Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 204 trang nguyenduy 18/07/2025 80
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam

Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam
lâm giữ ngạch kiểm lâm viên chiếm trên 50% đối 
với VQG Hoàng Liên và KBBTN Mường Nhé; 36,4% đối với KBTTN Xuân Nha. 
 Điều này cho thấy mặc dù cán bộ công tác tại VQG/KBT hay kiểm lâm có 
trình độ đại học chiếm tỷ lệ tương đối cao nhưng cán bộ có trình độ cao từ Thạc sỹ 
0
10
20
30
40
50
60
70
VQG
Hoàng
Liên
KBTTN 
Mường 
Nhé 
KBTTN
Xuân
Nha
Trình độ 
Số lượng 
0
5
10
15
20
25
30 VQG Hoàng
Liên
KBTTN
Xuân Nha
KBTTN 
Mường 
Nhé 
Ngạch 
Số lượng 
82 
trở lên lại không nhiều, thậm chí là không có ở KBTTN Mường Nhé và Xuân Nha. 
So với yêu cầu công việc, đặc biệt là những việc liên quan đến kiến thức bảo tồn, xử 
phạt vi phạm trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng tại các VQG/KBT vẫn còn thiếu. 
Cần có những định hướng về đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ theo những giai 
đoạn từ ngắn hạn đến dài hạn. Cần sự quan tâm hơn nữa đến những cán bộ đủ năng 
lực, thâm niên được nâng ngạch lên những ngạch cao hơn trong lực lượng để giảm 
bớt những thiệt thòi so với lực lượng cán bộ, kiểm lâm công tác tại Chi cục kiểm 
lâm các tỉnh. 
Bảng 4.7: Diện tích bình quân 01 kiểm lâm VQG/KBT quản lý năm 2013 
VQG/KBT 
Diện tích 
(ha) 
Số lƣợng 
kiểm lâm 
(ngƣời) 
Diện tích 
RĐD/01 kiểm 
lâm quản lý 
(ha) 
Số lƣợng KL 
còn thiếu 
theo quy 
định (ngƣời) 
VQG Hoàng Liên 28.497,5 55 518,1 2 
KBTTN Mường Nhé 45.581,0 9 5.064,6 82 
KBTTN Xuân Nha 16.316,8 22 741,7 11 
Bình quân chung 90.395,3 86 1.051,1 95 
(Báo cáo công tác quản lý bảo vệ rừng các năm 2013 của VQG Hoàng Liên, 
KBTTN Mường Nhé, KBTTN Xuân Nha) 
KBTTN Mường Nhé hiện có 24 cán bộ nhân viên làm việc, trong đó có 9 cán 
bộ mang mã ngạch kiểm lâm quản lý 45.581ha RĐD. Với một khu vực nhạy cảm 
như vậy, nạn dân di cư tự do lớn, nhiều dân tộc sống rải rác trong rừng, lực lượng 
kiểm lâm mỏng khó có thể kiểm soát hết mọi vấn đề nảy sinh trong quá trình bảo vệ 
rừng (theo quy định tại NĐ117/2010/NĐ-CP một kiểm lâm quản lý 500 ha RĐD, 
nhưng ở KBTTN Mường Nhé một kiểm lâm quản lý trên 5.000ha rừng). 
KBTTN Xuân Nha do trực thuộc Chi cục kiểm lâm tỉnh Sơn La nên có 22/24 
cán bộ mang mã ngạch kiểm lâm, quản lý 16.316,8 ha RĐD, theo quy định hiện vẫn 
còn thiếu lực lượng do vậy việc thực thi pháp luật còn nhiều khó khăn. 
83 
Với địa bàn quản lý rộng, điều kiện đi lại khó khăn như ở khu vực Tây Bắc, 
nhưng lực lượng kiểm lâm trực tiếp thực hiện công tác tuần tra bảo vệ rừng còn thiếu 
nhiều so với quy định, cao nhất là KBTTN Mường Nhé thiếu 82 kiểm lâm, KBTTN 
Xuân Nha thiếu 11 kiểm lâm, ít nhất là VQG Hoàng Liên thiếu 2 kiểm lâm. Do thiếu 
nên khối lượng công việc giao cho một cán bộ thường lớn, một người có thể phải 
đảm nhận vài công việc khác nhau. 
c. Về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ các VQG/KBT 
Bảng 4.8: Các khoá tập huấn nâng cao năng lực cho kiểm lâm các VQG/KBT 
trong những năm gần đây 
T
T 
Các khoá tập huấn nâng cao năng lực cho 
cán bộ VQG/KBT 
VQG 
Hoàng 
Liên 
KBTTN 
Mƣờng 
Nhé 
KBTTN 
Xuân 
Nha 
1 Bồi dưỡng kiến thức QLNN và nghiệp vụ các 
ngạch Kiểm lâm 
x x x 
2 Bồi dưỡng nghiệp vụ cho KL địa bàn x x x 
3 Tập huấn sử dụng phần mềm Mapinfo và GPS x x 
4 Tập huấn theo dõi diễn biến rừng x x 
5 Tập huấn xây dựng kế hoạch quản lý x x 
6 Tập huấn xây dựng hương ước quy ước BVR x 
7 Tập huấn điều tra, quản lý, sử dụng TNR x x 
8 Tập huấn điều tra và bảo tồn ĐDSH x x x 
9 Tập huấn kỹ năng giáo dục môi trường x x 
10 Bồi dưỡng kiến thức NN và PTNT x 
11 Tập huấn nâng cao năng lực thực thi PL x x x 
12 Bồi dưỡng nghiệp vụ xử lý vi phạm trong 
quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 
x x x 
13 Đào tạo về công nghệ sinh học x 
(Tổng hợp báo cáo công tác bảo tồn VQG Hoàng Liên, KBBTN Mường Nhé, 
KBTTN Xuân Nha, 2013) 
84 
Hầu hết các VQG/KBT nói chung, VQG Hoàng Liên, KBTTN Mường Nhé 
và KBTTN Xuân Nha nói riêng chưa có cán bộ được đào tạo chuyên về bảo tồn 
ĐDSH mà chỉ thông qua các lớp tập huấn ít ngày, do đó kiến thức về bảo tồn 
ĐDSH còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý và bảo tồn rừng. 
Chính bởi không có cán bộ chuyên sâu về bảo tồn ĐDSH, nên cán bộ kiểm lâm 
thường phải kiêm nhiệm hai chức năng bảo tồn và quản lý bảo vệ rừng. Điều này 
cũng làm giảm hiệu quả của công việc quản lý bảo vệ rừng. 
Có thể thấy: 
 Các khóa tập huấn trong những năm qua chỉ tập trung vào thực thi pháp luật; 
xử lý vi phạm trong quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; bồi dưỡng về 
ngạch bậc (đáp ứng tiêu chuẩn ngạch bậc và chế độ phụ cấp). 
 Những khoá tập huấn chuyên sâu về bảo tồn, điều tra ĐDSH; đánh giá TNR; 
kỹ năng hiện trường; kỹ năng làm việc với cộng đồng; cập nhật kiến thức về 
phát triển rừng và kỹ năng quản lý còn thiếu và ít. 
 Thời gian tập huấn thường ngắn, không thường xuyên và chưa thực sự mang 
lại hiệu quả cao (trừ các lớp ngạch bậc thời gian bồi dưỡng được Nhà nước 
quy định). 
Như vậy công chức, viên chức VQG/KBT nói chung và cán bộ làm công tác 
bảo tồn nói riêng chưa được đào tạo chuyên sâu về “bảo tồn”. Chuyên ngành đào 
tạo của cán bộ VQG/KBT chủ yếu là Lâm nghiệp và một số ngành khác như Kinh 
tế, Luật, Nông nghiệp, Quản lý đất đai và Quản lý môi trường. Với chuyên ngành 
trên chưa đủ để thể thực hiện tốt nhiệm vụ vừa quản lý, bảo vệ vừa bảo tồn ĐDSH. 
Trong thời gian tới thay vì chỉ tập trung vào công tác bảo vệ, các VQG/KBT 
cần phải có kế hoạch đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn. Tất 
nhiên, việc bảo vệ là rất quan trọng, nhưng nếu chỉ tập trung vào vấn đề bảo vệ thì 
các VQG/KBT chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ của hệ thống RĐD. 
Quyền và nghĩa vụ của kiểm lâm ở các VQG/KBT cũng chưa đáp ứng được 
yêu cầu công việc bảo vệ rừng, họ bị hạn chế ở việc áp dụng pháp luật liên quan đến 
85 
xử phạt vi phạm Lâm luật, hạn chế trong việc sử dụng các công cụ hỗ trợ và vũ khí 
khi thực thi công vụ (đặc biệt với những KBT mà kiểm lâm vẫn bị xếp vào ngạch 
viên chức như KBTTN Mường Nhé). 
d. Về chế độ ưu đãi, khuyến khích công chức, viên chức các VQG/KBT 
Các chính sách thu hút nguồn lực tại các VQG/KBT chưa được chú trọng, 
còn thấp và không đều. 
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công việc quản lý, bảo vệ và phát 
triển rừng của các BQL VQG/KBT hiện nay còn nghèo nàn, thiếu thốn. Ngoại trừ 
VQG Hoàng Liên được sự đầu tư của tỉnh, có nguồn tái đầu tư từ các nguồn thu 
khác nên cơ sở vật chất tương đối khang trang. Công cụ hỗ trợ cho công tác tuần 
tra, thực thi pháp luật, phòng cháy chữa cháy rừng của kiểm lâm các VQG/KBT khá 
khiêm tốn so với kiểm lâm ở các Hạt kiểm lâm huyện và so với công việc tiềm ẩn 
nhiều nguy hiểm như hiện nay. Điều này cũng phần nào làm giảm hiệu quả công tác 
thực thi pháp luật, bảo vệ rừng của các VQG/KBT. 
Các VQG/KBT hầu hết ở những vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại, ăn ở khó 
khăn, đặc biệt họ lại phải xa gia đình hoặc nếu ở gần thì con cái ít có điều kiện về 
học tập, vui chơi. Vì vậy cần có một cơ chế khuyến khích cho những cán bộ này 
một môi trường làm việc tốt, được trang bị cơ sở vật chất đủ. Nếu tạo ra môi trường 
làm việc tốt có thể khuyến khích cán bộ yên tâm công tác, gắn bó và tâm huyết với 
công việc. Hiện tại Nhà nước chưa có cơ chế khuyến khích rõ ràng, cụ thể, khả thi, 
sát với thực tế hay nổi bật đối với các VQG/KBT. Các cơ chế khuyến khích hiện tại 
chưa có sự ảnh hưởng tích cực lớn đến các VQG/KBT và chưa có những khuyến 
khích nhằm thu hút cán bộ có trình độ và năng lực tâm huyết, gắn bó với công việc. 
Một số chế độ ưu đãi đối với cán bộ làm công tác bảo tồn hay công tác ở vùng sâu 
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thì hiện nay việc áp dụng cũng không thống nhất 
trong toàn quốc, việc triển khai thực hiện ở một số tỉnh còn máy móc, khó khăn 
hoặc không áp dụng. 
86 
VQG/KBT thường tập trung ở vùng sâu vùng xa, cán bộ công tác thường ở 
xa trung tâm, huyện lỵ, thuộc những vùng khó khăn, vùng biên giới, hải đảo, cơ hội 
được tiếp xúc với thông tin, công nghệ hiện đại còn ít; điều kiện kinh tế xã hội kém 
phát triển, cơ hội làm thêm để tăng thu nhập không có. Đặc biệt, cơ hội để con em 
họ được học tập ở môi trường tốt rất hạn chế, do đó phần lớn cán bộ công tác tại các 
VQG/KBT không yên tâm công tác và có xu hướng thuyên chuyển đến đơn vị ngoài 
ngành. Để giải quyết vấn đề này cần có cơ chế chính sách tốt về tiền lương, phụ cấp 
cho cán bộ, công chức, viên chức công tác tại các VQG/KBT, thực hiện chế độ ưu 
đãi đối với việc học tập và việc làm cho con em trong ngành. 
Bảng 4.9: Cơ chế khuyến khích cho kiểm lâm tại các điểm nghiên cứu 
Đơn vị 
Các loại phụ cấp (PC) 
PC 
khu 
vực 
PC 
độc 
hại 
PC 
công 
vụ 
PC 
thâm 
niên 
nghề 
PC ƣu 
đãi 
nghề 
PC 
biên 
giới 
PC 
vùng 
ĐB 
KK 
VQG Hoàng Liên x x (GĐ) x x 
KBTTN Mường Nhé x x x x x x 
KBTTN Xuân Nha x x x x x x x 
(Tổng hợp báo cáo công tác bảo tồn VQG Hoàng Liên, KBBTN Mường Nhé, 
KBTTN Xuân Nha, 2013) 
Về mã ngạch cho cán bộ, kiểm lâm công tác tại các KBT hiện nay cũng có 
những điểm chưa thống nhất. Riêng đối với lực lượng kiểm lâm đang làm việc tại 
Hạt Kiểm lâm các KBT mặc dù có chung một mã ngạch 10.226; 10.225; 10.227... 
nhưng theo quy định BQL KBT là đơn vị sự nghiệp có thu nên mặc nhiên ở một số 
tỉnh những cán bộ kiểm lâm này được quy định là viên chức, họ phải chịu nhiều 
thiệt thòi hơn về các chế độ ưu đãi, khuyến khích của nhà nước như phụ cấp công 
vụ, độc hại, phụ cấp nghề, thâm niên nhưng lại phải làm những công việc giống 
như công chức kiểm lâm tại các Chi cục Kiểm lâm tỉnh như ở KBTTN Mường Nhé. 
Riêng VQG Hoàng Liên chỉ có Giám đốc VQG được hưởng phụ cấp công vụ (0,25) 
87 
cho đến 2015 mới được đề nghị giải quyết phụ cấp này cho kiểm lâm công tác tại 
Hạt kiểm lâm VQG. Trong khi đó kiểm lâm ở KBTTN Xuân Nha được công nhận 
là công chức thì kiểm lâm được hưởng đầy đủ mọi chế độ chung cho Chi cục Kiểm 
lâm tỉnh. 
4.2.2.2. Quy hoạch sử dụng đất đai 
Để đạt được mục tiêu bảo tồn, VQG/KBT cần thiết phải có kế hoạch gắn kết, 
hài hòa giữa bảo tồn và phát triển KT-XH địa phương. Để làm việc này một cách 
toàn diện, cần thiết phải có phương án quy hoạch vùng đệm làm cơ sở pháp lý cho 
việc tổ chức thực hiện cũng như kêu gọi các nhà đầu tư, các dự án cho vùng đệm. 
Việc phân chia các phân khu chức năng ở các Vườn hiện nay mặc dù đã có 
nhưng chưa rõ ràng trên thực địa, do đó sẽ khó khăn trong các hoạt động bảo vệ và 
xử lý các vi phạm xảy ra trên các phân khu đối với lực lượng kiểm lâm (vì mức độ 
vi phạm và hình thức xử lý đối với các vi phạm ở từng phân khu cũng có khác 
nhau), điều này sẽ ảnh hưởng đến tính chính xác, hiệu quả xử lý vi phạm và tính 
giáo dục răn đe đối với các đối tượng vi phạm. Vì vậy, việc nhanh chóng xác định 
ranh giới các phân khu rõ ràng trên thực địa là điều hết sức cần thiết ở các 
VQG/KBT hiện nay. 
Mặc dù chúng ta đã có những văn bản yêu cầu một cách cụ thể về quy hoạch 
sử dụng đất tại các VQG/KBT nhưng trên thực tế qua điều tra cho thấy: 
Bảng 4.10: Quy hoạch đất đai tại VQG/KBT trong khu vực nghiên cứu 
VQG/KBT 
số 
phiếu 
khảo 
sát 
Rõ ràng Không iết Chồng chéo 
số 
phiếu 
đồng ý % 
số 
phiếu 
đồng ý % 
số 
phiếu 
đồng ý % 
VQG Hoàng Liên 42 23 54.76 9 21.43 10 23.81 
KBTTN Mường Nhé 43 21 48.84 4 9.30 18 41.86 
KBTTN Xuân Nha 42 13 30.95 27 64.29 2 4.76 
 127 57 44.85 40 31.67 30 23.48 
(Nguồn: điều tra thực tế, 2012) 
88 
Có thể thấy rằng, tại VQG Hoàng Liên hay KBTTN Mường Nhé và Xuân 
Nha, nhiều người khi được hỏi đã không rõ ranh giới chính xác của VQG/KBT. Chỉ 
có khoảng 44,85% ý kiến được hỏi là cho rằng ranh giới VQG/KBT rõ ràng, trong 
đó VQG Hoàng Liên được đánh giá là cao nhất (54,76%). KBTTN Xuân Nha có tới 
64,29% ý kiến người dân được hỏi cho rằng ranh giới của KBT là họ không biết 
trên thực tế. 48,84% ý kiến cho rằng họ biết rõ ranh giới đất đai tại KBTTN Mường 
Nhé nhưng 41,86% ý kiến lại cho rằng ranh giới của KBT hiện nay đang còn chồng 
chéo với nhau. 
 Qua điều này cho thấy, ở các điểm khác nhau, việc quy hoạch một cách rõ 
ràng đất đai của VQG/KBT là khác nhau. VQG Hoàng Liên được sự đầu tư lớn của 
tỉnh, là điểm quan tâm của nhiều cấp, ngành từ Trung ương tới địa phương nên ngân 
sách cũng như sự hỗ trợ về nhân lực cho quy hoạch đất đai được nhiều hơn, do vậy 
việc cắm mốc chỉ giới cũng được thực hiện tốt hơn, phần lớn người dân địa phương 
và chính quyền được quản lý theo địa giới này. 
Hình 4.8: Mức độ đánh giá của ngƣời dân về quy hoạch đất tại VQG/KBT 
Trong 31,67% người dân không biết về quy hoạch của VQG/KBT, Có nhiều 
nguyên nhân khiến người dân cho rằng quy hoạch của VQG/ KBT chưa rõ ràng 
hoặc họ không biết, trong đó có một lí do xuất phát ngay từ khi thành lập 
VQG/KBT. Khi thành lập các VQG/KBT các cơ quan được nhà nước giao trọng 
trách rà soát, đánh giá hiện trạng TNR và lập quy hoạch mới chỉ dừng lại trên giấy 
tờ, do vậy công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của người dân bàn giao cho BQL 
44.85% 
31.67% 
23.48% 
Quy hoạch rõ ràng 
Dân không biết về 
quy hoạch 
Quy hoạch chồng 
chéo 
89 
chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa hết, nhiều diện tích rơi vào tình trạng 2 
chủ. Không những thế khi cắm mốc chỉ giới ngoài thực địa các phân khu trong 
VQG/KBT và ngoài vùng đệm, có những nơi các cơ quan vẫn chưa làm được, hoặc 
khi làm không có sự chứng kiến của người dân và chính quyền địa phương. 
 Chính vì quy hoạch còn chồng chéo, chưa rõ ràng nên ảnh hưởng nhiều đến 
hiệu quả quản lý bảo tồn, các vụ vi phạm thường xảy ra trên những diện tích này. 
Mặt khác trong việc áp dụng các chế tài pháp luật để xử lý vi phạm, rất khó cho các 
cơ quan được giao trách nhiệm quản lý, bảo vệ những diện tích đó. 
4.2.2.3. Vi phạm trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển RĐD tại các điểm 
nghiên cứu 
 Trong những năm qua, công tác bảo vệ RĐD được các cơ quan ban ngành 
quan tâm, chú trọng. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý, tuần tra 
bảo vệ rừng, song tài nguyên RĐD ở đây vẫn bị xâm hại bằng nhiều hình thức khác 
nhau, các hành vi vi phạm của lâm tặc ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là 
trong lĩnh vực chặt phá, cất giấu và vận chuyển lâm sản trái phép. 
Bảng 4.11: Các vụ vi phạm tài nguyên RĐD ở các VQG/KBT từ 2011-2014 
TT Hành vi vi phạm 
Số vụ vi phạm 
VQG 
Hoàng 
Liên 
KBTTN 
Mƣờng 
Nhé 
KBTTN 
Xuân 
Nha 
Tổng 
1 
Mua bán, vận chuyển LS, LSNG 
trái phép 
59 2 49 110 
2 Phá rừng trái pháp luật 13 5 83 101 
3 Khai thác LS, LSNG trái phép 2 21 17 40 
4 
Cất giữ LS, nuôi nhốt ĐVHD trái 
pháp luật 
13 0 48 61 
5 Vi phạm các quy định về PCCCR 4 3 4 11 
 Tổng 91 31 201 323 
(Báo cáo công tác quản lý bảo vệ rừng các năm 2011, 2012, 2013, 2014 của VQG 
Hoàng Liên, KBTTN Mường Nhé, KBTTN Xuân Nha) 
90 
Hình 4.9: Số vụ vi phạm lâm luật phân theo hành vi tại các điểm nghiên cứu 
Qua đánh giá 4 năm từ 2011 – 2014 về công tác bảo vệ RĐD tại VQG Hoàng 
Liên, KBTTN Mường Nhé và KBTTN Xuân Nha cho thấy nguyên nhân dẫn đến 
các vụ vi phạm lâm luật vào RĐD chủ yếu bao gồm: 
i) Mua bán, vận chuyển lâm sản, LSNG trái phép: Hầu hết là lâm sản khai thác từ 
trong VQG/KBT, chủ yếu là cây gỗ quý, các loại ĐVHD 110 vụ, chiếm 34,05%. 
Trong đó các vụ vi phạm tập chung nhiều ở VQG Hoàng Liên (59 vụ), KBTTN 
Xuân Nha (49 vụ), chủ yếu là vận chuyển và buôn bán LSNG từ rừng. Riêng đối 
với VQG Hoàng Liên các vụ buôn bán lâm sản và LSNG ngoài thị trấn Sa Pa nằm 
ngoài kiểm soát của kiểm lâm VQG nên các vụ bắt giữ, xử lý vi phạm do Hạt Kiểm 
lâm huyện xử lý hoặc được bàn giao lại cho Hạt Kiểm lâm huyện. 
ii) Phá rừng trái pháp luật: tập trung ở việc phá rừng lấy đất làm nương rẫy, trồng 
Thảo quả, cây lương thực, một số ít phá rừng lấy đất trồng cây công nghiệp 101 
vụ chiếm 31,27%. Đặc biệt tại Khu BTTN Xuân Nha số vụ vi phạm do Hạt Kiểm 
lâm KBT xử lý chiếm tỷ lệ lớn (83 vụ) chủ yếu là các vụ phá rừng làm nương rẫy 
của người dân địa phương đặc biệt là địa bàn xã Tân Xuân (2011, 2012). Nguyên 
nhân cơ bản do trình độ, tập quán canh tác của đồng bào còn lạc hậu, không có biện 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Mua bán, vận 
chuyển LS, 
LSNG trái 
phép 
Phá rừng trái 
pháp luật 
Khai thác LS,
LSNG trái
phép
Cất giữ LS, 
nuôi nhốt 
ĐVHD trái 
pháp luật 
Vi phạm các 
quy định về 
PCCCR 
Hành vi VP 
VQG Hoàng
Liên
Khu BTTN 
Mường Nhé 
Khu BTTN
Xuân Nha
Sô vụ VP 
91 
pháp cải tạo đất dẫn đến năng suất thấp, thiếu lương thực nên họ phá rừng để lấy đất 
tốt trồng cây lương thực. 
iii) Khai thác lâm sản, LSNG trái phép: chủ yếu là khai thác gỗ, các loại thảo dược, 
săn bắt ĐVHD trong rừng, 40 vụ chiếm 12,4%. Trong đó các vụ vi phạm diễn ra 
đều ở cả ba điểm nghiên cứu, tuy nhiên về số vụ vi phạm mà Kiểm lâm KBT xử lý 
được nhiều ở KBTTN Xuân Nha và KBTTN Mường Nhé. Nguyên nhân chính của 
các vụ vi phạm này là khai thác gỗ và một phần LSNG từ RĐD. Riêng đối với VQG 
Hoàng Liên theo kết quả báo cáo chủ yếu các vụ vi phạm là khai thác LSNG của 
người dân địa phương. Nguyên nhân của loại vi phạm này là do nhu cầu gỗ gia 
dụng ngày một tăng, nhu cầu sử dụng các loài LSNG quý nhiều dẫn đến một số đối 
tượng vì lợi nhuận cao nén lút vào rừng khai thác gỗ, săn bắn, bẫy động vật rừng. 
iv) Cất giữ lâm sản, nuôi nhốt ĐVHD trái pháp luật: một số hộ dân khai thác lâm 
sản, săn bắt ĐVHD vừa phục vụ sinh hoạt trong gia đình, còn lại phần lớn để bán tại 
chỗ và một phần nuôi làm cảnh (đối với các loài Chim, Khỉ). Tuy nhiên cũng có 
những hộ thu mua gom gỗ, LSNG và các loại ĐVHD để mang về các thành phố tiêu 
thụ. Trong 4 năm kiểm lâm VQG/KBT đã xử lý 61 vụ, chiếm 18,88%. Riêng 
KBTTN Xuân Nha đã xử lý 48 vụ trong tổng số 61 vụ, 
v) Vi phạm các quy định về PCCCR: bao gồm cả sử dụng lửa trong rừng, dùng lửa 
khai thác mật ong, đốt nương làm rẫy, sấy Thảo quả, lâm sản 11 vụ, chiếm 3,4%. 
Mặc dù số vụ vi phạm không nhiều nhưng hậu quả và thiệt hại của những vụ cháy 
rừng thường rất lớn. Vụ cháy lịch sử VQG Hoàng Liên, Lào Cai đầu tháng 2/2010 
được ghi nhận là lớn nhất nhiều năm trở lại đây khi thiêu rụi hơn 700 ha rừng, 
cường độ cháy mạnh đặc biệt ở những phân khu phục hồi sinh thái và một phần 
vùng đệm. Thiệt hại ước tính nhiều tỷ đồng từ những diện tích rừng trồng, rừng tự 
nhiên có trồng xen Thảo quả và kinh phí chữa cháy rừng. Thời điểm diễn ra các vụ 
cháy rừng thường vào những mùa hanh khô (tháng 10 đến tháng 4 năm sau), thời 
điểm người dân phát nương làm rẫy, trồng cây lương thực. Đặc biệt do ảnh hưởng 
của biến đổi khí hậu nên thời tiết trong năm diễn biến phức tạp, đặc biệt là mùa khô 
hanh nắng nóng kéo dài kèm theo gió Lào nên nguy cơ cháy rừng thường ở cấp độ 
92 
rất cao. Nhờ có sự nỗ lực của Chính quyền địa phương và Ban quản lý các 
VQG/KBT mà việc kiểm soát lửa rừng đã ngày càng tốt lên, giảm đáng kể số vụ và 
thiệt hại. 
Hình 4.10: Số vụ vi phạm vào RĐD phân theo năm tại các điểm nghiên cứu 
Hạt kiểm lâm VQG Hoàng Liên thực hiện giao khoán bảo vệ rừng tới người 
dân các xã vùng lõi, giám sát chặt chẽ việc trồng rừng, tổ chức tuần tra bảo vệ, 
chăm sóc những diện tích rừng phục hồi sau cháy. Hạt kiểm lâm của Vườn cũng đã 
có sự phối hợp tốt với Hạt kiểm lâm huyện Sa Pa, Hạt kiểm lâm huyện Tam Đường 
trong việc tuần tra, kiểm soát lâm sản, ngăn chặn các hành vi bẫy bắt chim, thú 
rừng, khai thác cây Vầu, cây Sặt, việc đốt gỗ lấy than.... Nhờ có sự phối hợp chặt 
chẽ của các bên đã cho thấy một kết quả tích cực trong bảo vệ rừng, trong số đó các 
vụ vi phạm hầu hết là những vi phạm liên quan đến vận chuyển lâm sản trái pháp 
luật, quy mô không lớn, xử lý hành chính là chủ yếu. 
BQL KBTTN Mường Nhé tăng cường công tác, đôn đốc Hạt kiểm lâm KBT 
và các Trạm quản lý bảo vệ rừng các xã tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện và 
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng. Qua đánh giá cho thấy, việc 
phát hiện, xử lý các vụ vi phạm tại KBTTN Mường Nhé là thấp nhất. Điều này 
được lí giải với diện tích rộng như vậy, lực lượng kiểm lâm mỏng, dân cư sống 
phân tán cho nên việc kiểm soát vi phạm lâm luật là rất khó khăn. Ngườ

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_co_so_ly_luan_va_thuc_tien_ve_bao_ton_va.pdf