Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 161 trang nguyenduy 02/09/2025 60
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam

Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật gây trồng một số loài cây ngập mặn trên nền cát, đá, sỏi, vụn san hô ngập triều không thường xuyên tại các đảo ven bờ phía Nam, Việt Nam
±0.64
±0.17
±0.17
±0.15
±0.10
±0.15
±0.21
±0.13
±0.09
10
3.61
1.82
1.76
1.15
1.60
1.07
1.58
0.86
0.89
0.57

±0.25
±0.74
±0.21
±0.16
±0.22
±0.13
±0.20
±0.27
±0.13
±0.09
11
3.68
1.93
1.85
1.21
1.70
1.11
1.61
0.85
0.88
0.55

±0.24
±0.69
±0.21
±0.15
±0.22
±0.11
±0.20
±0.25
±0.12
±0.11
12
3.67
1.90
1.80
1.23
1.73
1.10
1.61
0.84
0.93
0.55

±0.26
±0.70
±0.17
±0.14
±0.20
±0.07
±0.18
±0.23
±0.15
±0.13
Bq
3.51
1.74
1.57
0.95
1.50
0.98
1.57
0.81
0.95
0.57

Qua Bảng 4.6 và Hình 4.10 cho thấy thủy triều tại vùng biển phía Nam có độ lớn rất khác nhau, vùng biển phía Đông có độ lớn triều trung bình lớn nhất, đạt 3,51 m; trong khi vùng biển miền Trung và các đảo xa bờ đều có trung bình cao nhất là 1,57 m; thấp nhất là vùng biển Tây Nam Bộ, với trung bình cao nhất chỉ đạt 0,95 m. Theo Hình 4.10 thì mực nước ròng thấp nhất ở vùng biển Đông Nam Bộ (Côn Đảo làm đại diện) tương đương với mực nước lớn nhất tại vùng biển đảo miền Trung và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. 
Tương tự, mức nước dòng thấp nhất ở vùng biển, đảo miền Trung và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa lại tương đương với mực nước lớn nhất tại vùng biển phía Tây Nam Bộ.
H, m
Tg, Tháng
Hình 4. 10 Chênh lệch độ lớn thủy triều theo các vùng biển, đảo phía Nam
Như vậy, chế độ triều khu vực biển, đảo phía Nam rất phức tạp, vùng duyên hải miền Trung từ Quảng Nam trở vào đến Phan Thiết và vùng biển từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên là nhật triều không đều, trong khi vùng phía Đông Nam Bộ từ Vũng Tàu đến Mũi Cà Mau là bán nhật triều không đều. 
Mực nước triều cao nhất tại ven bờ biển Đông Nam Bộ có xu thế tăng dần từ Bắc (Vũng Tàu, Cửa Tiểu) xuống Nam (Gành Hào). Tương tự, mực nước triều cao nhất ở vùng ven biển miền Trung và các đảo ngoài khơi có xu hướng cũng tăng theo hướng từ Bắc xuống Nam. Trong khi đó, tại vùng ven bờ biển phía Tây Nam Bộ, mực nước cực đại giảm theo hướng từ Nam (mũi Cà Mau) lên Bắc (Rạch Giá, Hà Tiên). 
Mực nước triều cao nhất năm thường xuất hiện vào các tháng X, XI và mực nước triều thấp nhất vào các tháng VI và VII. 
Ngoài ra, các yếu tố phi triều cũng ảnh hưởng đến dao động mực nước tại vùng ven biển phía Nam bao gồm sự dâng/rút mực nước do gió mùa và gió bão gây ra. Vào thời kỳ gió mùa Đông Bắc, gió “chướng” có thể làm mực nước vùng ven biển Đông Nam bộ dâng lên 10 – 50 cm (tùy thuộc vào cường độ và thời gian gió thổi) và mực nước vùng biển Tây hạ xuống 10 – 20 cm. Các đợt gió mùa Tây Nam lớn trong mùa mưa có thể làm mực vùng biển Tây Nam Bộ dâng lên 10 - 30cm so với các ngày không gió. Nước dâng trong bão có thể đạt đến 50 – 110 cm, tùy nơi và cấp bão.
Tác động của dòng chảy sông Mê Kông đối với mực nước tại vùng ven biển Nam Bộ khá lớn. Những năm lũ lớn, mực nước vùng ven bờ biển có thể cao hơn năm lũ trung bình 15 – 30 cm. Ngược lại, các năm lũ nhỏ, mực nước thấp hơn năm lũ trung bình 10 – 25 cm. Các yếu tố mưa cục bộ, bốc hơi và thấm cũng ảnh hưởng nhất định đến dao động mực nước.
Như vậy, căn cứ vào độ lớn của mực nước triều và chế độ triều, có thể phân chia vùng ven biển, các đảo ven bờ và ngoài khơi phía Nam nước ta, thành 3 vùng triều khác nhau, đó là (i) Vùng ven biển, đảo ven bờ khu vực miền Trung và các đảo xa bờ; (ii) Vùng ven biển, đảo ven bờ Đông Nam Bộ và; (iii) Vùng ven biển Tây và các đảo nằm trong vịnh Thái Lan. Sự khác nhau này ảnh hưởng rất lớn đến việc phân chia lập địa, phục vụ công tác trồng rừng chắn sóng ven biển, đảo tại các tỉnh phía Nam.
Đặc điểm về thời gian ngập và độ sâu ngập triều
Thời gian ngập triều hay tần suất ngập và độ sâu ngập triều ở mỗi vùng có sự khác nhau rất lớn, kết quả theo dõi về độ ngập triều cao, thấp và bình quân tại một số điểm nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 4.7.
Số liệu tại Error! Not a valid bookmark self-reference. cho thấy rằng độ sâu ngập sâu nhất ở vùng các đảo phía Đông Nam Bộ là 4,1 m, kế đến là 2,3 m ở vùng miền Trung và các đảo xa bờ ngoài khơi, thấp nhất là 1,4 m ở các đảo vùng biển phía Tây Nam Bộ. 
Bảng 4. 7. Độ ngập cao nhất và thấp nhất tại một số đảo vùng biển phía Nam (m)
Tháng
Côn Đảo
Quy Nhơn
Nha Trang
Phú Quý
Phú Quốc
Nước lớn
Nước ròng
Nước lớn
Nước ròng
Nước lớn
Nước ròng
Nước lớn
Nước ròng
Nc lớn
Nước ròng
1
4.1
0.4
2.1
0.5
2.1
0.8
2.1
0.2
1.3
0.4
2
4.1
0.6
1.9
0.5
2.0
0.8
2.0
0.3
1.2
0.4
3
4.1
0.8
1.7
0.5
1.8
0.8
1.8
0.4
1.2
0.4
4
3.9
0.4
1.8
0.5
1.9
0.7
1.9
0.3
1.3
0.4
5
3.8
0.2
1.9
0.4
1.9
0.6
2.0
0.3
1.4
0.4
6
3.7
0.1
2.0
0.4
1.8
0.5
2.1
0.2
1.4
0.4
7
3.7
0.1
1.9
0.3
1.7
0.5
2.0
0.2
1.3
0.4
8
3.7
0.3
1.8
0.5
1.6
0.7
2.0
0.3
1.2
0.4
9
3.8
0.8
1.8
0.7
1.7
0.7
1.8
0.5
1.2
0.4
10
4.1
0.5
2.0
0.8
2.1
0.8
1.9
0.4
1.3
0.4
11
4.1
0.4
2.3
0.8
2.2
0.8
2.1
0.2
1.3
0.4
12
4.1
0.4
2.2
0.7
2.2
0.8
2.1
0.2
1.4
0.4
 Bq
4.1-2.28-0.1
2.3-1.25-0.3
2.2-1.23-0.5
2.1-1.19-0.2
1.4-0.76-0.4

Kết quả khảo sát độ mặn khu vực các đảo vùng biển phía Nam
Kết quả theo dõi về độ mặn nước biển bình quân tại một số điểm nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 4.8 cho thấy độ mặn nước biển ven các đảo có xu hướng tăng dần từ các đảo ven bờ ra phía ngoài. Vùng quần đảo Trường Sa, các đảo xa bờ như Phú Quý, Côn Đảo có độ mặn rất cao 34 - 35‰ và khá đồng đều ở các tháng trong năm. Các đảo ven bờ, nhất là các đảo vùng biển phía Tây Nam Bộ có độ mặn thấp hơn, chỉ cao vào tháng 3 và tháng 4. Các đảo ven bờ Nam Trung Bộ có diễn biến độ mặn khá giống nhau, cao vào mùa khô (tháng 1- 4), thấp vào mùa mưa (tháng 8 - 11). 
Độ mặn ven các đảo bị ảnh hưởng rõ rệt bởi nước mưa từ các sông ở đất liền chảy ra. Đối với các đảo xa bờ, độ mặn nước biển ít bị thay đổi do tác động của nước sông, do vậy độ mặn khá ổn định ở mức 35‰ cho cả mùa mưa và mùa khô.
Bảng 4. 8. Diễn biến độ mặn nước biển trung bình theo tháng tại một số đảo vùng biển phía Nam (‰)
Tháng
Địa điểm thu mẫu
Côn
Đảo
Nhất tự Sơn
Nha Trang
Cù lao xanh
Vân Phong
Trường sa
Phú Quý
Hòn Khoai
Phú Quốc
Hòn
Tre
1
33
32
30
31
31
36
34
25
25
20
2
34
35
31
34
31
34
34
30
30
30
3
35
34.5
33
34
33
35
35
35
35
35
4
35
34
35
35
35
35
35
35
35
35
5
34.5
33
35
33
34
35
35
34
34
34
6
34
30
32
30
32
34
34
33
33
29
7
34
28
30
28
28
34
34
33
33
19
8
34
25
28
28
25
34
34
30
30
20
9
34.5
25
25
27
28
35
34.5
25
25
18
10
32
24.5
25
27
30
35
32
22
22
17
11
31.2
29
27
29
32
35
32
20
20
19
12
32
32
30
32
31
35
32
24
24
20
Kết quả khảo sát về thể nền
Theo kết quả khảo sát tại hiện trường cho thấy bãi triều ven các đảo vùng biển phía Nam có các thể nền rất phong phú, tuy nhiên để đơn giản trong phân loại, chúng được phân thành 4 loại, bao gồm: dạng thể nền đá, dạng sỏi, dạng đá san hô và dạng cát.
i. Dạng thể nền đá (Đ): Là dạng thể nền có cấu trúc là các loại đá lớn, đá tảng tạo thành khối hoặc rời. Phân bố ven các đảo ăn ra phía biển từ 30-50 m, có khi ra đến hàng trăm mét như ở đảo Phú Quý, Bình Thuận. Dạng đá hay gặp là các loại đá đen, đá nâu đỏ, đá granite. Dạng thể nền này không có hoặc có xuất hiện cây ngập mặn mọc thành cụm như ở Côn Đảo, Hòn Tre – Kiên Giang, Hòn Đá bạc và Hòn Khoai – Cà Mau.
Tầng + 300 – 0: Đá màu đen, hoặc nâu đỏ, kích thước 100 x100x 50 cm có khi lên tới 300 x 250 x 200 cm, chiếm 50 - 90%.
Tầng dưới: 90 % là đá tảng, đen hoặc nâu đỏ + 10% cát, sỏi, vụn san hô, vỏ sò kích thước 2-3 cm, màu trắng vàng.
	A	B
C	D
Hình 4. 11 Dạng thể nền đá lớn có hoặc không có cây ngập mặn sinh sống tự nhiên: A tại Ông Đụng, Côn Đảo; B tại hòn Bảy Cạnh, Côn Đảo; C tại Phú Quý, Bình Thuận và D tại đảo Nhơn Châu, Quy Nhơn.
ii. Dạng thể nền sỏi (So):Thể nền được cấu tạo bằng các loại đá màu trắng vàng, hoặc nâu đỏ, kích thước trung bình 25x25x 20 cm ở phía trên, bên dưới là san hô tảng hoặc rời. Đa số dạng sỏi có cây ngập mặn phân bố theo cụm hoặc theo đám gặp ở Hòn Tre và Hòn Lớn thuộc Khánh Hòa, Côn Đảo, Vịnh Xuân Đài; một số nơi không có cây ngập mặn phân bố như Cù Lao Xanh – Bình Định, Bình Ba – Cam Ranh. Dạng thể nền này được phân theo các tầng như sau:
Tầng + 25 – 0: Đá màu trắng vàng, hoặc nâu đỏ, kích thước 20x25x 20 cm, chiếm 95% lẫn 5% cát, vỏ sò, vụn san hô
Tầng dưới: 95 % là san hô tảng, màu trắng ngà+5% cát, đá, vụn san hô kích thước 2-3 cm, màu trắng vàng
 	A	B
C	D
Hình 4. 12 Dạng thể nền sỏi có cây ngập mặn sinh sống ngập khi triều trung bình: A: tại hòn Côn Sơn, Côn Đảo; B: tại Hòn Tre, Nha Trang, Khánh Hòa; C: Dạng lập địa sỏi không có cây ngập mặn sinh sống, ngập khi triều lêntại Vịnh Vân Phong, Vạn Ninh, Khánh Hòa và D: tại Hòn Tre, Nha Trang
iii. Dạng san hô (Sh): Thể nền dạng này tồn tại dưới dạng đá san hô tảng hoặc rời, bên trên có một lớp cát mịn rất mỏng. Đa số không có cây ngập mặn sinh sống, chỉ gặp cây ngập mặn phân bố theo đám như ở Hòn Bảy Cạnh - Côn Đảo, Hòn Khoai – Cà Mau. Dạng này phân thành các tầng như sau:
Phía trên gồm đá san hô, cát với thành phần đá kích thước 10 x 30 cm chiếm 80%, sỏi + cát chiếm 20%. Tầng này luôn biến động theo mùa và theo hướng gió. 
Tầng phía dưới là đá san hô, khi triều xuống chúng được nhô hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn trên mặt nước.
	A	B
C	D
Hình 4. 13 Dạng lập địa san hô đá cách bờ 10 – 20 m ngập khi triều lên, có cây ngập mặn phân bố tự nhiên; A: tại bãi Dương, hòn Bảy Cạnh; B: tại hòn Một, Vịnh Xuân Đài, Sống Cầu; Dạng lập địa đá san hô cách bờ 50 – 200 m ngậptrung bình đến sâu khi triều lên, không có cây ngập mặn; C: tại bãi Dương, hòn Bảy Cạnh, Côn Đảo và D: tại đảo Lớn, Vạn Ninh, Khánh Hòa.
iv. Dạng cát (C): Dạng này thành phần chủ yếu là cát vàng hoặc cát trắng có lẫn vỏ sò, vụn san hô. Dạng này hình thành do quá trình bào mòn các rạn san hô, sau đó được sóng đưa vào bờ tạo thành các bờ cát dọc theo bờ đảo. Trên đó không có cây ngập mặn sinh sống hoặc có xuất hiện cây ngập mặn phân bố thành đám như ở Phú Quốc, Côn Đảo, Hòn Tre – Khánh Hòa.
Tầng (0 - 20 cm): 90% là cát và có lẫn 10 % là sỏi, vụn san hô kích thước 2-3 cm, màu vàng đến xám.
Tầng dưới 20 cm là cát màu vàng hoặc trắng
	Đặc điểm các loại thể nền và mức độ phân bố trên các đảo khảo sát được thể hiện trong Bảng 4.9.
Bảng 4. 9. Đặc điểm và phân bố của các dạng thể nền tại các đảo VBPN
TT
Loại thể nền
Thể nền đá (Đ)
Thể nền sỏi (So)
Thể nền cát (C)
Thể nền san hô(Sh)
1
Phú Quốc, Kiên Giang
0
0
+++
0
2
Hòn Tre, Kiên Giang
+++
0
+
0
3
Hòn Khoai, Cà Mau
++
+
+
++
4
Hòn Côn Sơn, Côn Đảo
++
++
++
+++
5
Bảy Cạnh, Côn Đảo
++
++
++
+++
6
Hòn Bà, Côn Đảo
++
++
++
+++
7
Phú Quý, Bình Thuận
+++
+
++
+++
8
Trường Sa Lớn, Trường Sa
+
+
+
+++
9
Sinh Tồn, Trường Sa
+
+
+
+++
10
Song Tử Tây, Trường Sa
+
+
+
+++
11
Hòn Tre, Nha Trang
++
+++
+
++
12
Hòn Lớn, Vạn Ninh
++
+++
+
++
13
Nhất Tự Sơn, Sông Cầu, PY
++
++
+
++
14
Nhơn Châu, Quy Nhơn, BĐ
++
+
++
++

Ghi chú: 0 – Không gặp, + gặp ít; ++ hay gặp; +++ gặp nhiều
Theo Bảng 4.9 thì dạng thể nền đá gặp ở hầu hết các đảo khảo sát, nhiều nhất là ở các đảo Hòn Tre - Kiên Giang và Phú Quý - Bình Thuận. Các dạng đá chủ yếu bao gồm: (i) đá san hô tảng màu trắng, chiếm 97% + cát, vỏ sò, vụn san hô màu trắng ngà, chiếm 3% bên trên là cát màu trắng lẫn vỏ sò, vụn san hô; (ii) đá granite lớn, kích thước 200 x 300 x150 cm, chiếm 70% , kích thước 20 x 25 x 15 cm, chiếm 20% + cát, vụn san hô chiếm 10%; (iii) đá đen kích thước lớn 150 x 120 x 100 cm chiếm 90% + 10 cát, vỏ sò, vụn san hô. 
Dạng thể nền này thường ở phía gần bờ từ 0 - 50 m, có biệt bãi đá đen tại Hòn Tranh, Phú Quý, Bình Thuận kéo dài tới 80 - 100 m. Dạng thể nền này thường ngập nước khi triều lên, cây ngập mặn phân bố tự nhiên rất ít (Hình 4. 11; B, C), còn lại đa số là không có cây ngập mặn (Hình 4. ; C, D)
Dạng thể nền sỏi gặp ở Côn Đảo, Hòn Tre, Hòn Lớn - Khánh Hòa, Nhất Tự Sơn- Phú Yên. Mẫu chất đá mẹ là các loại đá phiến thạnh màu nâu đỏ, kích thước 30 x 25 x 20 cm chiếm 60% + đá lớn màu nâu đen, kích thước 50 x 60 x 40 cm, chiếm 25% + đá đen kích thước 5 x 10 x 5 cm + đá 2 x 3 cm, cát vàng chiếm 15% . Có thực vật tự nhiên như Vẹt dù, Sú đỏ, Mắm biển .phân bố Hình 4. 12 (A, B) hoặc không có thực vật phân bố Hình 4. 12 (C, D)
	\	A	B
C	D
Hình 4. 14 Dạng lập địa cát với các màu sắc khác nhau; A tại đảo Phú Quốc; B tại Côn Đảo; C tại Nhơn Châu, Quy Nhơn và D tại đảo Song Tử Tây, Trường Sa.
Dạng thể nền san hô cũng gặp ở đa số các đảo khảo sát, tập trung nhiều ở các đảo ngoài khơi Trường Sa, Song Tử Tây, Sinh Tồn, Côn Sơn, Bảy Cạnh, Hòn Bà, Phú Quý Trên các đảo khảo sát chủ yếu bắt gặp nền san hô tảng bên trên là đá, cát, vụn san hô; với bề rộng từ bờ trở ra biển tới 200 m, có khi tới 400-500 m. Đa số dạng này ngập nước ở mức trung bình đến sâu, có gặp một vài điểm có cây ngập mặn phân bố tự nhiên như ở Bãi Dương, hòn Bảy cạnh, Côn Đảo (Hình 4.13; A) và một số đảo thuộc vịnh Xuân Đài, Sông Cầu, Phú Yên (Hình 4.13; B) còn lại đa số không có cây rừng phân bố.
Dạng thể nền cát gặp nhiều ở đảo Phú Quốc - Kiên Giang, các đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa dạng cát cũng thay đổi về màu sắc và kích thước hạt: (i) cát vùng Kiên Giang màu vàng đến nâu vàng có lẫn rễ cây 30% ở bên trên, trong khi bên dưới chủ yếu là cát màu vàng. Hạt mịn, có thực vật có đước, vẹt trụ, vẹt bông đỏ, cóc đỏ, su ổiphân bố; dạng thứ 2 khá phổ biến ở các đảo miền Trung, Côn Đảo và Trường Sa có màu trắng, có lẫn nhiều sỏi nhỏ, vỏ sò, vụn san hô nên là dạng cát rất thô (Hình 4.14)
Sự khác nhau về thể nền các khu vực nghiên cứu có thể là do một số nghiên nhân:
Các nguyên nhân tại chỗ: tầng mẫu chất tại chỗ như các dạng đá granite ăn ra tận mép biển; do các tầng san hô nông, các đường viền san hô của một số đảo hoạt động trước kia bị chết tạo thành; do hoạt động của núi lửa tạo ra các nham thạch như loại đá đen. 
Các nguyên nhân từ biển: Các trầm tích được sóng biển đưa vào bờ như các thể nền sỏi, vụn san hô, cát
Đặc điểm thể nền một số điểm khảo sát điển hình 
Các đảo thuộc Trường Sa: Bao gồm 2 loại đảo nổi và đảo chìm
+ Các đảo nổi: Phần ven đảo - vùng ngập nước ven đảo (Hình 4.15; A, B, C, D)
Đặc trưng chung của các đảo san hô là có một viền đá san hô bao quanh đảo, chiều rộng của các viền san hô này biến động từ 100 - 400 m. Khi triều xuống chúng được nhô hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn trên mặt nước. Độ ngập triều sâu từ 1 – 1,5 m. Thành phần của thể nền này là phía trên gồm đá san hô, cát với thành phần đá kích thước 10 x 30 cm chiếm 70%, sỏi + cát chiếm 30%. Tầng này luôn biến động theo mùa và theo hướng gió. Tầng phía dưới là đá san hô. Độ mặn nước biển các khu vực này khá đồng nhất, trung bình 35‰ vào tháng 3/2011 và thường xuyên bị tác động mạnh bởi sóng và gió, nhất là gió mùa Đông Bắc và giông, bão.
Phần đảo nổi: Thể nền trên bờ các đảo nổi chủ yếu là cát phía trên, kế tiếp là tầng có cát lẫn mùn (màu nâu đen) có thể do phân chim và phân hủy lá cây tạo thành, với độ dày từ 20 – 25 cm, tầng bên dưới là đá san hô màu trắng, xen lẫn sỏi. Tuy nhiên, hiện nay trật tự này bị thay đổi rất nhiều, tầng mặt chủ yếu là các sản phẩm của tầng đá san hô nằm bên dưới được đào lên. Thể nền của các đảo nổi chủ yếu là cát, vụn san hô nghèo dinh dưỡng và khô khó thích hợp cho các loài cây trồng
 	A	B
C	D
Hình 4. 15 Đặc điểm thể nền trên các đảo tại Trường Sa, A, B: Tầng mặt đặc trưng chưa bị tác động và bề mặt hiện tại tại đảo Song Tử Tây; C, D: Thể nền ngập nước ven đảo Song Tử Tây và E, F: tại đảo Sinh Tồn, quần đảo Trường Sa, Khánh Hòa
+ Các đảo chìm: Tương tự như vùng ngập nước ven các đảo nổi, các đảo chìm cũng có một số đặc trưng sau: (i) các đảo chìm là ngập hoàn toàn khi triều lên, trừ một phần nhỏ diện tích không ngập. Khi triều xuống chúng được nhô hoàn toàn hoặc gần một phần trên mặt nước. Độ ngập triều sâu từ 1, 0 – 2,0 m; (ii) Đặc điểm của thể nền này là phía trên gồm sỏi, vụn san hô và cát với thành phần đá sỏi chiếm 50%, cát chiếm 50%. Tầng này biến động mạnh theo mùa và theo hướng gió; (iii) độ mặn nước biển các khu vực này cũng khá đồng nhất, từ 34- 36‰.
(a) (b)
Hình 4. 16 Cát thô được sóng gió đưa vào (a), đảo ngập nước khi triều lên (b) tại đảo Đá Tây, thuộc quần đảo Trường Sa
Đảo Phú Quý, Bình Thuận
Có các loại đá đen kích thước lớn ăn ra biển hoặc đá đen kích thước 40 x 50 x 50 cm, nằm rải rác trên san hô tảng, màu trắng ngà. Phía sau là các bờ cát thô, trắng rộng 10 - 25 m.
(a) (b) ( c)
Hình 4. 17 Các dạng thể nền theo bờ hướng ra biển tại đảo Phú Quý, Bình Thuận: (a) Dạng lập địa cát ngập khi triều cao phân bố rộng từ 10 - 25 m; (b) Dạng lập địa đá đen ăn ra biển khoảng 50 m; (c) Dạng lập địa san hô cách bờ từ 50 - 150 m.
Hòn Tre, Khánh Hòa
Kết cấu thể nền dạng đá nâu đỏ 40 x 50 x 30 cm chiếm 60% + đá 10 x 20 x 15 chiếm 30% + cát, vỏ sò, vụn san hô màu vàng xám, chiếm 10% nằm ở tầng mặt, bên dưới 90% là đá, màu nâu đỏ + 10% cát, đá, vụn san hô kích thước 2 - 3 cm, màu vàng đến xám. Địa hình khá bằng phẳng thể hiện trong Hình 4.18
(a) (b) ( c)
Hình 4. 18Thể nền ven đảo Hòn Tre, Nha Trang, Khánh Hòa: (a) Dạng đá cách bờ 0-5m; (b) Dạng đá 5 – 25 m và (c) Dạng sỏi từ 25 – 45 m
Đặc điểm lý, hóa tính đất tại các điểm khảo sát
Từ Bảng 4. 10 chỉ ra một số đặc tính cơ bản của đất tại các địa điểm khảo sát, bao gồm các đảo ven bờ như Hòn Tre -Kiên Giang, Hòn Tre- Khánh Hòa, Hòn Nhất Tự Sơn- Phú Yên đến các đảo xa bờ như Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý hay các đảo ngoài khơi như Trường sa đều có cùng tính chất như thành phần cơ giới chủ yếu là cát (trên 80%), chỉ số pH cao (hơn 8), độ mặn cao, trong khi rất nghèo về dinh dưỡng. 
Ven đảo Hòn Tre và Phú Quốc Kiên Giang
Tại Hòn Tre, với thành phần cát chiếm tỷ lệ rất cao, trung bình 94,2% ở cả tầng mặt và tầng dưới, phần thịt và sét rất thấp chỉ là khoảng 6%. Với thành phần cát quá cao sẽ là yếu tố bất lợi cho cây trồng sinh sống. Chỉ số pH nước và pH trao đổi từ 8.86 đơn vị; độ mặn trong đất cũng rất cao. Hàm lượng đạm tổng số rất thấp, trung bình 0,007%; lân tổng số 0,010% tức là ở mức rất nghèo.
Tại Phú Quốc chỉ số pH nước và pH trao đổi ở mức trung tính đến hơi kiềm, biến động từ 6,5 đến 8,41 đơn vị; độ mặn trong đất ở mức cao. Thành phần cơ giới với cát chiếm tỷ lệ rất cao, trung bình 99% ở cả tầng mặt và tầng dưới, phần thịt và sét rất thấp chỉ là khoảng 1%. Hàm lượng đạm tổng số rất thấp, biến động từ 0,007 đến 0,014%; lân tổng số biến động từ 0,004 – 0,010% tức là ở mức rất nghèo.
Ven các đảo thuộc cụm đảo Hòn Khoai – Cà Mau
Vùng đất ngập triều ven các đảo ở Hòn Khoai cũng có hàm lượng cát chiếm tỷ lệ rất cao, trung bình 89% ở cả tầng mặt và tầng dưới, phần thịt và sét rất thấp chỉ là khoảng 11%. Với thành phần cát quá cao sẽ là yếu tố bất lợi cho cây trồng sinh sống. Chỉ số pH nước và pH trao đổi từ 8,86 đơn vị; độ mặn trong đất cũng rất cao. Hàm lượng đạm tổng số rất thấp, trung bình 0,04%; lân tổng số 0,07% tức là ở mức rất nghèo.
Ven các đảo thuộc quần đảo Côn Sơn, Bà Rịa- Vũng Tàu
Kết quả phân tích các mẫu đất tại Côn Đảo trong Bảng 4.10 cho thấy chỉ số pH nước và pH trao đổi ở mức cao, chứng tỏ phản ứng của đất dạng trung tính đến kiềm, biến động không nhiều từ 8,54 đến 8,78 đơn vị; độ mặn trong đất ở mức cao, không đồng đều, cao nhất tại khu Bờ đập và Bãi Dương thuộc hòn Bảy Cạnh; thấp nhất ở khu vực Bãi cát lớn, thuộc Hòn Bà. Thành phần cơ giới với cát chiếm tỷ lệ rất cao, trung bình trên 90% ở cả tầng mặt và tầng dưới, tại Hòn Bà và Ông Đụng; thấp nhất ở khu vực thuộc hòn Bảy Cạnh; phần thịt và sét thấp, riêng hòn Bảy Cạnh có thành phần cao hơn. Hàm lượng đạm tổng số rất thấp, biến động từ 0,021 đến 0,07%; lân tổng số biến động từ 0,015 – 0,0770% tức là ở mức nghèo đến trung bình..
Ven các đảo Phú Quý, Bình Thuận
Nhìn vào Bảng 4.10 thấy rằng thành phần cát chiếm tỷ lệ rất cao từ 92,7 đến 99%, tỷ lệ thịt và sét không đáng kể chỉ từ 1 – 7,3 %. Điều đó nói lên tính không thích hợp đối với các loài cây trồng. Chỉ số pH nước và pH trao đổi cao từ 8,45- 8,94 đơn vị; độ mặn trong đất cũng rất cao. Trong khi đó hàm lượng chất dinh dưỡng như đạm tổng số thấp, biến động từ 0,007 – 0,042 %; lân tổng số chỉ ở mức 0,024 – 0,119% từ nghèo đến trung bình.
Quần đảo Trường Sa: Dựa vào tỷ lệ cấp hạt để phân loại đất thì đất ngập mặn ven các đảo thuộc quần đảo trường Sa chủ yếu là cát, cát chiếm từ 93,1- 98,9 % . Trong khi tỷ lệ sét và li mon rất ít chỉ khoảng dưới 7%.
Tầng 0 - 20 cm có phản ứng trung tính đến kiềm với pH nước biến động ít từ 8,45 – 8,90 đơn vị, pH trao đổi cũng rất cao từ 8.41- 8.96 đơn vị. Hàm lượng mùn rất thấp, biến động trong khoảng 0,16 – 0,47%. Đạm, lân tổng s

File đính kèm:

  • docluan_an_nghien_cuu_co_so_khoa_hoc_va_ky_thuat_gay_trong_mot.doc
  • docBao cao tom tat BDao.doc trang A5.doc 24.9.14B.doc
  • docThtin LA 22.9.14 Thoi.doc
  • docTrich yeu luan an Thoi.doc 22.9.14 A.doc