Luận án Nghiên cứu chế tạo vật liệu nano lai trên cơ sở hạt nano bạc và nano carbon định hướng ứng dụng trong kháng khuẩn và cảm biến quang SERS

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu chế tạo vật liệu nano lai trên cơ sở hạt nano bạc và nano carbon định hướng ứng dụng trong kháng khuẩn và cảm biến quang SERS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu chế tạo vật liệu nano lai trên cơ sở hạt nano bạc và nano carbon định hướng ứng dụng trong kháng khuẩn và cảm biến quang SERS

n 80 (Hình 2.24). Đỉnh phổ hấp thụ của Ag/MWCNTs (oleic), Ag/MWCNTs (PVP), Ag/MWCNTs (Tween 80) tương 71 ứng là 426 nm, 433 nm và 438 nm. Điều này có thể giải thích là do kích thước hoặc bề mặt hóa học của hạt nano bạc trên MWCNTs thay đổi. Kết hợp với các kết quả phân tích từ phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu này, chúng ta thấy rằng hạt nano bạc sử dụng axit oleic có kích thước nhỏ nhất. Ảnh hưởng của chất hoạt động bề mặt lên kích thước hạt nano bạc là do sự hình thành lớp bảo vệ trên bề mặt của các hạt nano làm ức chế quá trình phát triển và kết tụ của chúng. Cơ chế hình thành lớp bảo vệ bề mặt của các chất hoạt động đã được chúng tôi phân tích chi tiết trong mục 2.3.3. Bên cạnh đó, sự biến đổi kích thước hạt nano bạc cũng có xu hướng tương tự với trường hợp các mẫu nano bạc chế tạo riêng sử dụng các chất hoạt động bề mặt này. Dựa trên các kết quả đã phân tích, ta có thể đưa ra điều kiện tối ưu để tổng hợp vật liệu nano lai Ag/MWCNTs gồm pH = 9, chất hoạt động bề mặt là axit oleic. Vật liệu nano lai Ag/MWCNTs chế tạo theo phương pháp này có kích thước hạt nhỏ (8-10 nm), phân tán đều và sử dụng các chất hóa học thân thiện môi trường như đường glucose và axit oleic. Để đánh giá ưu nhược điểm của phương pháp, chúng tôi tiến hành so sánh các thông số và khả năng ứng dụng của vật liệu nano lai Ag/MWCNTs đã chế tạo được trong luận án với vật liệu nano lai Ag/MWCNTs chế tạo theo các phương pháp khác đã được công bố gần đây. Bảng 2.3. So sánh thông số và khả năng ứng dụng của vật liệu nano lai Ag/MWCNTs chế tạo theo các phương pháp khác nhau. Vật liệu Phương pháp chế tạo Thông số thí nghiệm Thông số vật liệu Khả năng ứng dụng Ag/MWCNTs [16] Phương pháp vật lý Bức xạ mặt trời, nhiệt độ phản ứng 150-450 oC Ag-NPs 5,2 nm Năng lượng và môi trường Ag/MWCNTs [68] Phương pháp bốc bay nhiệt Nhiệt độ bốc bay 980 oC, môi trường khí N2 Ag-NPs 5-30 nm Màng lọc khí Ag/MWCNTs [39] Phương pháp hóa học Chất khử Poly(oxyethylene) - diamine (POE), thời gian phản ứng: 24 giờ Ag-NPs 8-30 nm Vật dẫn nano, thiết bị điện tử Ag/MWCNTs [8] Phương pháp hóa học N,N- dimethylformamide (DMF), nhiệt độ phản ứng 50 oC, thời gian phản ứng: 1 giờ Ag-NPs 10-30 nm Vật liệu chống bức xạ UV, xúc tác Ag/MWCNTs (luận án này) Phương pháp hóa học Chất khử: glucose Chất hoạt động bề mặt: Axit oleic, thời gian phản ứng: 10 giờ Ag-NPs 8-10 nm Công nghệ diệt vi sinh vật, cảm biến 72 2.5. Kết luận chương 2 Trên cơ sở của các kết quả nghiên cứu đã đạt được, chúng tôi đưa ra một số kết luận của chương 2 như sau: - Hạt nano bạc đã được chế tạo thành công sử dụng phương pháp hóa học. Kích thước và hình dáng của hạt nano bạc có thể điều khiển được thông qua việc điều chỉnh các thông số công nghệ như nguồn sáng kích thích, độ pH của dung dịch và các chất hoạt động bề mặt. Trong các thông số đó, bức xạ mặt trời, pH = 9 và axit oleic là điều kiện tối ưu cho tổng hợp hạt nano bạc có dạng cầu với kích thước nhỏ. Hạt nano bạc tổng hợp sử dụng bức xạ ánh sáng mặt trời đạt kích thước khoảng 5 nm có dạng hình cầu với phân bố kích thước đều và có khả năng phân tán tốt trong dung dịch nước - Vật liệu nano lai Ag/MWCNTs đã được tổng hợp thành công bằng quy trình hai bước. Quá trình hình thành của hạt nano bạc trên bề mặt MWCNTs đã được thảo luận. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành hạt nano bạc trên MWCNTs cũng được khảo sát. Đã đưa ra được các điều kiện tối ưu để tổng hợp vật liệu nano lai Ag/MWCNTs gồm: độ pH = 9, chất hoạt động bề mặt: axit oleic. Vật liệu nano lai Ag/MWCNTs chế tạo được có khả năng phân tán nước tốt và kích thước hạt nano bạc nhỏ (~ 8-10 nm), phân bố kích thước đều sẽ là vật liệu phù hợp cho các ứng dụng trong kháng khuẩn và cảm biến quang SERS. Phần thử nghiệm ứng dụng của các mẫu sẽ được trình bày trong chương 4 của luận án này. 73 Chương 3. Vật liệu nano lai Ag/GO 3.1 Mở đầu Graphene oxit (GO) được coi là vật liệu nền lí tưởng cho các ứng dụng trong y sinh và cảm biến SERS bởi khả năng tăng cường hóa học mạnh mẽ và khả năng phân tán cao, ổn định trong môi trường nước. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng GO đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường khả năng kháng vi sinh vật và hiệu suất SERS của hệ vật liệu lai Ag/GO. Ví dụ, Wei và các đồng nghiệp trong một công bố của mình đã chỉ ra sự tăng cường khả năng kháng khuẩn của vật liệu Ag/GO so với hạt nano bạc và GO [169]. Kết quả của họ cũng cho thấy vật liệu không thể hiện độc tính đối với tế bào da của chuột. Một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra sự tăng cường đặc tính kháng vi sinh vật của vật liệu Ag/GO so với hạt nano bạc [32, 100]. Cấu trúc lai Ag/GO cũng thể hiện sự tăng cường hiệu suất SERS so với từng cấu trúc riêng lẻ [41, 96]. Tín hiệu SERS của các phân tử chất màu như rhodamine 6G, xanh methylene trên đế Ag/GO được tăng cường nhiều lần khi so với trên đế Ag-NPs [91, 96, 167]. Bên cạnh đó, vật liệu lai Ag/GO cũng cho độ nhạy tốt với axit folic [128], ion uranyl [41], DNA [164]. Mặc dù các kết quả đã công bố gợi ý rằng vật liệu GO là vật liệu hứa hẹn cho việc tăng cường đặc tính kháng vi sinh vật và hiệu suất SERS của vật liệu lai Ag/GO. Tuy nhiên, sự hiểu biết đầy đủ về cơ chế kháng khuẩn cũng như sự tăng cường tán xạ Raman bề mặt vẫn chưa hoàn thiện. Bên cạnh đó, đặc tính kháng khuẩn và hiệu ứng SERS của vật liệu lai Ag/GO phụ thuộc mạnh vào hình dạng, kích thước, độ phân tán và sự bám dính của hạt nano bạc lên bề mặt của GO. Việc điều khiển sự hình thành của hạt nano bạc lên bề mặt của GO đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường khả năng kháng khuẩn và hiệu ứng SERS của vật liệu. Bởi vậy, việc nghiên cứu thêm nữa về phương pháp chế tạo vật liệu nano lai Ag/GO là cần thiết. Trong chương này chúng tôi trình bày hai nội dung chính như sau: Thứ nhất, chúng tôi nghiên cứu chế tạo vật liệu nano lai Ag/GO theo phương pháp quang hóa. Khảo sát các đặc trưng cấu trúc và sự hình thành của hạt nano bạc trên tấm GO. Thứ hai, chúng tôi nghiên cứu chế tạo vật liệu nano lai Ag/GO bằng phương pháp thủy nhiệt. Nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp vật liệu. Các kết quả trình bày trong chương này đã được đã được công bố trong các công trình quốc tế (**) của tác giả và nhóm nghiên cứu. ** Ngo Xuan Dinh et al. (2015) Appl. Phys. A, 119, pp. 85–95. 74 3.2. Cấu trúc và tính chất của vật liệu nano lai Ag/GO chế tạo theo phương pháp quang hóa 3.2.1. Thực nghiệm 3.2.1.1. Hóa chất và thiết bị sử dụng Hóa chất - Bạc nitrat (AgNO3, 99%) - Natri hydroxyt (NaOH), - Amoni hydroxyt (NH4OH) - Đường glucozo (C6H12O6) - Axit oleic (C17H33COOH). - Dung dịch HNO3 (65-68%), - Dung dịch H2SO4 đặc (95-98%). - Dung dịch HCl (36,38%) - NaNO3 dạng rắn (99%) - KMnO4 dạng rắn (99,5%) - Graphite (bột tự nhiên), Việt Nam. Các thiết bị sử dụng - Máy khuấy từ - Lò đốt mẫu, Lò sấy chân không - Sinh hàn ruột gà, Bình cầu hai cổ 250 ml - Nhiệt kế, Máy đo pH - Cân điện tử - Lò vi sóng, Đèn UV, 35 W 3.2.1.2. Quy trình chế tạo GO GO được tổng hợp bằng phương pháp Hummer (hình 3.1) theo các bước được mô tả chi tiết dưới đây: Bước 1: Tách lớp graphite 1 g graphite được trộn đều với hỗn hợp HNO3, KMnO4 theo tỉ lệ khối lượng 1:2:1,5. Graphite tách lớp được tạo ra khi hỗn hợp này được đưa vào lò vi sóng ở công suất 800 W trong thời gian 1 phút. 75 Hình 3.1. Quy trình chế tạo GO theo phương pháp Hummer. Bước 2: Oxy hóa graphite đã tách lớp 2 g graphite đã tách lớp, 8 g KMnO4 và 1g NaNO3 được cho từ từ vào 160 ml dung dịch H2SO4 tại 5 oC trong bể nước đá. Sau đó dung dịch được khuấy đều trong 30 phút. Nhiệt độ dung dịch được tăng dân lên 45 oC và tiếp tục khuấy đều trong 2 giờ. GO được tạo thành khi nhỏ từ từ nước khử ion vào dung dịch và tăng nhiệt độ phản ứng lên 95 oC. Thời gian phản ứng là 1 giờ. Bước 3: Lọc rửa dung dịch GO H2O2 (30 %) và HCl (10 %) được thêm vào dung dịch chứa GO vừa tạo thành để giảm KMnO4 còn dư, loại bỏ ion kim loại và hòa tan MnO2. Sau đó GO được lọc rửa bằng nước cất và máy li tâm. 3.2.1.3. Quy trình chế tạo vật liệu nano lai Ag/GO Dựa trên những điều kiện tối ưu đã khảo sát cho hệ vật liệu Ag/MWCNTs, vật liệu nano lai Ag/GO được tổng hợp bằng phương pháp hóa học với điều kiện pH = 9, dùng axit oleic làm chất hoạt động bề mặt (Hình 3.2). Quy trình chế tạo Ag/GO theo phương pháp hóa học được mô tả chi tiết theo các bước dưới đây: Bước 1: Tạo Ag2O Hòa tan 1,7 g AgNO3 (10 mmol) vào 100 ml nước cất. Sau đó 0,62 g NaOH (15,5 mmol) được thêm vào để tạo kết tủa. Rồi kết tủa được rửa sạch bằng nước cất đến khi đạt pH trung tính. 76 Hình 3.2. Sơ đồ quy trình chế tạo vật liệu nano lai Ag/GO theo phương pháp quang hóa. Bước 2: Tạo ion phức bạc bằng dung dịch NH3 Hòa tan kết tủa bằng 100 ml dung dịch ammonia (0,4 % w/w, 23 mmol). Khi kết tủa bị hòa tan hết, thêm 2,5 g axit oleic (8,9 mmol) vào dung dịch rồi khuấy đều trong 2 giờ. Bước 3: Phủ ion phức bạc lên bề mặt GO GO được phân tán trong nước cất bằng phương pháp rung siêu âm. Nhỏ từ từ 10 ml GO vào dung dịch đồng nhất trên và tiếp tục khuấy đều trong 2 giờ. Lượng GO được thay đổi sao cho tỉ lệ Ag/GO lần lượt là: 100:10 ppm; 100:30 ppm; 100:50 ppm; 100:70 ppm; 100:100 ppm. Bước 4: Khử ion phức bạc bằng glucose Thêm 2 g glucose (11,1 mmol) vào dung dịch để khử phức bạc. Phản ứng được kích thích bởi bức xạ UV trong 10 giờ cho đến khi phản ứng khử hoàn toàn. Vật liệu nano lai Ag/GO thu được sau khi lọc bỏ tạp chất bằng máy li tâm. 3.2.1.4. Các phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng các phép phân tích như X-ray, TEM, UV-vis, Raman, FTIR để phân tích cấu trúc và tính chất của mẫu Ag/MWCNTs. Các bước chuẩn bị mẫu đo, hệ đo và điều kiện đo mẫu tương tự như của mẫu Ag-NPs đã được chúng tôi trình bày chi tiết trong mục 2.2.3.3. 77 3.2.2. Đặc trưng cấu trúc và tính chất của Ag/GO Vật liệu nano lai Ag/GO được tổng hợp bằng phương pháp quang hóa sử dụng phản ứng Tollens (Hình 3.3). Đặc trưng cấu trúc của vật liệu được khảo sát bởi kết quả nhiễu xạ tia X, ảnh TEM. Sự gắn kết của hạt nano bạc lên bề mặt của GO được khảo sát bởi phổ FTIR và phổ UV. Hình 3.4 Chỉ ra phổ X-ray của các mẫu GO, Ag-NPs và Ag/GO. Từ phổ X-ray của GO, xuất hiện một định rộng tại 2θ = 10,9o tương ứng với mặt tinh thể (002) của graphite với khoảng cách giữa các lớp là 0,81 nm. Điều này chỉ ra rằng cấu trúc graphite đã được tách lớp và các nhóm chức đã được đưa vào khoảng không gian giữa các lớp. Quan sát phổ X- ray của mẫu Ag/GO ta thấy sự xuất hiện của các đỉnh nhiễu xạ ở 38,2o, 44,4o, 64,5o tương ứng với các mặt tinh thể (111), (200), (220) của tinh thể Ag kim loại (JC PDS No. 04-0783). Điều này xác nhận sự hình thành của tinh thể bạc kim loại trên bề mặt của GO. Sự hình thành của hạt nano bạc trên bề mặt của GO được xác nhận bởi ảnh TEM của các mẫu. Hình 3.5A cho thấy các hạt nano bạc với kích thước khoảng 5 nm được phân tán đều trong nước thể hiện vai trò của bức xạ mặt trời trong quá trình điều khiển sự phân tán của các hạt nano bạc. Hình 3.5B-D cho thấy sự xuất hiện một lượng lớn các hạt nano bạc trên bề mặt của GO. Kết quả tính toán từ ảnh TEM cho thấy hầu hết các hạt nano bạc có dạng hình cầu có kích thước tập trung ở khoảng 7 nm. Quan sát các nếp của các dải nano GO cho thấy các lớp này rất mỏng (Hình 3.5 C). Kết quả ảnh TEM cũng cho thấy không có sự kết tụ của các hạt nano bạc trên bề mặt GO. Hình 3.3. Sơ đồ quy trình tổng hợp Ag/GO theo phương pháp quang hóa. 78 Hình 3.4. Phổ X-ray của các mẫu GO, Ag-NPs và Ag/GO chế tạo theo phương pháp quang hóa. Hình 3.5. Ảnh TEM của (A) Ag-NPs và (B, C, D) vật liệu nano lai Ag/GO ở các độ phóng đại khác nhau. Hình chèn trong ảnh (A) là tính toán phân bố kích thước của Ag-NPs từ ảnh TEM (A). Hình chèn trong ảnh (B) là tính toán phân bố kích thước của Ag-NPs phân bố trên GO từ ảnh TEM (B). 79 Tổng hợp các kết quả phân tích từ ảnh TEM và phổ X-ray của các mẫu xác nhận rằng hạt nano bạc được hình thành trên bề mặt của GO. Các kết quả này chứng minh rằng vật liệu nano lai Ag/GO được chế tạo thành công bởi phương pháp quang hóa. Cơ chế hình thành của hạt nano bạc trên bề mặt GO có thể được hiểu như sau: Khi ion phức bạc Ag(NH3)2+ được hình thành và hỗn hợp với GO. Các ion dương này có thể dễ dàng tương tác với các nhóm chức chứa oxy tích điện âm trên bề mặt của GO. Sau đó vật liệu lai Ag/GO được hình thành thông qua quá trình khử ion phức bạc bằng glucose. Hạt nano bạc được phủ lên GO do tương tác tĩnh điện giữa ion phức bạc với GO. Các ion bạc còn lại được hấp thụ lên bề mặt của các hạt nano bạc tạo thành và tương tác tĩnh điện với các nhóm chức chứa oxy trên mặt GO nhằm giữ các hạt nano bạc trên tấm GO [32]. Để làm rõ sự tương tác của hạt nano bạc với các nhóm chức trên bề mặt GO các phân tích phổ hồng ngoại (FTIR) và phổ Raman của mẫu được thực hiện. Hình 3.6 chỉ ra phổ FTIR của GO và Ag/GO. Kết quả phân tích FTIR của GO cho thấy sự xuất hiện của dải hấp thụ tại 3493 cm-1 tương ứng với dao động kéo của liên kết O-H [32]. Một đỉnh khác của nhóm chức chứa oxy (nhóm CO2) cũng đã được phát hiện tại 2359 cm-1 [32]. Liên kết đôi C=C của cấu trúc vòng thơm trong nền carbon của GO được tìm thấy tại 1647 cm-1. Sự biến dạng của liên kết O-H trong nhóm chức –COOH được tìm thấy ở 1383 cm-1 [5, 32]. Các kết quả của phổ FTIR chỉ ra rằng có sự xuất hiện của các nhóm chức hydroxyl và carboxyl trên bề mặt của tấm GO. Các nhóm chức chứa oxy này có thể xuất hiện tại trên mặt và cả các cạnh của tấm GO. Phổ FTIR của Ag/GO cho thấy sự thay đổi về cường độ dải hấp thụ của các nhóm chức chứa oxy. Điều này có thể là do sự xuất hiện của các hạt nano bạc trên bề mặt của GO hoặc có thể là do sự khử nhẹ các nhóm chức bằng glucose trong quá trình tổng hợp hạt nano bạc lên bề mặt tấm GO [32]. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các đỉnh tại 1071 cm-1 và 1720 cm-1 ứng với dao động kéo C-O và C=O trong nhóm carbonxyl gợi ý rằng ion bạc có thể tương tác với các nhóm chức (-OH, -COOH) trên bề mặt tấm GO thông qua sự hình thành liên kết phối chí hoặc tương tác tĩnh điện. Từ kết quả phân tích FTIR của GO và Ag/GO, chúng ta có thể nhận định rằng hạt nano bạc tương tác mạnh với các nhóm chức hydroxyl và carboxyl trên bề mặt của tấm GO. Nhận định này được củng cố hơn bởi các kết quả phân tích phổ tán xạ Raman của các mẫu mà chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích dưới đây. 80 Hình 3.6. Phổ FTIR của GO và vật liệu nano lai Ag/GO. Hình 3.7. Phổ tán xạ Raman của GO và vật liệu nano lai Ag/GO. 81 Hình 3.7 chỉ ra phổ Raman của GO và Ag/GO được kích thích bởi bước sóng 632,8 nm. Trong phổ Raman của GO xuất hiện các đỉnh tại 1360 cm-1 (dải D) và tại 1591 cm-1 (dải G). Đối với phổ Raman của Ag/GO cũng xuất hiện các đỉnh tương ứng tại 1338 cm-1 và 1594 cm-1 phù hợp với các đỉnh đặc trưng của GO. Tuy nhiên, ở đây đã có sự dịch đỉnh dải D (22 cm-1) về phía số sóng nhỏ hơn so với GO. Dải D đặc trưng cho các sai hỏng và sự mất trật tự của nguyên tử carbon do sự dao động của liên kết sp3 giữa nguyên tử carbon và tạp chất, trong khi dải G đặc trưng cho mode trung tâm E2g được thừa nhận do các nguyên tử carbon liên kết trật tự sp2 [72]. Kết quả này chỉ ra sự mất trật tự ở mức độ cao của lớp graphene và sự gia tăng của các sai hỏng trong quá trình khử nhóm chức của GO. Điều này chứng tỏ rằng khung carbon của GO đã bị biến đổi sau khi phủ hạt nano bạc lên trên bề mặt của chúng. Phát hiện này phù hợp với kết quả thu được từ phổ FTIR của mẫu và kết quả của các công bố trước đó [34, 35]. Thêm vào đó, tính toán từ phổ Raman cho thấy sự tăng của tỉ số cường độ giữa dải D và dải G (ID/IG) khi phủ hạt nano bạc. Tỉ lệ ID/IG có mối liên hệ tuyến tính với nghịch đảo của kích thước mặt tinh thể. Tỉ lệ ID/IG của GO và Ag/GO lần lượt là 0,78 và 0,97. Sự tăng tỉ lệ ID/IG gợi ý rằng kích thước mặt tinh thể của graphene bị giảm trong quá trình khử. Sự khử một phần của các nhóm chức trên bề mặt GO được cho là nguyên nhân tạo ra các mảnh dọc theo vị trí phản ứng và có thể tạo ra những miền graphite mới, dẫn tới sự giảm kích thước và sự tăng cao về số lượng graphene so với GO trước khi được khử ion bạc. Các phân tích từ phổ FTIR và phổ Raman đã xác nhận sự hình thành liên kết của hạt nano bạc với các nhóm chức trên bề mặt của tấm GO. Các kết quả này tương tự với kết quả tính toán từ phổ FTIR và Raman của vật liệu nano lai Ag/MWCNTs bởi sự tương đồng về mặt cấu trúc của hai loại vật liệu. Để khảo sát sự ảnh hưởng của kích thước và hình dạng hạt nano bạc trên bề mặt GO lên các tính chất của vật liệu, chúng tôi tiến hành các phân tích UV-vis. Hình 3.8 trình bày phổ UV-vis của (a) GO, (b) Ag-NPs, và (c) vật liệu nano lai Ag/GO. Phổ UV-vis của GO cho thấy hai đỉnh hấp thụ tại 305 nm, 393 nm tương ứng với sự chuyển mức * trong liên kết C=O của miền lai hóa sp3 và liên kết C-OH. Phổ UV-vis của Ag và Ag/GO xuất hiện đỉnh hấp thụ mạnh tại 428 nm và 435 nm do hiệu ứng cộng hưởng plasmon bề mặt của hạt nano bạc. Sự xuất hiện của đỉnh hấp thụ đặc trưng này cũng xác nhận sự hình thành của hạt nano bạc trên bề mặt của tấm GO. 82 Hình 3.8. Phổ UV-vis của (a) GO, (b) Ag-NPs và (c) Ag/GO. Hình 3.9. Phổ UV-vis của các mẫu (a) GO và (b-f) Ag/GO với tỉ lệ GO:Ag thay đổi. Bên cạnh đó, sự dịch đỉnh hấp thụ về phía bước sóng dài khi nồng độ Ag-NPs tăng lên (Hình 3.9) cũng được quan sát. Vị trí đỉnh hấp thụ plasmon bề mặt của hạt nano bạc phụ 83 thuộc vào hình dạng, kích thước và môi trường điện môi bao quanh hạt [77]. Trong trường hợp này, sự dịch dỉnh hấp thụ là do sự thay đổi kích thước hạt nano bạc gây ra. Bởi vậy, các mẫu có nồng độ bạc cao sẽ tạo thành hạt nano bạc với kích thước lớn hơn. Từ các kết quả phân tích ở trên cho thấy hạt nano bạc được phủ thành công lên bề mặt của tấm GO. Kích thước hạt nano bạc trên tấm GO có thể được điều khiển bởi nồng độ ion bạc đầu vào. Tóm lại, vật liệu nano lai Ag/GO được chế tạo thành công bằng phương pháp hóa học. Kết quả cho thấy hạt nano bạc có kích thước nhỏ ( 7 nm) được phân tán đều trên tấm GO. Tính chất của hệ vật liệu có thể thay đổi được thông qua việc thay đổi kích thước hạt nano trên tấm GO bằng cách thay đổi tỉ lệ tiền chất AgNO3 và GO. Việc gắn kết thành công hạt nano bạc lên tấm GO sẽ cho phép tăng cường khả năng kháng khuẩn và hiệu suất SERS của hệ vật liệu so với hạt nano bạc. Kết quả khảo sát hoạt tính kháng khuẩn và thử nghiệm phát hiện chất màu của vật liệu Ag/GO sẽ được trình bày chi tiết trong chương 4 của luận án. 3.3. Cấu trúc và tính chất của vật liệu lai Ag/GO chế tạo theo phương pháp thủy nhiệt. 3.3.1. Thực nghiệm 3.3.1.1. Hóa chất và thiết bị sử dụng Hóa chất - Bạc nitrat (AgNO3, 99 %), amoni hydroxyt (NH4OH), polyvinylpyrrolidone (PVP, Mw = 40.000 g/mol). - Graphene oxit (GO): được cung cấp từ Đại học quốc gia Chung Nam, Hàn Quốc. Các thiết bị sử dụng - Máy khuấy từ - Lò đốt mẫu, Lò sấy chân không - Nhiệt kế, Máy đo pH - Cân điện tử - Ống Teflon 3.3.1.2. Quy trình chế tạo vật liệu nano lai Ag/GO Vật liệu nano lai Ag/GO được tổng hợp bằng phương pháp khử ion phức bạc trên bề mặt của GO bằng PVP ở nhiệt độ, và áp suất cao (Hình 3.10). Quy trình chế tạo Ag/GO theo phương pháp thủy nhiệt được mô tả chi tiết theo các bước dưới đây: 84 Hình 3.10. Quy trình chế tạo vật liệu Ag/GO theo phương pháp thủy nhiệt. Bảng 3.1. Bảng tổng hợp điều kiện chế tạo mẫu Ag/GO bằng phương pháp thủy nhiệt. Mẫu Nhiệt độ, thời gian AgNO3 (mol/L) NH3 (ml) AgNO3/PVP (m/m)* GO (mg/ml) Ag/GO pH1 160 oC, 90 phút 10 mM 0,5 ml 1:1 0,5 Ag/GO pH2 160 oC, 90 phút 10 mM 0,8 ml 1:1 0,5 Ag/GO pH3 160 oC, 90 phút 10 mM 2,1 ml 1:1 0,5 Ag/GO 1 160 oC, 90 phút 50 m
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_che_tao_vat_lieu_nano_lai_tren_co_so_hat.pdf
Bìa luan an.pdf
Bìa tom tat luan an.pdf
Thong tin dua len mang-English.pdf
Thông tin đưa lên mạng-tiếng việt.pdf
Tóm tắt luận án.pdf
Trích yếu luận án.pdf