Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát triển cho quản lý các khu rừng đặc dụng vùng Tây Bắc Việt Nam

lâm giữ ngạch kiểm lâm viên chiếm trên 50% đối với VQG Hoàng Liên và KBBTN Mường Nhé; 36,4% đối với KBTTN Xuân Nha. Điều này cho thấy mặc dù cán bộ công tác tại VQG/KBT hay kiểm lâm có trình độ đại học chiếm tỷ lệ tương đối cao nhưng cán bộ có trình độ cao từ Thạc sỹ 0 10 20 30 40 50 60 70 VQG Hoàng Liên KBTTN Mường Nhé KBTTN Xuân Nha Trình độ Số lượng 0 5 10 15 20 25 30 VQG Hoàng Liên KBTTN Xuân Nha KBTTN Mường Nhé Ngạch Số lượng 82 trở lên lại không nhiều, thậm chí là không có ở KBTTN Mường Nhé và Xuân Nha. So với yêu cầu công việc, đặc biệt là những việc liên quan đến kiến thức bảo tồn, xử phạt vi phạm trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng tại các VQG/KBT vẫn còn thiếu. Cần có những định hướng về đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ theo những giai đoạn từ ngắn hạn đến dài hạn. Cần sự quan tâm hơn nữa đến những cán bộ đủ năng lực, thâm niên được nâng ngạch lên những ngạch cao hơn trong lực lượng để giảm bớt những thiệt thòi so với lực lượng cán bộ, kiểm lâm công tác tại Chi cục kiểm lâm các tỉnh. Bảng 4.7: Diện tích bình quân 01 kiểm lâm VQG/KBT quản lý năm 2013 VQG/KBT Diện tích (ha) Số lƣợng kiểm lâm (ngƣời) Diện tích RĐD/01 kiểm lâm quản lý (ha) Số lƣợng KL còn thiếu theo quy định (ngƣời) VQG Hoàng Liên 28.497,5 55 518,1 2 KBTTN Mường Nhé 45.581,0 9 5.064,6 82 KBTTN Xuân Nha 16.316,8 22 741,7 11 Bình quân chung 90.395,3 86 1.051,1 95 (Báo cáo công tác quản lý bảo vệ rừng các năm 2013 của VQG Hoàng Liên, KBTTN Mường Nhé, KBTTN Xuân Nha) KBTTN Mường Nhé hiện có 24 cán bộ nhân viên làm việc, trong đó có 9 cán bộ mang mã ngạch kiểm lâm quản lý 45.581ha RĐD. Với một khu vực nhạy cảm như vậy, nạn dân di cư tự do lớn, nhiều dân tộc sống rải rác trong rừng, lực lượng kiểm lâm mỏng khó có thể kiểm soát hết mọi vấn đề nảy sinh trong quá trình bảo vệ rừng (theo quy định tại NĐ117/2010/NĐ-CP một kiểm lâm quản lý 500 ha RĐD, nhưng ở KBTTN Mường Nhé một kiểm lâm quản lý trên 5.000ha rừng). KBTTN Xuân Nha do trực thuộc Chi cục kiểm lâm tỉnh Sơn La nên có 22/24 cán bộ mang mã ngạch kiểm lâm, quản lý 16.316,8 ha RĐD, theo quy định hiện vẫn còn thiếu lực lượng do vậy việc thực thi pháp luật còn nhiều khó khăn. 83 Với địa bàn quản lý rộng, điều kiện đi lại khó khăn như ở khu vực Tây Bắc, nhưng lực lượng kiểm lâm trực tiếp thực hiện công tác tuần tra bảo vệ rừng còn thiếu nhiều so với quy định, cao nhất là KBTTN Mường Nhé thiếu 82 kiểm lâm, KBTTN Xuân Nha thiếu 11 kiểm lâm, ít nhất là VQG Hoàng Liên thiếu 2 kiểm lâm. Do thiếu nên khối lượng công việc giao cho một cán bộ thường lớn, một người có thể phải đảm nhận vài công việc khác nhau. c. Về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ các VQG/KBT Bảng 4.8: Các khoá tập huấn nâng cao năng lực cho kiểm lâm các VQG/KBT trong những năm gần đây T T Các khoá tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ VQG/KBT VQG Hoàng Liên KBTTN Mƣờng Nhé KBTTN Xuân Nha 1 Bồi dưỡng kiến thức QLNN và nghiệp vụ các ngạch Kiểm lâm x x x 2 Bồi dưỡng nghiệp vụ cho KL địa bàn x x x 3 Tập huấn sử dụng phần mềm Mapinfo và GPS x x 4 Tập huấn theo dõi diễn biến rừng x x 5 Tập huấn xây dựng kế hoạch quản lý x x 6 Tập huấn xây dựng hương ước quy ước BVR x 7 Tập huấn điều tra, quản lý, sử dụng TNR x x 8 Tập huấn điều tra và bảo tồn ĐDSH x x x 9 Tập huấn kỹ năng giáo dục môi trường x x 10 Bồi dưỡng kiến thức NN và PTNT x 11 Tập huấn nâng cao năng lực thực thi PL x x x 12 Bồi dưỡng nghiệp vụ xử lý vi phạm trong quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản x x x 13 Đào tạo về công nghệ sinh học x (Tổng hợp báo cáo công tác bảo tồn VQG Hoàng Liên, KBBTN Mường Nhé, KBTTN Xuân Nha, 2013) 84 Hầu hết các VQG/KBT nói chung, VQG Hoàng Liên, KBTTN Mường Nhé và KBTTN Xuân Nha nói riêng chưa có cán bộ được đào tạo chuyên về bảo tồn ĐDSH mà chỉ thông qua các lớp tập huấn ít ngày, do đó kiến thức về bảo tồn ĐDSH còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý và bảo tồn rừng. Chính bởi không có cán bộ chuyên sâu về bảo tồn ĐDSH, nên cán bộ kiểm lâm thường phải kiêm nhiệm hai chức năng bảo tồn và quản lý bảo vệ rừng. Điều này cũng làm giảm hiệu quả của công việc quản lý bảo vệ rừng. Có thể thấy: Các khóa tập huấn trong những năm qua chỉ tập trung vào thực thi pháp luật; xử lý vi phạm trong quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; bồi dưỡng về ngạch bậc (đáp ứng tiêu chuẩn ngạch bậc và chế độ phụ cấp). Những khoá tập huấn chuyên sâu về bảo tồn, điều tra ĐDSH; đánh giá TNR; kỹ năng hiện trường; kỹ năng làm việc với cộng đồng; cập nhật kiến thức về phát triển rừng và kỹ năng quản lý còn thiếu và ít. Thời gian tập huấn thường ngắn, không thường xuyên và chưa thực sự mang lại hiệu quả cao (trừ các lớp ngạch bậc thời gian bồi dưỡng được Nhà nước quy định). Như vậy công chức, viên chức VQG/KBT nói chung và cán bộ làm công tác bảo tồn nói riêng chưa được đào tạo chuyên sâu về “bảo tồn”. Chuyên ngành đào tạo của cán bộ VQG/KBT chủ yếu là Lâm nghiệp và một số ngành khác như Kinh tế, Luật, Nông nghiệp, Quản lý đất đai và Quản lý môi trường. Với chuyên ngành trên chưa đủ để thể thực hiện tốt nhiệm vụ vừa quản lý, bảo vệ vừa bảo tồn ĐDSH. Trong thời gian tới thay vì chỉ tập trung vào công tác bảo vệ, các VQG/KBT cần phải có kế hoạch đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn. Tất nhiên, việc bảo vệ là rất quan trọng, nhưng nếu chỉ tập trung vào vấn đề bảo vệ thì các VQG/KBT chưa thực hiện hết chức năng, nhiệm vụ của hệ thống RĐD. Quyền và nghĩa vụ của kiểm lâm ở các VQG/KBT cũng chưa đáp ứng được yêu cầu công việc bảo vệ rừng, họ bị hạn chế ở việc áp dụng pháp luật liên quan đến 85 xử phạt vi phạm Lâm luật, hạn chế trong việc sử dụng các công cụ hỗ trợ và vũ khí khi thực thi công vụ (đặc biệt với những KBT mà kiểm lâm vẫn bị xếp vào ngạch viên chức như KBTTN Mường Nhé). d. Về chế độ ưu đãi, khuyến khích công chức, viên chức các VQG/KBT Các chính sách thu hút nguồn lực tại các VQG/KBT chưa được chú trọng, còn thấp và không đều. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của các BQL VQG/KBT hiện nay còn nghèo nàn, thiếu thốn. Ngoại trừ VQG Hoàng Liên được sự đầu tư của tỉnh, có nguồn tái đầu tư từ các nguồn thu khác nên cơ sở vật chất tương đối khang trang. Công cụ hỗ trợ cho công tác tuần tra, thực thi pháp luật, phòng cháy chữa cháy rừng của kiểm lâm các VQG/KBT khá khiêm tốn so với kiểm lâm ở các Hạt kiểm lâm huyện và so với công việc tiềm ẩn nhiều nguy hiểm như hiện nay. Điều này cũng phần nào làm giảm hiệu quả công tác thực thi pháp luật, bảo vệ rừng của các VQG/KBT. Các VQG/KBT hầu hết ở những vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại, ăn ở khó khăn, đặc biệt họ lại phải xa gia đình hoặc nếu ở gần thì con cái ít có điều kiện về học tập, vui chơi. Vì vậy cần có một cơ chế khuyến khích cho những cán bộ này một môi trường làm việc tốt, được trang bị cơ sở vật chất đủ. Nếu tạo ra môi trường làm việc tốt có thể khuyến khích cán bộ yên tâm công tác, gắn bó và tâm huyết với công việc. Hiện tại Nhà nước chưa có cơ chế khuyến khích rõ ràng, cụ thể, khả thi, sát với thực tế hay nổi bật đối với các VQG/KBT. Các cơ chế khuyến khích hiện tại chưa có sự ảnh hưởng tích cực lớn đến các VQG/KBT và chưa có những khuyến khích nhằm thu hút cán bộ có trình độ và năng lực tâm huyết, gắn bó với công việc. Một số chế độ ưu đãi đối với cán bộ làm công tác bảo tồn hay công tác ở vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thì hiện nay việc áp dụng cũng không thống nhất trong toàn quốc, việc triển khai thực hiện ở một số tỉnh còn máy móc, khó khăn hoặc không áp dụng. 86 VQG/KBT thường tập trung ở vùng sâu vùng xa, cán bộ công tác thường ở xa trung tâm, huyện lỵ, thuộc những vùng khó khăn, vùng biên giới, hải đảo, cơ hội được tiếp xúc với thông tin, công nghệ hiện đại còn ít; điều kiện kinh tế xã hội kém phát triển, cơ hội làm thêm để tăng thu nhập không có. Đặc biệt, cơ hội để con em họ được học tập ở môi trường tốt rất hạn chế, do đó phần lớn cán bộ công tác tại các VQG/KBT không yên tâm công tác và có xu hướng thuyên chuyển đến đơn vị ngoài ngành. Để giải quyết vấn đề này cần có cơ chế chính sách tốt về tiền lương, phụ cấp cho cán bộ, công chức, viên chức công tác tại các VQG/KBT, thực hiện chế độ ưu đãi đối với việc học tập và việc làm cho con em trong ngành. Bảng 4.9: Cơ chế khuyến khích cho kiểm lâm tại các điểm nghiên cứu Đơn vị Các loại phụ cấp (PC) PC khu vực PC độc hại PC công vụ PC thâm niên nghề PC ƣu đãi nghề PC biên giới PC vùng ĐB KK VQG Hoàng Liên x x (GĐ) x x KBTTN Mường Nhé x x x x x x KBTTN Xuân Nha x x x x x x x (Tổng hợp báo cáo công tác bảo tồn VQG Hoàng Liên, KBBTN Mường Nhé, KBTTN Xuân Nha, 2013) Về mã ngạch cho cán bộ, kiểm lâm công tác tại các KBT hiện nay cũng có những điểm chưa thống nhất. Riêng đối với lực lượng kiểm lâm đang làm việc tại Hạt Kiểm lâm các KBT mặc dù có chung một mã ngạch 10.226; 10.225; 10.227... nhưng theo quy định BQL KBT là đơn vị sự nghiệp có thu nên mặc nhiên ở một số tỉnh những cán bộ kiểm lâm này được quy định là viên chức, họ phải chịu nhiều thiệt thòi hơn về các chế độ ưu đãi, khuyến khích của nhà nước như phụ cấp công vụ, độc hại, phụ cấp nghề, thâm niên nhưng lại phải làm những công việc giống như công chức kiểm lâm tại các Chi cục Kiểm lâm tỉnh như ở KBTTN Mường Nhé. Riêng VQG Hoàng Liên chỉ có Giám đốc VQG được hưởng phụ cấp công vụ (0,25) 87 cho đến 2015 mới được đề nghị giải quyết phụ cấp này cho kiểm lâm công tác tại Hạt kiểm lâm VQG. Trong khi đó kiểm lâm ở KBTTN Xuân Nha được công nhận là công chức thì kiểm lâm được hưởng đầy đủ mọi chế độ chung cho Chi cục Kiểm lâm tỉnh. 4.2.2.2. Quy hoạch sử dụng đất đai Để đạt được mục tiêu bảo tồn, VQG/KBT cần thiết phải có kế hoạch gắn kết, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển KT-XH địa phương. Để làm việc này một cách toàn diện, cần thiết phải có phương án quy hoạch vùng đệm làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện cũng như kêu gọi các nhà đầu tư, các dự án cho vùng đệm. Việc phân chia các phân khu chức năng ở các Vườn hiện nay mặc dù đã có nhưng chưa rõ ràng trên thực địa, do đó sẽ khó khăn trong các hoạt động bảo vệ và xử lý các vi phạm xảy ra trên các phân khu đối với lực lượng kiểm lâm (vì mức độ vi phạm và hình thức xử lý đối với các vi phạm ở từng phân khu cũng có khác nhau), điều này sẽ ảnh hưởng đến tính chính xác, hiệu quả xử lý vi phạm và tính giáo dục răn đe đối với các đối tượng vi phạm. Vì vậy, việc nhanh chóng xác định ranh giới các phân khu rõ ràng trên thực địa là điều hết sức cần thiết ở các VQG/KBT hiện nay. Mặc dù chúng ta đã có những văn bản yêu cầu một cách cụ thể về quy hoạch sử dụng đất tại các VQG/KBT nhưng trên thực tế qua điều tra cho thấy: Bảng 4.10: Quy hoạch đất đai tại VQG/KBT trong khu vực nghiên cứu VQG/KBT số phiếu khảo sát Rõ ràng Không iết Chồng chéo số phiếu đồng ý % số phiếu đồng ý % số phiếu đồng ý % VQG Hoàng Liên 42 23 54.76 9 21.43 10 23.81 KBTTN Mường Nhé 43 21 48.84 4 9.30 18 41.86 KBTTN Xuân Nha 42 13 30.95 27 64.29 2 4.76 127 57 44.85 40 31.67 30 23.48 (Nguồn: điều tra thực tế, 2012) 88 Có thể thấy rằng, tại VQG Hoàng Liên hay KBTTN Mường Nhé và Xuân Nha, nhiều người khi được hỏi đã không rõ ranh giới chính xác của VQG/KBT. Chỉ có khoảng 44,85% ý kiến được hỏi là cho rằng ranh giới VQG/KBT rõ ràng, trong đó VQG Hoàng Liên được đánh giá là cao nhất (54,76%). KBTTN Xuân Nha có tới 64,29% ý kiến người dân được hỏi cho rằng ranh giới của KBT là họ không biết trên thực tế. 48,84% ý kiến cho rằng họ biết rõ ranh giới đất đai tại KBTTN Mường Nhé nhưng 41,86% ý kiến lại cho rằng ranh giới của KBT hiện nay đang còn chồng chéo với nhau. Qua điều này cho thấy, ở các điểm khác nhau, việc quy hoạch một cách rõ ràng đất đai của VQG/KBT là khác nhau. VQG Hoàng Liên được sự đầu tư lớn của tỉnh, là điểm quan tâm của nhiều cấp, ngành từ Trung ương tới địa phương nên ngân sách cũng như sự hỗ trợ về nhân lực cho quy hoạch đất đai được nhiều hơn, do vậy việc cắm mốc chỉ giới cũng được thực hiện tốt hơn, phần lớn người dân địa phương và chính quyền được quản lý theo địa giới này. Hình 4.8: Mức độ đánh giá của ngƣời dân về quy hoạch đất tại VQG/KBT Trong 31,67% người dân không biết về quy hoạch của VQG/KBT, Có nhiều nguyên nhân khiến người dân cho rằng quy hoạch của VQG/ KBT chưa rõ ràng hoặc họ không biết, trong đó có một lí do xuất phát ngay từ khi thành lập VQG/KBT. Khi thành lập các VQG/KBT các cơ quan được nhà nước giao trọng trách rà soát, đánh giá hiện trạng TNR và lập quy hoạch mới chỉ dừng lại trên giấy tờ, do vậy công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của người dân bàn giao cho BQL 44.85% 31.67% 23.48% Quy hoạch rõ ràng Dân không biết về quy hoạch Quy hoạch chồng chéo 89 chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa hết, nhiều diện tích rơi vào tình trạng 2 chủ. Không những thế khi cắm mốc chỉ giới ngoài thực địa các phân khu trong VQG/KBT và ngoài vùng đệm, có những nơi các cơ quan vẫn chưa làm được, hoặc khi làm không có sự chứng kiến của người dân và chính quyền địa phương. Chính vì quy hoạch còn chồng chéo, chưa rõ ràng nên ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả quản lý bảo tồn, các vụ vi phạm thường xảy ra trên những diện tích này. Mặt khác trong việc áp dụng các chế tài pháp luật để xử lý vi phạm, rất khó cho các cơ quan được giao trách nhiệm quản lý, bảo vệ những diện tích đó. 4.2.2.3. Vi phạm trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển RĐD tại các điểm nghiên cứu Trong những năm qua, công tác bảo vệ RĐD được các cơ quan ban ngành quan tâm, chú trọng. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý, tuần tra bảo vệ rừng, song tài nguyên RĐD ở đây vẫn bị xâm hại bằng nhiều hình thức khác nhau, các hành vi vi phạm của lâm tặc ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là trong lĩnh vực chặt phá, cất giấu và vận chuyển lâm sản trái phép. Bảng 4.11: Các vụ vi phạm tài nguyên RĐD ở các VQG/KBT từ 2011-2014 TT Hành vi vi phạm Số vụ vi phạm VQG Hoàng Liên KBTTN Mƣờng Nhé KBTTN Xuân Nha Tổng 1 Mua bán, vận chuyển LS, LSNG trái phép 59 2 49 110 2 Phá rừng trái pháp luật 13 5 83 101 3 Khai thác LS, LSNG trái phép 2 21 17 40 4 Cất giữ LS, nuôi nhốt ĐVHD trái pháp luật 13 0 48 61 5 Vi phạm các quy định về PCCCR 4 3 4 11 Tổng 91 31 201 323 (Báo cáo công tác quản lý bảo vệ rừng các năm 2011, 2012, 2013, 2014 của VQG Hoàng Liên, KBTTN Mường Nhé, KBTTN Xuân Nha) 90 Hình 4.9: Số vụ vi phạm lâm luật phân theo hành vi tại các điểm nghiên cứu Qua đánh giá 4 năm từ 2011 – 2014 về công tác bảo vệ RĐD tại VQG Hoàng Liên, KBTTN Mường Nhé và KBTTN Xuân Nha cho thấy nguyên nhân dẫn đến các vụ vi phạm lâm luật vào RĐD chủ yếu bao gồm: i) Mua bán, vận chuyển lâm sản, LSNG trái phép: Hầu hết là lâm sản khai thác từ trong VQG/KBT, chủ yếu là cây gỗ quý, các loại ĐVHD 110 vụ, chiếm 34,05%. Trong đó các vụ vi phạm tập chung nhiều ở VQG Hoàng Liên (59 vụ), KBTTN Xuân Nha (49 vụ), chủ yếu là vận chuyển và buôn bán LSNG từ rừng. Riêng đối với VQG Hoàng Liên các vụ buôn bán lâm sản và LSNG ngoài thị trấn Sa Pa nằm ngoài kiểm soát của kiểm lâm VQG nên các vụ bắt giữ, xử lý vi phạm do Hạt Kiểm lâm huyện xử lý hoặc được bàn giao lại cho Hạt Kiểm lâm huyện. ii) Phá rừng trái pháp luật: tập trung ở việc phá rừng lấy đất làm nương rẫy, trồng Thảo quả, cây lương thực, một số ít phá rừng lấy đất trồng cây công nghiệp 101 vụ chiếm 31,27%. Đặc biệt tại Khu BTTN Xuân Nha số vụ vi phạm do Hạt Kiểm lâm KBT xử lý chiếm tỷ lệ lớn (83 vụ) chủ yếu là các vụ phá rừng làm nương rẫy của người dân địa phương đặc biệt là địa bàn xã Tân Xuân (2011, 2012). Nguyên nhân cơ bản do trình độ, tập quán canh tác của đồng bào còn lạc hậu, không có biện 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Mua bán, vận chuyển LS, LSNG trái phép Phá rừng trái pháp luật Khai thác LS, LSNG trái phép Cất giữ LS, nuôi nhốt ĐVHD trái pháp luật Vi phạm các quy định về PCCCR Hành vi VP VQG Hoàng Liên Khu BTTN Mường Nhé Khu BTTN Xuân Nha Sô vụ VP 91 pháp cải tạo đất dẫn đến năng suất thấp, thiếu lương thực nên họ phá rừng để lấy đất tốt trồng cây lương thực. iii) Khai thác lâm sản, LSNG trái phép: chủ yếu là khai thác gỗ, các loại thảo dược, săn bắt ĐVHD trong rừng, 40 vụ chiếm 12,4%. Trong đó các vụ vi phạm diễn ra đều ở cả ba điểm nghiên cứu, tuy nhiên về số vụ vi phạm mà Kiểm lâm KBT xử lý được nhiều ở KBTTN Xuân Nha và KBTTN Mường Nhé. Nguyên nhân chính của các vụ vi phạm này là khai thác gỗ và một phần LSNG từ RĐD. Riêng đối với VQG Hoàng Liên theo kết quả báo cáo chủ yếu các vụ vi phạm là khai thác LSNG của người dân địa phương. Nguyên nhân của loại vi phạm này là do nhu cầu gỗ gia dụng ngày một tăng, nhu cầu sử dụng các loài LSNG quý nhiều dẫn đến một số đối tượng vì lợi nhuận cao nén lút vào rừng khai thác gỗ, săn bắn, bẫy động vật rừng. iv) Cất giữ lâm sản, nuôi nhốt ĐVHD trái pháp luật: một số hộ dân khai thác lâm sản, săn bắt ĐVHD vừa phục vụ sinh hoạt trong gia đình, còn lại phần lớn để bán tại chỗ và một phần nuôi làm cảnh (đối với các loài Chim, Khỉ). Tuy nhiên cũng có những hộ thu mua gom gỗ, LSNG và các loại ĐVHD để mang về các thành phố tiêu thụ. Trong 4 năm kiểm lâm VQG/KBT đã xử lý 61 vụ, chiếm 18,88%. Riêng KBTTN Xuân Nha đã xử lý 48 vụ trong tổng số 61 vụ, v) Vi phạm các quy định về PCCCR: bao gồm cả sử dụng lửa trong rừng, dùng lửa khai thác mật ong, đốt nương làm rẫy, sấy Thảo quả, lâm sản 11 vụ, chiếm 3,4%. Mặc dù số vụ vi phạm không nhiều nhưng hậu quả và thiệt hại của những vụ cháy rừng thường rất lớn. Vụ cháy lịch sử VQG Hoàng Liên, Lào Cai đầu tháng 2/2010 được ghi nhận là lớn nhất nhiều năm trở lại đây khi thiêu rụi hơn 700 ha rừng, cường độ cháy mạnh đặc biệt ở những phân khu phục hồi sinh thái và một phần vùng đệm. Thiệt hại ước tính nhiều tỷ đồng từ những diện tích rừng trồng, rừng tự nhiên có trồng xen Thảo quả và kinh phí chữa cháy rừng. Thời điểm diễn ra các vụ cháy rừng thường vào những mùa hanh khô (tháng 10 đến tháng 4 năm sau), thời điểm người dân phát nương làm rẫy, trồng cây lương thực. Đặc biệt do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nên thời tiết trong năm diễn biến phức tạp, đặc biệt là mùa khô hanh nắng nóng kéo dài kèm theo gió Lào nên nguy cơ cháy rừng thường ở cấp độ 92 rất cao. Nhờ có sự nỗ lực của Chính quyền địa phương và Ban quản lý các VQG/KBT mà việc kiểm soát lửa rừng đã ngày càng tốt lên, giảm đáng kể số vụ và thiệt hại. Hình 4.10: Số vụ vi phạm vào RĐD phân theo năm tại các điểm nghiên cứu Hạt kiểm lâm VQG Hoàng Liên thực hiện giao khoán bảo vệ rừng tới người dân các xã vùng lõi, giám sát chặt chẽ việc trồng rừng, tổ chức tuần tra bảo vệ, chăm sóc những diện tích rừng phục hồi sau cháy. Hạt kiểm lâm của Vườn cũng đã có sự phối hợp tốt với Hạt kiểm lâm huyện Sa Pa, Hạt kiểm lâm huyện Tam Đường trong việc tuần tra, kiểm soát lâm sản, ngăn chặn các hành vi bẫy bắt chim, thú rừng, khai thác cây Vầu, cây Sặt, việc đốt gỗ lấy than.... Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ của các bên đã cho thấy một kết quả tích cực trong bảo vệ rừng, trong số đó các vụ vi phạm hầu hết là những vi phạm liên quan đến vận chuyển lâm sản trái pháp luật, quy mô không lớn, xử lý hành chính là chủ yếu. BQL KBTTN Mường Nhé tăng cường công tác, đôn đốc Hạt kiểm lâm KBT và các Trạm quản lý bảo vệ rừng các xã tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng. Qua đánh giá cho thấy, việc phát hiện, xử lý các vụ vi phạm tại KBTTN Mường Nhé là thấp nhất. Điều này được lí giải với diện tích rộng như vậy, lực lượng kiểm lâm mỏng, dân cư sống phân tán cho nên việc kiểm soát vi phạm lâm luật là rất khó khăn. Ngườ
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_co_so_ly_luan_va_thuc_tien_ve_bao_ton_va.pdf