Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 205 trang nguyenduy 15/07/2025 110
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Luận án Nghiên cứu chuỗi giá trị thịt lợn trên địa bàn tỉnh Nghệ An
 phương thức sản xuất của hộ. 
Phần lớn tổng diện tích giành cho chăn nuôi của các hộ vào khoảng 50 -60 
m2, trong đó đất chăn nuôi lợn khoảng 20 – 30 m2, một ít số hộ có hầm biogas (16 
hộ bằng 11,42% số hộ điều tra). Máy móc chủ yếu phục vụ cho chăn nuôi của các 
hộ chăn nuôi lợn là máy bơm nước, mỗi hộ một cái giá trung bình từ 500 – 700 
nghìn đồng. Do đa số các hộ chăn nuôi với quy mô nhỏ nên không cần dự trữ thức 
ăn ở trong các nhà kho mà để ngay ở trong nhà. 
 * Chi phí sản xuất của người nuôi lợn 
Tổng chi phí đầu tư trung bình của người nuôi lợn khoảng 2-3triệu 
đồng/hộ/đầu lợn, thời gian nuôi một lứa lợn của người nuôi lợn rất khác nhau, dao 
động từ 3 tháng đến 6 tháng, trọng lượng lợn khi mua về để nuôi trung bình khoảng 
82 
20 kg (thường mua theo đầu lợn). Trong thời gian nuôi như trên có những khoản 
chi phí được phân chia như bảng 3.5. 
Bảng 3.5. Chi phí sản xuất của người nuôi lợn 
Tính bình quân/kg thịt lợn móc hàm 
Khoản mục 
Số tiền (đồng) 
BQ/đầu lợn 
móc hàm 
BQ/kg móc 
hàm 
Tỷ trọng 
(%) 
Mua con giống 408.000 7.791 17,91 
Chi phí thức ăn 1.726.774 34.814 80,05 
Thuốc thú y 14.433 291 0,67 
Chi phí sửa chữa chuồng trại 12.697 256 0,58 
Chi phí lãi vay 5.059 102 0,23 
Chi phí vận chuyển 5.257 106 0,24 
Chi phí khác (điện, nước) 6.249 126 0,28 
Tổng chi phí 2.178.472 43.486 100 
Chi phí đầu vào: Bao gồm những chi phí để mua những sản phẩm cho sản 
xuất, trong đó chủ yếu là chi phí thức ăn (80,05% tổng chi phí), còn lại là các chi 
phí như chi phí con giống, thuốc thú y. Ngoài ra còn những khoản chi phí liên quan 
đến hoạt động nuôi và bán lợn như: chi phí đầu tư ban đầu để xây dựng chuồng trại, 
sửa chữa chuồng trại, chi phí lãi vay, chi phí vận chuyển, chi phí khác.. 
Năm 2012, tổng chi phí sản xuất của người nuôi lợn trung bình là 43.486 
đồng/kg. Chi phí này đã bao gồm chi phí cơ hội của thức ăn tự trồng vì khoản chi 
phí này liên quan đến sử dụng thức ăn tận dụng trong gia đình nhưng chưa tính đến 
chi phí cơ hội của lao động gia đình để chăm sóc lợn trong quá trình chăn nuôi. Chi 
phí mua thức ăn vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là chi phí mua con giống 
17,91%, trong đó có cả thức ăn mua và thức ăn tự trồng (khoai, ngô..), tỷ lệ thức 
ăn tận dụng của hộ 12,67%. 
iii) Hoạt động bán của người nuôi lợn 
Đối tượng bán, sản lượng và giá bán: Số con xuất chuồng trung bình 14,08 
con/lứa, trung bình 3,26 lứa/năm tổng trọng lượng xuất chuồng 3.135 kg lợn hơi/hộ 
(bằng 2.244 kg lợn móc hàm), thời gian nuôi bình quân một lứa 106 ngày (bảng 
3.6). 
83 
Bảng 3.6. Một số chỉ tiêu kỹ thuật chăn nuôi lợn thịt 
Tính bình quân cho 1 hộ 
Chỉ tiêu 
ĐVT 
Phương thức chăn nuôi 
Chung 
CN (1) BCN (2) TT (3) 
Hộ chăn nuôi Hộ 18 73 49 140 
Số con xuất chuống BQ/lứa con 28,72 14,85 7,55 14,08 
Trọng lượng xuất chuồng 
BQ/con 
Kg/con 78,65 68,47 66,96 69,30 
Thời gian nuôi BQ/lứa Ngày 101,86 108,00 110,34 106,73 
Số lứa nuôi/năm Lứa 3,80 3,50 2,80 3,26 
BQ số năm chăn nuôi lợn Năm 10,00 15,27 15,36 13,50 
Ghi chú:Công nghiệp; (2) Bán công nghiệp; (3) Truyền thống 
 Hình thức bán: Người nuôi lợn bán theo hình thức bán móc theo con, 
trọng lượng xuất chuồng đối với lợn trung bình 69,30kg/con, giá bán trung bình 
khoảng 2,5triệu đồng/con (khoảng 3,3 triệu đồng/con theo giá móc hàm). 
Mặc dù có sự phát triển mạnh về quy mô sản xuất nhưng sự liên kết ngang 
giữa các tác nhân chăn nuôi trong chuỗi chưa mạnh. Nhìn chung sự gắn kết giữa 
các công ty, doanh nghiệp, trung tâm cung cấp đầu vào còn rất yếu, các công ty 
chưa xây dựng hệ thống cung cấp đầu vào cho mình mà chủ yếu thông qua các đại 
lý trung gian. 
Liên kết giữa người sản xuất và thương lái (người thu gom) có chặt chẽ hơn 
do quan hệ làm ăn lâu năm và rất nhiều thương lái là người trong cùng thôn xã, liên 
kết giữa lò mổ và người chăn nuôi còn mờ nhạt. Qua khảo sát phần lớn các hộ đều 
bán cho người thu gom (thương lái trong và ngoài tỉnh) chiếm 38,5% sản lượng của 
chuỗi giá trị, hộ giết mổ địa phương chiếm 59,5% sản lượng của chuỗi giá trị và lò 
mổ chiếm 2% sản lượng của chuỗi giá trị (sơ đồ 3.4). Tuy nhiên chỉ có 5% người 
nuôi lợn bán lợn cho các đối tượng nêu trên có hợp đồng và chỉ có 8% người nuôi 
lợn bán lợn có nhận tiền đặt cọc trước của người mua. Phần còn lại đều bán theo 
hình thức không hợp đồng và thu bằng tiền mặt. Trong mua bán, có 25% người bán 
tự tìm đến người mua lợn bằng cách liên lạc bằng điện thoại hoặc tự tìm đến nhà 
của người mua; số hộ còn lại được thương lái tự tìm đến người nuôi lợn để mua. 
84 
Giá cả trong mua bán chủ yếu được hai bên thoả thuận (85%), một số trường hợp 
người người nuôi lợn được quyết định giá cả (5%) và trường hợp hoàn toàn do 
người mua quyết định giá (10%). 
Sơ đồ 3.4. Tỷ lệ cung cấp sản phẩm đầu ra của người chăn nuôi 
Nhìn chung, quy mô chăn nuôi của các hộ nuôi lợn còn nhỏ lẻ, hoạt động 
nuôi lợn khá đơn giản, không cần nhiều vốn đầu tư, không đòi hỏi kỹ năng, tay 
nghề, trình độ của người chăn nuôi. Hoạt động đầu vào chăn nuôi và đầu ra của 
người nuôi lợn cho thấy chưa có sự gắn kết giữa người chăn nuôi và người cung 
cấp con giống có chất lượng mà người nuôi lợn phải mua lợn giống trôi nổi, không 
đảm bảo chất lượng. Giữa người chăn nuôi và các tác nhân thu gom cũng chưa hình 
thành được mối liên kết thực sự chặt chẽ, do đó khả năng thương lượng của người 
chăn nuôi ở mức thấp, phải chịu rủi ro lớn khi giá thị trường biến động. 
3.2.2.2. Thương lái 
i) Thông tin chung về thương lái 
Thương lái1 (nội tỉnh) chủ yếu là người tại bản địa, bởi vì họ sẽ biết được 
nhà nào nuôi lợn, lợn của nhà đó có bình thường không? Địa bàn hoạt động của 
thương lái ở ngay trong xã, khi trong xã không còn nguồn lợn nữa thì họ đi mua lợn 
ở các xã khác. 
Thương lái ngoài tỉnh chủ yếu là nam giới, hầu hết xuất phát từ nông dân, 
thường ở các tỉnh lân cận như Thanh Hóa, Hà TĩnhHọ có vốn, có phương tiện 
vận chuyển, rất linh hoạt và mềm dẻo trong việc xác định giá và phương thức thanh 
toán. Họ có nhiều kinh nghiệm trong mua bán, hiểu tâm lý người chăn nuôi. Tuy 
1 Trong đề tài thương lái còn có nghĩa là người thu gom. . 
2% 
38,5% 
Người chăn nuôi 
59,5% 
Thương lái (trong 
và ngoài tỉnh) 
Hộ giết mổ địa 
phương 
Lò mổ 
85 
nhiên hành vi mua bán của thương lái này theo tín hiệu của thị trường tiêu thụ 
ngoại tỉnh dễ đẫn đến tình trạng “ được mùa mất giá và mất mùa được giá”. 
Bảng 3.7. Đặc điểm của thương lái (nội tỉnh) 
Diễn giải ĐVT Số lượng 
1. Độ tuổi trung bình Tuổi 47,9 
2. Trình độ học vấn % 
 - Cấp I % - 
 - Cấp II % 70,0 
 - Cấp III % 30,0 
3. Số nhân khẩu/ hộ Người 4,3 
4. Số lao động/hộ Lao động 3,2 
5. Số lao động thu gom Lao động 2,1 
6. TNBQ/tháng Triệu đồng 5,100 
Kết quả khảo sát 20 thương lái, phần lớn họ đều là những hộ có thu nhập 
khá, có kinh nghiệm buôn bán thịt lợn trung bình 11 năm (ít nhất 4 năm, cao nhất 
20 năm). Thương lái cần từ 1-2 lao động gia đình tham gia mua bán và chủ yếu là 
nam (1 trường hợp có sử dụng lao động nữ). Hoạt động mua bán của thương lái 
diễn ra gần như liên tục trong năm. 
Tài sản phục vụ kinh doanh của thương lái bao gồm: xe máy, máy bơm 
nước, cân cơ, điện thoại, một số hộ thì có thêm giá chở hàng và xe kéo. Nhìn chung 
các tài sản này có giá trị không cao, bình quân dao động từ khoảng 155 nghìn đồng 
cho đến 10 triệu đồng. Trong đó tài sản có giá trị cao nhất là xe máy (trên 10 triệu 
đồng), giá chở hàng (2 triệu đồng), xe kéo (gần 1,5 triệu đồng), điện thoại, máy 
bơm nước, xe đạp (450 nghìn đồng) và tài sản có giá trị thấp nhất là cân cơ với giá 
trị là 155 nghìn đồng. Do thương lái nội tỉnh mua và chuyển lợn sang lò mổ trong 
ngày nên các chi phí như phí thuê xe tải, nước, điện, thuê lao động và các chi phí 
khác không đáng kể. Chỉ mất tiền điện thoại, tiền xăng xe, phí phục cho cho quá 
trình vận chuyển và giao dịch mua, bán. 
Thương lái căn cứ vào nhu cầu thị trường (hiện nay chủ yếu tiêu thụ tại các 
thành phố lớn), họ đi tìm hoặc chủ yếu thông qua các mối quan hệ có sẵn với 
những hộ nuôi lợn thịt quy mô lớn. Phần lớn họ mua trực tiếp từ người chăn nuôi 
86 
Thương lái ngoài tỉnh 
 (14,5%) 
Lò mổ trong tỉnh 
(7 %) 
Người chăn 
nuôi trong 
cùng xã 
Người chăn 
nuôi trong 
cùng huyện 
Người chăn 
nuôi trong 
cùng Tỉnh 
THƯƠNG LÁI (trong tỉnh) 
lợn thịt theo giá thoả thuận. Thương lái rất chú trọng đến ngoại hình lợn thịt. Họ 
thường chọn những con thân dài, lưng thẳng hoặc hơi cong, mông và vai mở, bụng 
gọn. Hầu hết thương lái trực tiếp gặp người bán để chọn mua và thoả thuận giá từ 
trước, đến ngày bắt lợn họ sẽ báo cho người chăn nuôi. 
ii) Hoạt động mua, bán của thương lái 
Thương lái có vai trò quan trọng trong việc lưu thông sản phẩm từ người 
chăn nuôi đến người tiêu dùng qua tác nhân lò mổ và người bán lẻ. Nếu thiếu họ sẽ 
bất lợi khi sản phẩm dịch chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. 
Sơ đồ 3.5. Tỷ lệ cung cấp sản phẩm đầu ra của thương lái 
 Sản lượng, hình thức mua: Thương lái mua lợn hơi với sản lượng trung bình 
từ 2,5tạ/thương lái (thương lái trong tỉnh) đến 1tấn/thương lái (thương lái ngoài 
tỉnh). Trong đó lợn lai chiếm 73% sản lượng, giá mua trung bình 3,0 -3,5 triệu 
đồng/con; lợn nội chiếm 27% sản lượng, giá mua trung bình 2,5 -3,0 triệu 
đồng/con. Tỷ lệ sản lượng lợn mua trong xã là 17,14%, khác xã nhưng cùng 
huyện là 28,57%, cùng tỉnh nhưng khác huyện chiếm tỷ lệ là 37,15%, số còn lại 
mua từ những nơi khác. 
 Mức giá mua vào của thương lái biến động qua các năm bình quân giá mua 
vào biến động từ 43000 – 48000 đ/kg giai đoạn 2010 -2012. Sự biến động của giá 
mua làm cho mức giá bán biến động theo. Mức giá chênh lệch do sự phân biệt loại 
lợn, lợn loại 1 và lợn loại 2. Lợn dưới 60 kg gọi là lợn loại 2, từ 60 - 100 kg gọi là 
lợn loại 1. Giữa lợn loại 1 và loại 2 chênh lệch nhau khoảng 50.000 - 100.000 
đồng. Trong năm giá mua vào ở quý 1 và quý 4 cao hơn quý 2 và quý 3. Sở dĩ có 
87 
sự khác biệt như vậy là ở quý 1 và quý 4 có các ngày lễ lớn như (Noel, Tết dương 
lịch.). 
Bảng 3.8. Giá mua, giá bán lợn thịt của thương lái qua các năm 
Đơn vị tính: đồng/kg thịt lợn móc hàm 
Năm/ 
mùa 
vụ 
Xuân Hạ Thu Đông Trung bình 
Mua Bán Mua Bán Mua Bán Mua Bán Mua Bán 
2010 46.000 47.000 43.000 48.000 42.000 46.000 43.000 48.000 43.500 47.250 
2011 48.000 52.000 43.000 47.000 44.000 50.000 45.000 51.000 45.000 50.000 
2012 50.000 55.000 46.500 50.000 47.500 50.000 49.200 59.000 48.320 53.500 
 Nhu cầu vốn trung bình cần thiết cho hoạt động của thương lái là 10 triệu 
đồng/thương lái (thương lái trong tỉnh), 95 triệu đồng/thương lái ngoại tỉnh, có 25% 
thương lái đủ vốn cho hoạt động mua lợn thịt, 75% thương lái thiếu vốn. Trong số 
những thương lái bị thiếu vốn có 80% trường hợp thương lái vay vốn từ tư nhân, 
người thân, bạn bè với số tiền vay trung bình 50 triệu đồng/thương lái, phần còn lại 
họ vay từ ngân hàng nông nghiệp (thời hạn trung bình 12 tháng, lãi suất trung bình 
0,88%/tháng. Những thương lái vay vốn đều sử dụng toàn bộ số tiền cho hoạt động 
mua bán của thương lái nhưng chỉ mới đáp ứng được 85% nhu cầu vốn bị thiếu của 
thương lái. 
Chi phí: Hoạt động mua bán của thương lái đơn giản và ít đầu tư chi phí ban 
đầu, có 85% thương lái đầu tư để mua xe chuyên dụng vận chuyển, số còn lại sử 
dụng xe kéo. Mỗi chuyến mua trung bình của thương lái nội tỉnh khoảng 3 con (từ 
1-4 con), trung bình khoảng 2,1 tạ/chuyến (từ 2-3 tạ/chuyến) và mua liên tục/tháng. 
Số ít thương lái hoạt động với quy mô lớn, mỗi chuyến mua 100 con, sản lượng lên 
đến 7 tấn/chuyến và mua liên tục trong năm. Chi phí liên quan đến hoạt động mua 
bán của thương lái là chi phí vận chuyển, thuê lao động, thuế và các loại phí, chi 
phí lãi vay, chi phí khác,... 
Thương lái dựa vào các chi phí hoạt động của họ và giá cả thị trường tại thời 
điểm bán để xây dựng giá bán. Vào thời điểm cuối năm nguồn thực phẩm tiêu 
dùng cho Tết nguyên đán cao nên các khoản chi phí đều tăng lên và ngược lại khi 
88 
không vào dịp lễ, tết nguồn cầu thực phẩm giảm thì chi phí kinh doanh cũng giảm. 
Chi phí vận chuyển, thuê lao động, kiểm dịch thú y .. trong quá trình mua bán 
chiếm 3,1% tổng chi phí. Chi phí giá đầu vào chiếm bình quân 96,9% tổng chi 
phí. 
Bảng 3.9. Chi phí kinh doanh của thương lái năm 2012 
ĐVT: đồng/kg thịt lợn móc hàm 
Khoản mục Số tiền Tỷ lệ (%) 
Vận chuyển 650 1,30 
Lao động thuê 300 0,60 
Thuế, lệ phí 135 0,27 
Thuê chuồng trại lưu trữ 100 0,20 
Kiểm thú y 160 0,32 
Chi phí khác 310 0,62 
Giá mua 48.320 96,90 
Tổng 49.855 100 
 Cách tìm nguồn hàng và phương thức thanh toán: Tuỳ theo đối tượng bán 
mà hình thức bán của các thương lái khác nhau. Có 65% thương lái mua lợn là do 
được nhắn gọi từ người chăn nuôi, 35% thương lái tự tìm kiếm mua sản phẩm. Chỉ 
có 15 % có thực hiện hợp đồng mua bán. Phổ biến là thanh toán tiền mặt trả trước 
70,46 % còn lại mua chịu (mua chịu với thời gian nợ bình quân là 7 ngày) (bảng 
3.10). 
 Bảng 3.10. Phương thức thanh toán của thương lái (%) 
 Tiền mặt Mua chịu Thời gian chịu 
Người bán: Người chăn nuôi 85,15 14,85 7 ngày 
Người mua 
- Lò mổ 80,25 19,75 10 ngày 
- Thương lái ngoài tỉnh 70,46 29,54 15 ngày 
Khi bán ra, thương lái thanh toán cho lò mổ tiền mặt 80,25% và 19,75% 
mua chịu hoặc gối đầu, thời gian thiếu chịu từ 10 - 15 ngày. Có 30% có thực hiện 
mua bán bằng hợp đồng. Thương lái bán chịu cho thương lái ngoài tỉnh 29,54% số 
tiền, còn lại thương lái thu tiền trước. Trong kinh doanh, tất cả thương lái đều mua 
trước, sau đó mới tìm cách phân phối sản phẩm. Điều này cho thấy, thương lái sẽ bị 
89 
rủi ro nếu tự quyết định mua nhưng không hoặc chưa bán được dẫn đến rủi ro do 
chênh lệch giá ở những thời điểm khác nhau dẫn đến thu lỗ hoặc phải tốn chi phí 
lưu chuồng. 
Liên kết giữa thương lái với lò giết mổ trong tỉnh và thương lái ngoài tỉnh 
có phần khả quan hơn, giữa thương lái với hộ giết mổ trong tỉnh còn yếu và lỏng 
lẻo, số liệu minh chứng cho thấy thị trường đầu ra của thương lái chủ yếu là lò mổ 
trong tỉnh 7% sản lượng, bán cho thành viên ngoài tỉnh 14,5%. Ngoài mua lợn từ 
người chăn nuôi, những thương lái kinh doanh quy mô lớn (thương lái ngoài tỉnh) 
còn mua lại của thương lái nhỏ hoặc thương lái trong tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên sự 
liên kết giữa các tác nhân này chưa thực sự chặt chẽ. Hoạt động mua, bán của 
thương lái phần lớn không có hợp đồng, hầu hết là hợp đồng miệng và thanh toán 
bằng tiền mặt. Do tính pháp lý không chặt chẽ nên nhiều khi thương lái phá vỡ hợp 
đồng hoặc nhà sản xuất tự phá vỡ hợp đồng và không có bên nào đứng ra giải 
quyết. Điều này cho thấy chưa có sự gắn kết giữa những người nuôi lợn và thương 
lái mặc dù có đến 38,5% người nuôi lợn bán cho thương lái. 
Tóm lại, Thương lái là một tác nhân quan trọng góp phần thương mại hoá 
sản phẩm thịt lợn, thúc đẩy việc cung cấp thịt lợn cho nhu cầu nội tỉnh cũng như 
nhu cầu ngoại tỉnh, góp phần cân bằng cung - cầu thịt lợn giữa các tỉnh, các vùng. 
Tác nhân này có vai trò thúc đẩy chăn nuôi lợn phát triển theo quy mô trang trại. 
Một trong những yêu cầu quan trọng đối với thương lái là phải hiểu biết về thị 
trường, có mối quan hệ làm ăn với các tác nhân khác, nắm bắt nhanh nhạy giá cả 
thịt lợn và phải có vốn. Hoạt động của thương lái chủ yếu sử dụng lao động của gia 
đình là chủ yếu. Nhu cầu vốn để mua lợn thịt cao nhưng phần lớn thương lái không 
đủ vốn và khi vay vốn thì lượng tiền vay được chưa đáp ứng được nhu cầu. Thương 
lái mua nhưng chưa xác định được nhu cầu thị trường, không có hợp đồng trước 
nên rủi ro lớn. Vì vậy, địa phương và các cơ quan ban ngành có liên quan cần tăng 
cường hoạt động cung cấp thông tin thị trường cho thương lái và các tác nhân khác 
trong chuỗi. 
3.2.2.3. Người giết mổ 
* Lò giết mổ 
i) Thông tin chung của lò giết mổ: Những lò giết mổ lợn được khảo sát chủ 
yếu giết mổ một loại gia súc là lợn và có giết mổ bò, dê, .. nhưng không thường 
90 
xuyên. Chủ lò giết mổ có từ 4 đến 15 năm kinh nghiệm trong nghề. Hoạt động giết 
mổ là hoạt động nặng nhọc nên chủ yếu sử dụng lao động nam. Mỗi lò giết mổ cần 
từ 1-2 lao động gia đình của chủ lò mổ và mỗi lò giết mổ thuê thêm trung bình 2 
lao động nam, trả lương theo tháng (2,5 triệu đồng/tháng) hoặc trả lương công nhật 
(100 ngàn đồng/ngày). Sau khi giết mổ xong các hộ bán lẻ đến mua thịt của chủ lò 
mổ theo giá móc hàm. 
 Quy trình hoạt động của lò mổ: Lợn sau khi thu gom từ 5h đến 7h chiều 
hôm trước được tập trung lại để sáng sớm hôm sau giết mổ. Các con lợn được chủ 
lò mổ đánh số, số đấy chính là số thứ thứ tự do chủ lò mổ sắp xếp để theo dõi số 
lượng đầu con lợn cũng như trọng lượng thịt lợn sau khi giết mổ. Sau đó khoảng 3h 
sáng lò mổ bắt đầu hoạt động tiến hành giết mổ theo phương thức thủ công, đến 5h 
sáng tất cả các công việc của lò mổ được hoàn tất. 
Bảng 3.11. Quy mô lò mổ (bình quân/lò mổ) 
Diễn giải ĐVT Số lượng 
1. Diện tích khu tập trung m2 11.833 
2. Khu giết mổ m2 501,66 
3. Số đầu lợn/ngày con 14,14 
4. Số người làm trực tiếp người 13 
5. Số lao động gia đình người 1,4 
Lò mổ được đặt ngoài khu dân cư, khoảng cách từ lò mổ đến đường ô tô gần 
nhất là 0,1 km, có tường, rào chắn bao quanh, hầu hết lò mổ được đặt giữa khu đất 
rộng, vị trí đía lý rất thuận lợi nằm gần đường nhựa, thuận tiện đi lại.. 
Bảng 3.12. Giá trị tài sản của lò mổ (bình quân/lò mổ) 
Diễn giải ĐVT Số lượng 
Nguyên giá 
(1000đ) 
1. Nhà xưởng m2 402,58 
2. Xe máy cái 1,4 10.166,7 
3. Máy bơm nước cái 2,5 1.200 
4. Chuồng chứa m2 120 
5. Cân cơ cái 2,8 1.500 
6. Điện thoại bàn cái 1 800 
91 
Giá trị tài sản của lò mổ bao gồm các tài sản thô sơ; nhà xưởng, xe máy, 
máy bơm nước, chuồng chứa, cân cơ, điện thoại. Tổng giá trị vật dụng phục vụ giết 
mổ của mỗi lò mổ khoảng 10 triệu đồng. 
ii) Hoạt động giết mổ 
Lò giết mổ mua lợn từ thương lái trong tỉnh. Ngoài ra, lò giết mổ còn mua 
trực tiếp tại hộ nuôi lợn. Phương tiện vận chuyển chủ yếu bằng xe tải nhỏ có tải 
trọng khoảng một tấn hoặc xe hon đa và lò giết mổ tự trang bị phương tiện để hoạt 
động. Giá mua dao động từ 40-50 ngàn đồng/kg lợn hơi. Nếu mua từ người nuôi 
lợn thì lò mổ thanh toán bằng tiền mặt, mua từ thương lái thanh toán theo hình thức 
gối đầu. Tình hình hoạt động của lò mổ qua các năm được trình bày tại bảng 3.13. 
Bảng 3.13. Khả năng hoạt động của lò mổ qua các năm 
Chỉ tiêu Đơn vị 2010 2011 2012 
Khả năng giết mổ tấn/ngày 4,15 5,35 5,35 
Thực tế giết mổ tấn/ngày 0,97 0,99 0,98 
Số ngày hoạt động bình quân ngày/tháng 29,4 29,4 29,4 
Hiệu suất giết mổ % 21,55 18,50 18,31 
Trung bình 1 tháng lò mổ hoạt động 29 ngày, công suất giết mổ trung bình 
mỗi ngày từ 10-20 con/lò mổ. Lượng lợn giết mổ năm 2012 trung bình khoảng 28-
30 tấn/tháng. Tỷ lệ thịt lợn lột sau giết mổ trung bình là 71,58%. Ngoài sản lượng 
tự mua và giết mổ nêu trên, lò giết mổ còn giết mổ lợn gia công với sản lượng năm 
2012 lên đến 1000 con/lò mổ, thu nhập từ giết mổ gia công là 100 ngàn đồng/con, 
trừ chi phí liên quan đến giết mổ gia công lò mổ còn lời 70000 đồng/con. Biểu đồ 
3.5 cho biết lượng thịt giết mổ trung bình các tháng trong năm 2012. 
Thịt lợn được tiêu thụ nhiều vào các tháng gần Tết (tháng 11, tháng 12, 
tháng 1, tháng 2) và vào mùa gặt (tháng 5, tháng 6), vì người nông dân làm mệt nên 
họ mua nhiều để bồi dưỡng sức khỏe. Và vào mùa đông mức tiêu thụ nhiều hơn là 
mùa hè. Do trời nắng nóng mức mua ít nên thịt ế ẩm. Dù hoạt động ở dạng nào lò 
mổ cũng góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm ở vùng nông thôn, đặc biệt đối 
với lò mổ tự giết mổ. 
92 
Biểu đồ 3.5. Lượng lợn thịt giết mổ trung bình các tháng trong năm 
30000 29000 28000 28000 28500 29500 28500 28000 28000 28000 28000
29500
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Số lượng (kg)
Chi phí: Chi phí ban đầu để đầu tư vào lò giết mổ khoảng 60-100 triệu 
đồng/lò mổ (xây dựng và công cụ, dụng cụ), chi phí dùng cho sửa chữa hàng năm 
khoảng 5-10 triệu đồng/lò mổ. Chi phí

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_chuoi_gia_tri_thit_lon_tren_dia_ban_tinh.pdf