Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học để phục hồi và quản lý bền vững rừng phòng hộ đầu nguồn lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học để phục hồi và quản lý bền vững rừng phòng hộ đầu nguồn lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học để phục hồi và quản lý bền vững rừng phòng hộ đầu nguồn lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum

và bảo vệ RPH. Các loài cây trồng RPH chính ở Tây Nguyên là: Xà cừ, Sao đen, Muồng đen, Bời lời. Mô hình trồng RPHĐN chủ yếu là hỗn giao giữa cây bản địa (cây trồng chính) 600 cây/ha; và cây trồng phù trợ thường là các loài keo (Keo lai, Keo tai tượng và Keo lá tràm) 1000 cây/ha. Về mặt kỹ thuật đã chú ý cải tiến một số điểm so với trồng rừng thông thường sau đây: - Không phát dọn thực bì toàn diện, mà chỉ xử lý cục bộ ở những nơi đào hố trồng cây, hay xử lý theo băng, theo rạch. Thực bì phát dọn thường không đốt mà tập trung thành đống nhỏ xếp ngang theo đường đồng mức để phân hủy tự nhiên. Giữ lại cây bụi, cây tái sinh để tạo rừng hỗn loài, đa tầng tán. - Làm đất cục bộ bằng phương pháp thủ công, chỉ áp dụng cơ giới ở những nơi có độ dốc thấp và cày theo đường đồng mức. - Tiêu chuẩn cây con đem trồng lớn hơn so với cây trồng rừng bình thường. - Trồng hỗn giao theo hàng, theo đám. Cùng với sự tiến bộ của ngành Lâm nghiệp trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao KHCN vào trong sản xuất, phát triển rừng. Các tỉnh thuộc địa bàn Tây Nguyên cũng đã linh động trong quá trình nghiên cứu những lĩnh vực mới đồng thời áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật một cách phù hợp để phục vụ cho Dự án 661 nói riêng và ngành Lâm nghiệp của địa phương nói chung. Từ năm 2008 trở đi, tỉnh Kon Tum đã chú trọng đầu tư với nhiệm vụ chủ yếu là tập huấn kỹ thuật trồng rừng, tham quan học hỏi các mô hình sản xuất tiến bộ nhằm đẩy mạnh và phát triển rừng sản xuất và rừng phòng hộ.Tỉnh Kon Tum đã chú trọng đến việc thử nghiệm các loài, giống cây mới phục vụ dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, tuy nhiên do trồng thử nghiệm nên không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Trong thời gian qua tỉnh đã trồng thử nghiệm 5 ha cây Lát Mê xicô, 15 ha cây Xoan ta và 15 ha cây Thông caribê, đến nay đang trong giai đoạn theo dõi nên chưa có kết quả đánh giá cuối cùng. Đánh giá tình hình áp dụng các biện pháp kỹ thuật để phục hồi rừng PHĐN ở lưu vực sông Pô Kô có thể rút ra các kết luận sau: (i) Hệ thống biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng PHĐN đã được từng bước hoàn thiện từ khâu chọn loài cây trồng và chọn giống đến các biện pháp kỹ thuật cụ thể như xử lý thực bì, cuốc hố, trồng và chăm sóc cây trồng. Các kỹ thuật này đã được tích lũy từ nhiều mô hình thành công đã phát huy được vai trò phòng hộ đầu nguồn và mang lại hiệu quả kinh tế cho người trồng rừng. (ii) Tuy nhiên, việc áp dụng cứng nhắc mật độ trồng 600 cây bản địa và 1000 cây phù trợ cho tất cả các loài cây và các lập địa khác nhau đã dẫn đến nhiều diện tích rừng trồng có tỷ lệ sống thấp, không thành rừng cần phải được rút kinh nghiệm và điều chỉnh cho phù hợp. (iii) Phần lớn các khu rừng trồng phòng hộ đầu nguồn trong dự án 661 chưa được áp dụng các biện pháp tỉa thưa nuôi dưỡng và cũng chưa có công trình nghiên cứu về vấn đề này do đó thiếu các cơ sở khoa học để khuyến cáo cho chủ rừng áp dụng. (iv) Tùy theo điều kiện cụ thể của từng địa phương, cần xây dựng các mô hình trình diễn đặc thù bao gồm các vấn đề kỹ thuật và kinh tế xã hội cho công tác phục hồi và quản lý RPHĐN ở lưu vực nó riêng và cho toàn tỉnh nói chung. 3.2.2. Tài nguyên lâm sản, đa dạng sinh học và khả năng tạo nguồn sinh kế của RPHĐN lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum Tài nguyên lâm sản Tài nguyên rừng của Kon Tum nói chung và rừng PHĐN lưu vực sông Pô Kô nói riêng, rất giàu tiềm năng cung cấp gỗ, lâm sản ngoài gỗ, có giá trị phòng hộ, bảo vệ môi trường to lớn và tính đa dạng sinh học cao. Trữ lượng gỗ rừng tự nhiên của lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum khoảng 20,21 triệu m3, trong đó trữ lượng gỗ thuộc RPHĐN khoảng 9,02 triệu m3, chiếm 44,6 % tổng trữ lượng gỗ toàn lưu vực. Trên quan điểm khai thác rừng bền vững, hàng năm có thể khai thác từ 30.000 - 35.000 m3 gỗ tròn từ rừng tự nhiên. Rừng trồng với trữ lượng 963.376 m3 có thể khai thác cung cấp gỗ nguyên liệu giấy, băm dăm (Bộ NN&PTNT, 2016) [6]. Đa dạng sinh học các loài cây gỗ Đa dạng sinh học (ĐDSH) của các trạng thái rừng phòng hộ đầu nguồn lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum được thể hiện bằng biểu đồ dãy chỉ số đa dạng Renyi. Chỉ số Renyi (Hα) là một chỉ số tổng hợp, vừa thể hiện tính đa dạng loài và mức độ đồng đẳng giữa các loài trong quần xã. Trạng thái rừng LRTX-N có mức đa dạng loài cao nhất (đường chỉ số Renyi nằm trên cao nhất), tiếp đến, trạng thái rừng LRTX-TB, rừng LRTX-PH và thấp nhất, trạng thái rừng LRTX-G. Tuy nhiên, sự chênh lệch này không lớn (Hình 3.2). Hình 3.2. Chỉ số Renyi của rừng lá rộng thường xanh thuộc lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum Xu thế chung về mức độ đa dạng sinh học của các trạng thái rừng lá rộng thường xanh lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum là, trạng thái rừng giàu có đa dạng thấp nhất (đường chỉ số Renyi nằm thấp nhất) và giữa các đường chỉ số Renyi của các trạng thái rừng lá rộng thường xanh không cắt nhau, tức là chưa có sự chênh lệnh lớn về số lượng cá thể giữa các loài. Khả năng tạo nguồn sinh kế - Khả năng cung cấp tre nứa: Tre nứa là LSNG quan trọng đối với đời sống của cư dân sống trong và ngoài rừng PHĐN. Tổng trữ lượng bình quân rừng tre nứa ở lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum có khoảng 33,54 triệu cây tre nứa các loại, trong đó rừng tre nứa thuộc RPH có 5,76 triệu cây tre nứa các loại, chiếm 17,2 % tổng trữ lượng tre nứa của toàn lưu vực, trong đó tre nứa thuần loài có khoảng 33,5 triệu cây và tre nứa hỗn giao với cây gỗ khoảng 12,4 triệu cây. - Khả năng cung cấp LSNG khác: Theo kết quả điều tra tại Ban quản lý rừng phòng hộ Tu Mơ Rông, rừng tự nhiên thuộc lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum có khả năng cung cấp nhiều loại lâm sản khác như tre nứa, song mây, bông đót, hạt ươi, hạt cà na, chai cục và các loại dược liệu quí hiếm như: Sâm Ngọc Linh, Hồng đẳng sâm, Vàng đắng,... tạo một lượng giá trị không kém sản phẩm gỗ. Rất nhiều loại thực vật nhiệt đới chứa các hợp chất hóa học có độc tính, chúng không những được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh cho con người mà còn dùng để sản xuất các loại thuốc bảo vệ thực vật bằng thảo mộc, thân thiện với con người và môi trường. Các loài cây làm thuốc trừ sâu như: Mần đề, Sắn nước, Mác bát, Thàn mát, Mõm, Sở, Bồ hòn, Thuốc lá, Xoan ta, Dây mật... - Nguyên liệu để làm nhà và đồ dùng: Từ nhà thô sơ đến nhà hiện đại đều cần đến những nguyên liệu từ rừng, đó là các loài gỗ quí, các loài tre nứa, song mây, lá tranh, lá buông, lá cọ,...Các vật liệu để làm những đồ nội thất quí giá nhất cũng không thể là gì khác hơn các sản phẩm từ rừng.Ngay cả một ngôi nhà hiện đại nhất được trang bị kỹ thuật điện tử, nối mạng hay nhà thông minh cũng không thể thiếu một dụng cụ nào đó được làm từ các sản phẩm của rừng. - Nguyên liệu phục vụ công nghiệp: Tại các Ban quản lý rừng phòng hộ Đăk Ang, Tu Mơ Rông, Đăk Long, Đăk Nhoong và Đăk Hà, ngoài các sản phẩm trực tiếp phục vụ đời sống con người: Cái ăn, cái mặc, thuốc để chữa bệnh, củi đun nấu và sưởi ấm, dầu thắp sáng,... rừng còn cung cấp nguyên liệu thiết yếu cho nhiều ngành công nghiệp như: + Gỗ là nguyên liệu không thể thiếu của nhiều ngành công nghiệp: Xây dựng kiến trúc, đóng tàu thuyền, sản xuất diêm, làm bút chì, làm giấy, công nghiệp tơ sợi nhân tạo, điêu khắc, mỹ nghệ,... + Tre nứa là sản phẩm ngoài gỗ (LSNG) phục vụ các ngành công nghiệp: làm giấy, xây dựng nhà cửa, sản xuất hàng mỹ nghệ,... Các loài tre nứa phổ biến ở lưu vực sông Pô Kô gồm: nứa, nứa tép và tre le. + Nhựa: Nhựa cao su, nhựa thông, cánh kiến đỏ,... phục vụ công nghiệp chế tạo chất dẻo, chế tạo sơn, chế tạo pin, chất cách điện, vật liệu cao cấp dùng trong công nghiệp chế tạo máy tinh vi... + Cây cho dầu, chất béo: Phục vụ công nghiệp thực phẩm, sản xuất xà phòng, chạy máy... + Các loại cây thuốc phục vụ công nghiệp bào chế thuốc như: Trắc bách diệp, Chung bao, Sài đất, Hồ mộc diệp, Cao đằng, Cốt toái bổ, Bạch hoa xà, Hoàng đằng, Tô hạp, Khuynh diệp, Bách lộ, Thảo đậu khấu, Sa nhân... Dân số trung bình của tỉnh Kon Tum là 473 nghìn người. Trong đó, dân số đô thị chiếm 35 %, dân số nông thôn 75,05 %. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên là từ 2,14 - 2,53 % phân theo từ nông thôn đến thành thị. Mật độ dân số trung bình 49 người/km2. Có 42 dân tộc như: Kinh, Xơ đăng, Ba na, Giẻ triêng, Gia rai, Bru, Rơ man và các dân tộc khác. Mỗi dân tộc có đời sống văn hoá truyền thống đặc thù, được gìn giữ và bảo tồn, tạo nên một bản sắc văn hoá độc đáo, đa dạng. Theo số liệu thống kê dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ 46,1 %, dân tộc Xơ Đăng chiếm 24,4 %, dân tộc Ba Na chiếm 11,7 %, Giẻ triêng chiếm khoảng 7 %, còn lại là các dân tộc khác. Hơn 50 % dân số tỉnh có đời sống phụ thuộc vào rừng. Tăng trưởng kinh tế đạt 12,19 %, cao hơn mức bình quân chung cả nước (5,42 %). Nếu xét theo nhóm ngành, nhóm ngành dịch vụ (đạt 15,30 %) tăng trưởng cao nhất, tiếp đến là nhóm ngành công nghiệp và xây dựng đạt chỉ số (đạt 14,06 %), nhưng lại thấp hơn so với năm 2012 (đạt 17,03 %), nhóm ngành nông lâm nghiệp là thấp hơn cả (đạt 6,62 %). Hộ khá có nhiều nguồn thu từ rừng như tiền công bảo vệ rừng, khai thác gỗ, lâm sản ngoài gỗ, săn bắt động vật rừng. Vì các hộ này có điều kiện về phương tiện sản xuất cũng như thông tin thị trường nên đã thu hoạch khá nhiều lợi ích. Trong khi đó hộ nghèo và thoát nghèo nguồn thu từ rừng thấp hơn và nghèo nàn hơn, chủ yếu từ tiền công bảo vệ rừng, làm công trong khâu trồng rừng cho các công ty lâm nghiệp, các BQL rừng và có thu hoạch một ít lâm sản ngoài gỗ để bán. Có đến 90 % số hộ thu hái cây rừng làm rau, măng, đọt mây làm thực phẩm hàng ngày và bán; cây thuốc có đến 65 % hộ thường xuyên thu hái để sử dụng, đây là điểm cần lưu ý trong quản lý tài nguyên cây thuốc và kiến thức bản địa về sử dụng thảo mộc làm thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số; ngoài ra các sản phẩm khác có đến gần 50 % hộ thường xuyên thu hoạch để làm các đồ dùng, làm nhà, chuồng trại và bán đó là tre, lồ ô, song mây, .... 3.2.3. Mối quan hệ của cộng đồng dân cư với nguồn tài nguyên rừng Hoạt động lâm nghiệp và mối quan hệ của nó với sự tham gia và hưởng lợi của người dân, cộng đồng được tiến hành thông qua phỏng vấn bảng câu hỏi với hộ gia đình tại Ban quản lý rừng phòng hộ Đăk Ang và Ban quản lý rừng phòng hộ Tu Mơ Rông. Có 50 % số hộ nhận đất rừng theo nhóm hộ, cộng đồng và 50% chưa nhận rừng mà chỉ tham gia bảo vệ rừng cho các Lâm trường, BQL rừng. Vấn đề giao đất giao rừng Đối với thôn buôn có giao đất giao rừng: Tại Ban quản lý rừng phòng hộ Đăk Ang, sự tham gia của người dân là rất rõ rệt, hầu hết các hộ tham gia họp thôn (95 %) và từ 50 - 65 % số hộ tham gia vào các bước trong tiếp cận giao đất giao rừng như phân chia ranh giới các nhóm hộ, cộng đồng trên sơ đồ, ngoài thực địa, tham gia đánh giá tài nguyên rừng,... Như vậy, tiến trình giao đất giao rừng ở đây đã được tổ chức tốt và người dân được quyền quyết định trong việc phân chia rừng khi giao và biết được các thông tin về chính sách giao rừng. Đối với thôn buôn chưa giao đất giao rừng: Tại Ban quản lý rừng phòng hộ Tu Mơ Rông, có hai điểm nổi lên là người dân chưa biết đầy đủ thông tin về chính sách giao đất giao rừng của Nhà nước (40 % số hộ). Điều này là thực tế, công tác giao đất giao rừng vừa qua chủ yếu được triển khai bởi các lâm trường có “chỉ tiêu” giao rừng, lúc đó người dân mới được phổ biến chính sách, trong khi đó, các vùng khác không biết về chính sách này, điều này đã làm mất cơ hội để người dân có thể tham gia nhận đất nhận rừng một cách tự nguyện. Ngoài ra, có trên 30 % số hộ có biết về giao đất giao rừng ở các thôn buôn khác, nhưng cũng không đăng ký nhận rừng vì không rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ của người dân khi nhận rừng. Như vậy, chính sách giao đất giao rừng vừa qua chưa được phổ biến đến người dân một cách đầy đủ, ở đâu được giao thì ở đấy được nhận; người dân chưa chủ động trong việc đề xuất thực hiện chính sách. Thu hoạch lâm sản ngoài gỗ Tại các Ban quản lý rừng phòng hộ thuộc lưu vực sông Pô Kô như: Đăk Ang, Tu Mơ Rông, Đăk Nhoong, Đăk Long, Đăk Hà, lâm sản ngoài gỗ rất đa dạng và được hầu hết các hộ gia đình thu hái để sử dụng và bán. Có đến 90 % số hộ thu hái cây rừng làm rau, măng, đọt mây làm thực phẩm hàng ngày và bán; cây thuốc có đến 65 % hộ thường xuyên thu hái để sử dụng; ngoài ra, các sản phẩm khác có đến gần 50% hộ thường xuyên thu hoạch để làm các đồ dùng, làm nhà, chuồng trại và bán. Về sự tăng giảm LSNG và thu nhập từ đó, thực tế cho thấy LSNG đang bị bỏ ngỏ, một tài nguyên “tự do cho mọi người”, thời gian qua chúng bị khai thác không kiểm soát được và thường bị khai thác cạn kiệt do các đợt thu mua nguyên liệu từ tư thương. Tuy nhiên, qua đánh giá về thu nhập của hộ gia đình từ LSNG thì một số hộ (23 %) cho rằng có sự tăng thu nhập từ nguồn tài nguyên này. Điều này có thể giải thích là số lượng LSNG trong rừng có thể giảm sút nhiều nhưng vì giá trị của nó ngày càng tăng và trở thành hàng hóa dễ dàng. Do đó, các hộ gia đình càng thu hoạch nhiều hơn và bán thu được giá trị cao hơn. Điều này ảnh hưởng rõ rệt đến việc quản lý bền vững LSNG. Bảo vệ rừng và quyền sử dụng lâm sản của hộ gia đình Tại các Ban quản lý rừng phòng hộ Đăk Ang, Tu Mơ Rông, Đăk Nhoong, Đăk Long, Đăk Hà, Đăk Plô, Kon Rẫy thuộc lưu vực sông Pô Kô vấn đề bảo vệ rừng và quyền sử dụng lâm sản của hộ gia đình được xem xét ở hai mặt: - Bảo vệ rừng làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống hộ gia đình: Có 33 % số hộ cho rằng họ bị giảm các nguồn thu từ rừng. Trong thực tế, cộng đồng dân cư vẫn thu hái LSNG từ rừng bảo vệ, riêng gỗ, củi và một số LSNG có giá trị như song mây thường bị ngăn chặn. Ảnh hưởng thứ hai là giảm diện tích đất canh tác, điều này khá rõ ràng trong thực tiễn, đất đai thường quy hoạch cho các lâm trường, bao gồm cả nương rẫy bỏ hóa và đang canh tác. Do đó, các nông lâm trường thường trồng rừng vào các diện tích này và tất yếu, các hộ sẽ đi sâu vào rừng hơn để phá rừng lấy đất canh tác. Ở đây, công tác quy hoạch sử dụng đất gắn với truyền thông quản lý đất đai canh tác của cộng đồng chưa được xem xét. - Bảo vệ rừng có tác động tích cực đến đời sống hộ gia đình: Trên 50 % số hộ nhận thức được việc bảo vệ rừng nghiêm ngặt của các lâm trường đã hạn chế được phá rừng và giúp cho việc bảo vệ nguồn nước cho sinh hoạt, hạn chế lũ, lụt,... và thông qua bảo vệ, kinh doanh rừng, các lâm trường đã có đầu tư trở lại cho thôn/buôn như xây dựng hội trường, trường học (28 %). Hưởng lợi của hộ gia đình trong hoạt động chế biến lâm sản Chế biến lâm sản là một lãnh địa riêng của các lâm trường, công ty, người dân hầu như đứng ngoài cuộc với tiến trình này. Các lâm trường thường mở các xưởng cưa, xưởng mộc, xưởng chế biến tre, lồ ô tại địa phương gần rừng. Tuy nhiên, các xưởng này cũng đóng/mở nhiều lần vì không thể giám sát được nguồn nguyên liệu có hợp pháp hay không. Các xưởng chế biến lâm sản này thu hút rất ít người địa phương, đa số chọn lựa lao động từ nơi khác đến vì cho rằng, người địa phương không có tay nghề, việc đào tạo nghề để họ có thể tham gia không được đặt ra. Hưởng lợi khác của cộng đồng đối với chế biến hầu như không đáng kể, một số ít hộ khá tiếp cận để mua gỗ xẻ làm nhà, LSNG (10 %); dễ bán nguyên liệu (3 %); còn lại, đa số có được lợi nhờ lấy được ít củi, mùn cưa, vỏ cây từ các xường này (63 %). Chế biến lâm sản đã đứng ngoài cuộc với sự phát triển kinh tế hộ gia cư; tức là người nghèo ở vùng cao chưa có được lợi ích từ hoạt động này. Trong tương lai, khi cộng đồng có sản phẩm từ rừng, vấn đề cần quan tâm ở đây là các cơ sở chế biến hoặc tập trung thu hút lao động, tạo việc làm và vùng nguyên liệu hoặc các cơ sở chế biến cộng đồng để tăng giá trị sản phẩm rừng. Như vậy, có đến 90 % số hộ thu hái cây rừng làm rau, măng, đọt mây làm thực phẩm hàng ngày và bán; cây thuốc có đến 65 % số hộ thường xuyên thu hái để sử dụng, đây là điểm cần lưu ý trong quản lý tài nguyên cây thuốc và kiến thức bản địa về sử dụng thảo mộc làm thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số. Ngoài ra, các sản phẩm khác có đến gần 50 % số hộ thường xuyên thu hoạch để làm các đồ dùng, làm nhà, chuồng trại và bán (tre, lồ ô, song mây,...). 3.2.4. Thực trạng quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum Tổ chức quản lý RPHĐN tỉnh Kon Tum nói chung và RPHĐN lưu vực sông Pô Kô nói riêng, được thực hiện theo các văn bản quy định và đã được triển khai khá cụ thể ở các BQL RPH. Hệ thống văn bản qui phạm pháp luật, cơ chế chính sách của tỉnh được xây dựng trên cơ sở các qui định của Chính phủ, các bộ ngành Trung ương và điều kiện thực tế ở địa phương nên khá sát với thực tế. Vì vậy, khi triển khai thực hiện không có nhiều vướng mắc. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, bất cập của một số văn bản, cơ chế, chính sách, hướng dẫn thực hiện liên quan đến quản lý RPH nói chung và RPHĐN nói riêng do các cơ quan Trung ương ban hành, cụ thể: (i) Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/07/1998; QĐ 100/QĐ-TTg ngày 06/7/2007; QĐ 164/QĐ-TTg ngày 11/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh mức đầu tư trồng RPH, RĐD đều thấp xa so với định mức kinh tế kỹ thuật trồng rừng hiện hành và chưa phù hợp với thực tế địa phương; (ii) Tại Điểm a Khoản 3.1 Mục 3 TT 02/2008/TTLT về hướng dẫn thực hiện QĐ 147/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ qui định điều kiện nhận hỗ trợ đối với hộ gia đình là phải có trên 50ha đất tập trung, điều này rất khó thực hiện (đã được điều chỉnh bằng TT 70/2009/TTLT-BNN-KHĐT-TC ngày 04/11/2009); (iii) Tại Mục 9 TT 02/2008/TTLT-BKH-BNN-TC ngày 23/06/2008 xác định mức hỗ trợ cho công tác khuyến lâm là 100.000 - 200.000 đồng/ha/năm lại mâu thuẫn với Khoản 5 Điều 5 QĐ 147/2007/QĐ-TTg là mức hỗ trợ là 100.000 - 200.000 đồng/ha/4 năm; (iv) Việc tổ chức trồng RPH và cung cấp cây giống hỗ trợ cho người dân phải thực hiện theo Luật Đấu thầu hiện hành, nên gặp rất nhiều khó khăn và không phù hợp với thực tế sản xuất của ngành nông - lâm nghiệp có tính mùa vụ cao (đã được điều chỉnh bằng TT 70/2009/TTLT của liên bộ); (v) Thông tư 89/2008/TT-BTC ngày 15/10/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, thanh toán vốn ngân sách Nhà nước cho Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng có một số điểm bất cập: (a) Tại Điểm 2.1.2. Khoản 2.1 Mục 2 Phần II qui định Sở KH&ĐT chủ trì phân bổ vốn đầu tư cho từng dự án trong khi đó tại Khoản 5.5 Mục 5 Chương II thì Sở Tài chính chủ trì việc phân bổ vốn; (b) Tại Khoản 3.6 Mục 3 Phần II về thời hạn thanh toán và xử lý nguồn vốn thanh toán là phù hợp với thực tế nhưng mâu thuẫn với TT 108/TT-BTC ngày 18/01/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn xử lý ngân sách cuối năm và lập báo cáo Quyết toán ngân sách hàng năm; và (c) Cơ chế tạm ứng vốn thực hiện trồng rừng không phù hợp với tỉnh Kon Tum nói riêng và các tỉnh vùng Tây Nguyên nói chung có thời vụ trồng rừng vào tháng 7 - 8 hàng năm. RPH tỉnh Kon Tum do 3 chủ thể quản lý (BQL RPH, DNNN, UBND các xã), trong đó các BQL RPH quản lý 137.181 ha chiếm tỷ lệ 75,0 % tổng diện tích RPH, các Doanh nghiệp nhà nước quản lý 28.904 ha chiếm tỷ lệ 15,8 %, còn lại 16.830 ha chiếm tỷ lệ 9,2 % do UBND các xã quản lý. Có tới 75 % diện tích rừng liền vùng liền khoảnh đã được giao cho 08 BQL RPH quản lý bảo vệ. Diện tích các trạng thái rừng thuộc lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum có 164.685,4 ha, trong đó có 53.517,1 ha, chiếm tỷ lệ 32,5 % diện tích rừng liền vùng liền khoảnh đã giao cho 7 BQL RPH quản lý bảo vệ, còn lại 111.168,3 ha chiếm tỷ lệ 67,5 % giao cho Hộ gia đình, Cá nhân, Cộng đồng UBND các xã, Công ty Lâm nghiệp, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp nhà nước, Ban Quản lý rừng đặc dụng được thể hiện ở bảng 3.4. Bảng 3.4. Hiện trạng diện tích các trạng thái rừngtheo các chủ thể quản lý trong lưu vực sông Pô Kô, tỉnh Kon Tum Đơn vị tính: Ha TT Trạng thái rừng Tổng lưu vực HGĐ, cá nhân Cộng đồng UBND BQL RPH Công ty LN DNTN DNNN BQL RĐD Tổng 164.685,4 19.659,8 1.949,9 24.522,4 53.517,1 50.709,6 1.585,6 831,4 11.909,6 I LRTX 110.044,2 15.638,1 1.820,3 12.259,5 36.863,8 33.493,9 222,1 270,1 9.476,4 1 LRTX-G 12.091,7 521,6 134,2 2.739,7 5.314,0 6,8 3.375,4 2 LRTX-TB 34.204,1 2.487,3 1.148,7 1.537,7 11.151,1 14.707,8 2,2 3.169,5 3 LRTX-N 7.959,7 1.105,2 335,9 817,9 1.615,8 3.672,9 0,7 13,7 397,7 4 LRTX-NK 19,3 1,7 6,0 3,1 8,6 5 LRTX-PH 55.769,4 11.522,3 329,8 9.766,6 21.357,3 9.790,7 212,4 256,4 2.533,9 II LRRL 51,9
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_co_so_khoa_hoc_de_phuc_hoi_va_quan_ly_ben.docx