiệm sự tăng cường khả năng dẫn nhiệt khi chất lỏng được pha trộn thêm CNTs. Cuối cùng, luận án sẽ chế tạo mô hình vệ tinh đơn giản để đánh giá độ hiệu quả thực tế của chất lỏng tản nhiệt để thử nghiệm hiệu quả quản lý nhiệt của chất trong trong việc nâng cao công suất và kéo dài tuổi thọ cho linh kiện trong vệ tinh. Nhằm đánh giá độ hiệu quả của chất lỏng tản nhiệt chứa CNTs, luận án sẽ đặt ra 02 trường hợp giả định và từ đó đo đạc độ cải thiện độ dẫn nhiệt của chất lỏng tản nhiệt. 51 CHƯƠNG 2. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TÍNH TOÁN LÝ THUYẾT ĐỘ DẪN NHIỆT CỦA CHẤT LỎNG TẢN NHIỆT ĐA THÀNH PHẦN CHỨA CNTs 2.1. Đánh giá một số mô hình tính toán lý thuyết đã công bố Kể từ khi được phát hiện ra lần đầu tiên vào năm 1991, vật liệu CNTs cho thấy tiềm năng lớn trong các lĩnh vực khác nhau với nhiều ưu điểm vượt trội như đã trình bày ở chương 1. Tính chất ưu việt này của CNTs đã mở ra hướng ứng dụng nhằm nâng cao độ dẫn nhiệt cho các chất lỏng nanô trong các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Trong các chất lỏng ứng dụng cho các hoạt động truyền nhiệt thì chất lỏng thương mại thường có nhiều thành phần. Để có thể hiểu rõ hơn về cơ chế, bản chất của việc nâng cao độ dẫn nhiệt của vật liệu khi có thêm các hạt nanô thì cần có những nghiên cứu lý thuyết, tính toán mô phỏng được quá trình truyền nhiệt của vật liệu. Chương này của luận án trình bày một số kết quả đạt được trong nghiên cứu mô hình và tính toán lý thuyết độ dẫn nhiệt của chất lỏng đa thành phần chứa vật liệu CNTs. Các nghiên cứu gần đây về tăng cường độ dẫn nhiệt chỉ ra rằng chất lỏng nanô, đóng vai trò như một chất lỏng truyền nhiệt, có tiềm năng lớn để ứng dụng vào các bộ trao đổi nhiệt, bộ thu năng lượng mặt trời trực tiếp và làm mát các thiết bị điện tử công suất cao. Tính chất nhiệt của chất lỏng nền có thể được cải thiện đáng kể nhờ sự hiện diện của các hạt nanô, ngay cả với nồng độ thấp. Các hạt nanô được sử dụng để điều chế chất lỏng nanô có thể là kim loại (Cu, Au, Ag, Ni), oxit kim loại (Al2O3, CuO, Fe2O3, SiO2, TiO2), gốm (SiC, AlN, SiN), hoặc vật liệu nanô cácbon (graphene, CNTs, than chì) [77]. Trong số các vật liệu này, CNTs đã trở thành ứng viên nổi bật do tính dẫn nhiệt cao (trên 1.400 W/mK). Kết luận này được chứng minh trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm như của Xing và cộng sự [78], Walvekar và cộng sự [79], Sabiha và cộng sự [80], Phuoc và cộng sự [81], Estelle và cộng sự [82], Nasiri và cộng sự [83], Naddaf và Heris [84], Venkatesan và cộng sự [85]. Ngoài ra, dung dịch nền có ảnh hưởng đáng kể đến độ dẫn nhiệt của chất lỏng nanô bởi đặc tính nhiệt và độ n
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_che_tao_va_ung_dung_chat_long_tan_nhiet_c.pdf
Dong gop moi - To Anh Duc - Viet.doc
Dong gop moi - To Anh Duc - Anh.doc
Dong gop moi - To Anh Duc - Anh.pdf
Dong gop moi - To Anh Duc - Viet.pdf
Quyet dinh 1019 17-6-22 cap HV To Anh Duc.pdf
Quyet dinh 1019 cap HV To Anh Duc.pdf
Tom tat luan an - Anh.pdf
Tom tat luan an - Viet.pdf
Trich yeu luan an - To Anh Duc.docx
Trich yeu luan an - To Anh Duc.pdf