Luận án Nghiên cứu công nghệ khai thác các mỏ quặng sắt lộ thiên dưới mức thoát nước tự chảy trong điều kiện địa chất và địa chất thuỷ văn phức tạp ở Việt Nam

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu công nghệ khai thác các mỏ quặng sắt lộ thiên dưới mức thoát nước tự chảy trong điều kiện địa chất và địa chất thuỷ văn phức tạp ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu công nghệ khai thác các mỏ quặng sắt lộ thiên dưới mức thoát nước tự chảy trong điều kiện địa chất và địa chất thuỷ văn phức tạp ở Việt Nam

iều cao tầng. 3.2.2.3. Ảnh hưởng của phương pháp khai thác đến góc nghiêng bờ công tác Phương pháp khai thác có ảnh hưởng lớn nhất đến góc nghiêng bờ công tác. Khi tất cả các tầng trên bờ công tác đều là tầng công tác và sử dụng dải khấu thông tầng, thì chiều rộng của bờ là lớn nhất và góc nghiêng bờ công tác là nhỏ nhất, xác định theo biểu thức: ( ) , .1 min 1 hn ctghnBn arcctg t tt C αϕ +−= độ (3.12) Ưu điểm của phương pháp này là dự trữ sản xuất lớn, giao thông trên mỏ thông thoáng. Tuy nhiên, phải bóc trước một khối lượng đất đá không cần thiết. - Khi sử dụng dải khấu cụt, chiều rộng mặt tầng công tác B’min thu hẹp hơn so 74 với khi khấu thông tầng. Trong trường hợp này góc nghiêng bờ công tác được nâng lên đáng kể và được xác định: ( ) , .'1 min 2 hn ctghnBn arcctg t tt C αϕ +−= độ (3.13) Các mỏ quặng sắt lộ thiên VN khai thác dưới mức thoát nước tự chảy, các tầng có chiều dài tuyến công tác trung bình đến lớn và hầu hết có một lối ra bãi thải, chiều cao bờ mỏ trung bình đến lớn, số tầng công tác nhiều, một số mỏ có sản lượng đất bóc hàng năm lớn. Vì vậy, cần phải áp dụng dải khấu cụt và khấu đuổi nhau trên các tầng liên tiếp để đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất và tăng góc nghiêng bờ công tác, tạo điều kiện thuận lợi cho điều hoà chế độ công tác mỏ. Thiết bị xúc bốc hiện nay của một số mỏ dung tích gàu còn nhỏ phổ biến từ 1,0÷2,0 m3. Để các thiết bị hoạt động nhịp nhàng và đạt năng suất cao, trên bờ công tác sẽ hình thành các nhóm tầng khấu đuổi hoạt động song song với nhau (xem hình 3.10), khi đó góc nghiêng bờ công tác xác định: ( )[ ] , .1'1 min 3 hn ctghnBmB m n arcctg t tvt t C α ϕ +−+ − = độ (3.14) Trong đó: m- số tầng khấu đuổi trong một nhóm, Kt LLm /= ; Lt- chiều dài tuyến tầng công tác của nhóm, m. L A A B B v t k m in L k B m in A A B v t Hình 3.10: Sơ đồ nguyên lý HTKT dọc, bờ mỏ chia thành nhiều nhóm tầng, khấu đuổi trong nhóm, áp dụng khi các máy xúc có công suất nhỏ Mặt khác, để tăng góc nghiêng bờ công tác tới mức tối đa cho phép, cần thiết 75 phải sử dụng các thiết bị xúc bốc có công suất lớn, số lượng ít thay thế các máy xúc công suất nhỏ (xem hình 3.11). Khi đó sẽ xảy ra các trường hợp: B v t B m in B m in B v t B m in B m in B v t B m in B m in B v t A L Lk B v t B v t k A a, Khi Nx ≤ m b, khi Nx > m Hình 3.11: Sơ đồ công nghệ khai thác áp dụng các máy xúc có công suất lớn - Nếu số máy xúc sử dụng nhỏ hơn hoặc bằng số tầng trong nhóm (Nx ≤ m) thì có thể sử dụng phương pháp khấu đuổi giữa các tầng trên bờ công tác với luồng xúc cụt (xem hình 3.11a), góc nghiêng bờ công tác xác định: ( ) , .'2 min 4 hn ctghnBBn arcctg t tvtt C αϕ ++−= độ (3.15) - Nếu số máy xúc lớn hơn số tầng trong nhóm (Nx > m), có thể phân bờ mỏ thành các nhóm tầng khấu đuổi, hoạt động song song theo thứ tự lần lượt từ trên xuống dưới, sử dụng luồng xúc cụt (xem hình 3.11b), khi đó góc nghiêng bờ công tác được xác định: ( ) , .'1 min 5 hn ctghnBmBmn arcctg t tsvtst C αϕ ++−−= độ (3.16) Trong đó: ms- số nhóm tầng khấu đuổi hoạt động song song. Nghiên cứu các phương pháp khai thác trên, thấy rằng trường hợp khi Nx≤ m góc nghiêng bờ công tác (φC4) xác định theo (3.15) có giá trị lớn nhất. Điều đó có nghĩa là đối với các mỏ quặng sắt lộ thiên có chiều cao bờ công tác lớn như Thạch Khê, Nà Rụa, Tùng Bá, v.v... để tăng góc nghiêng bờ công tác các mỏ phải đầu tư máy xúc công suất lớn để bóc đất đá. 3.2.2.4. Lựa chọn góc nghiêng bờ công tác hợp lý khi chiều cao bờ mỏ lớn 76 Khi khai thác các mỏ lộ thiên có chiều cao bờ mỏ lớn, đặc biệt các mỏ có điều kiện địa chất phức tạp, các thông tin về tính chất cơ lý đất đá có sự thay đổi theo chiều sâu khai thác. Vì vậy, việc xác định góc nghiêng bờ công tác phải tính tới khả năng thay đổi số liệu địa kỹ thuật của mỏ, đảm bảo độ tin cậy và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất [48]. Độ tin cậy của góc nghiêng bờ mỏ được hiểu là xác suất mà bờ mỏ sẽ không xảy ra trượt lở trong quá trình khai thác xuống sâu. Từ đó góc nghiêng tối ưu của bờ công tác có thể được xem xét như sau: Tại thời điểm nào đó mỏ lộ thiên khai thác tới độ sâu (H) với góc nghiêng bờ công tác theo yếu tố công nghệ là φ0 (xem hình 3.12). Để khai thác thêm độ sâu (∆H), khi bổ sung thêm các thông tin về tính chất cơ lý đá và ĐCTV của mỏ, khi đó góc nghiêng bờ công tác được xác định với giá trị φt. Từ đó yêu cầu xác định góc nghiêng φt* để sao cho khai thác phần trữ lượng quặng với độ sâu (∆H) đạt hiệu quả kinh tế lớn nhất. Tuy nhiên, nếu khai thác với góc nghiêng bờ công tác lớn, hệ số dự trữ độ ổn định bờ mỏ nhỏ (xác suất xảy ra trượt lở bờ mỏ lớn). B C A D R H ∆H ϕt 2 ϕt1 ϕ0 E Hình 3.12: Sơ đồ xác định tối ưu hoá góc nghiêng bờ công tác Hệ số ổn định được xác định theo tính chất cơ lý của đất đá, thời gian tồn tại của bờ mỏ và các yếu tố khác ảnh hưởng đến độ ổn định của bờ mỏ. Trên hình 3.12 cho thấy khi góc nghiêng bờ công tác là φt1, khối lượng đất bóc trên 1m bờ mỏ là diện tích ABD, tương ứng với khả năng để bờ mỏ không xảy ra trượt lở là β1. Khi đó độ tin cậy của giá trị thu được từ khả năng bán quặng được xác định: 77 1.. βqq GPP = , đồng (3.17) Trong đó: Pq- khối lượng quặng khai thác được, tấn; Gq- giá bán quặng, đồng/tấn. Khi góc nghiêng bờ công tác là φt2 (φt2 < φt1) khối lượng đất bóc sẽ tăng (diện tích ABCD), tương ứng với khả năng để bờ mỏ không xảy ra trượt lở là β2 > β1 và độ tin cậy của khả năng doanh thu lớn hơn. Khi đó có thể xác định giá trị góc nghiêng bờ công tác φt* để đạt được lợi nhuận lớn nhất là: ( )[ ]pqqđTqq CCPCVVGPL ++−−= ββ ..... 0 → max, (3.18) Trong đó: L- hiệu quả kinh tế đạt được khi khai thác Pq tấn quặng, đồng; VT và V0– khối lượng đất đá bóc tương ứng khi góc nghiêng bờ công tác φt2 và φt1, m3; Cđ- chi phí bóc 1m3 đất đá, đồng/m3; Cq- chi phí khai thác 1 tấn quặng, đồng/tấn; Cp- chi phí phụ trợ, đồng/tấn. Sự thay đổi tính chất của đất đá và điều kiện địa chất ảnh hưởng đến hệ số dự trữ độ ổn định bờ mỏ. Hệ số dự trữ ổn định có thể được xác định như sau [48]: βtn 2,01+= (3.19) Với các yếu tố địa chất của đất đá một mỏ: Góc nội ma sát 300, lực dính kết 50 T/m2, trọng lượng thể tích đất đá 2,5 t/m3, quan hệ giữa trị số tβ tỷ lệ thuận với β, n và tỷ lệ nghịch với góc nghiêng của bờ công tác φt được nêu trong bảng 3.5. Giá trị của tβ được xác định tương ứng với giá trị của n = 1,0; 1,1; 1,2; 1,3, v.v... Giá trị xác suất để bờ mỏ không xảy ra trượt lở (β) được xác định [48]: )(5,0 βφβ t+= (3.20) Giá trị hàm )( βφ t được tra theo bảng ở Phụ lục 2, giá trị β = 0,5÷1,0. Bảng 3.5: Quan hệ giữa tβ với các thông số tβ β n φt 0,0 0,5 1,0 44,0 0,5 0,691 1,1 39,5 1,0 0,841 1,2 36,2 1,5 0,933 1,3 33,5 2,0 0,977 1,4 31,0 78 Với tính chất cơ lý đất đá của mỗi mỏ, từ giá trị của góc nghiêng bờ công tác φt tương ứng xác định hệ số dự trữ độ ổn định (n), theo công thức (3.19) xác định được tβ, theo giá trị tβ xác định được β. Mối quan hệ giữa góc nghiêng bờ mỏ φ và hệ số dự trữ ổn định n (xem hình 3.13) được xác định theo biểu thức: Hn C n tg tg đ ms ..γ ϕϕ += , hay φ = f(n) (3.21) Trong đó: ϕ ms- góc nội ma sát của đất đá, độ; C- lực dính kết của đất đá, T/m2; H- chiều cao bờ mỏ, m; γđ- trọng lượng thể tích đất đá, T/m3. Đồ thị hình 3.13 cho thấy với giá trị góc nghiêng bờ mỏ như nhau, khi chiều cao bờ mỏ lớn thì hệ số dự trữ ổn định sẽ nhỏ hơn so với chiều cao bờ mỏ thấp. Khi biết giá trị φt, VT, V0, Vq, Cđ, Cp, Cq, β sẽ xác định mối quan hệ giữa lợi nhuận (L) và hệ số dự trữ ổn định (n) theo hàm phụ thuộc L = f(n) (xem hình 3.14), qua đó sẽ cho phép xác định được giá trị lợi nhuận lớn nhất (Lmax) tương ứng với góc nghiêng bờ công tác φt* và giá trị tin cậy β. Hình 3.13: Đồ thị quan hệ giữa góc nghiêng bờ công tác và hệ số dự trữ ổn định với các chiều cao khác nhau của bờ mỏ (H1< H2 <H3 < H4) Hình 3.14: Đồ thị quan hệ giữa lợi nhuận L và hệ số dự trữ độ ổn định n Với các mỏ có chiều sâu khai thác lớn, điều kiện địa chất phức tạp, chất lượng quặng xác định và công nghệ, thiết bị khai thác được lựa chọn. Giá trị thương mại của loại quặng cũng như các chi phí khai thác tại mỗi giai đoạn sẽ khác nhau. Căn 79 cứ vào các yếu tố trên khi các mỏ tăng cường khai thác xuống sâu dưới mức thoát nước tự chảy, thường xuyên cập nhật các thông tin về địa chất, ĐCCT và ĐCTV sẽ xác định được góc nghiêng bờ công tác (φt*) tại từng giai đoạn, sao cho hiệu quả kinh tế của hoạt động khai thác của doanh nghiệp là lớn nhất (Lmax) và bờ mỏ đảm bảo ổn định, không xảy ra trượt lở. Như đã biết góc nghiêng bờ công tác còn phụ thuộc rất lớn vào công suất thiết bị xúc bốc và vận tải, sơ đồ công nghệ bóc đất trên bờ mỏ. Với các mỏ quặng sắt lộ thiên VN khai thác dưới mức thoát nước tự chảy, có chiều cao bờ mỏ lớn, để đảm bảo các thông số kỹ thuật – công nghệ, căn cứ đặc điểm cấu trúc địa chất và sơ đồ công nghệ được lựa chọn, góc nghiêng bờ công tác luôn phải thỏa mãn điều kiện: kttCi γϕϕ ≤≤ * , (3.22) Từ đó, góc nghiêng bờ công tác tối ưu đạt được khi: φCi = φt*, trong đó: φCi- góc nghiêng bờ công tác xác định theo điều kiện sơ đồ công nghệ bố trí máy xúc trên bờ mỏ, i = 2; 3; 4; 5. 3.3. Nghiên cứu khai thác với đáy mỏ hai cấp đối với các mỏ có điều kiện ĐCTV phức tạp 3.3.1. Áp dụng công nghệ khai thác đáy mỏ hai cấp đối với các mỏ có chiều dài đường phương lớn Công nghệ khai thác đáy mỏ hai cấp đã được PGS.TS Hồ Sĩ Giao nghiên cứu, đề xuất áp dụng cho các mỏ than lộ thiên VN từ những năm 80 của thế kỷ XX [5]. Tuy nhiên, đối với các mỏ quặng sắt lộ thiên VN chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ. Các mỏ như Thạch Khê, Tùng Bá, Nà Rụa, v.v...có chiều dài theo đường phương lớn. Mặt khác, các mỏ trên có ĐCTV phức tạp, tại mỏ Thạch Khê lượng nước ngầm chảy vào đáy mỏ liên tục, kéo theo lượng bùn cát trôi xuống đáy mỏ khá lớn. Do vậy, để đạt được tốc độ xuống sâu cần thiết đảm bảo sản lượng yêu cầu, các mỏ trên cần áp dụng công nghệ khai thác với đáy mỏ hai cấp. Dung tích đáy thấp để đảm bảo chứa hết lượng bùn và nước chảy vào đáy mỏ xác định theo biểu thức (2.1), chiều dài đáy mỏ phải đảm bảo thỏa mãn (2.4), quan 80 hệ giữa chiều dài đáy thấp và đáy cao xác định theo biểu thức (2.9) và (2.10). Theo [5] khi xác định thời gian chuẩn bị mới của đáy thấp chỉ gồm các công việc: Đào hào dốc, đào hào chuẩn bị, mở rộng tầng. Tuy nhiên, với mỏ Thạch Khê hàng nằm lượng bùn đất của tầng đất yếu trôi xuống đáy moong rất lớn, nên thời gian chuẩn bị tầng mới của đáy thấp ngoài các công việc trên còn phải thực hiện việc nạo vét bùn. Do vậy, thời gian chuẩn bị tầng mới đáy thấp được xác định theo biểu thức: ( ) )].().[(. . .. ).().( . 11 2 11 1 γϕαγϕ γϕα ctgctghctghbQ hL QK ctgctghhL t ctgctgQ hL ctghbQ hL QK V tT C xxb b d x C xxb b dC ++++ + += =+++++= (3.23) Từ biểu thức (2.11) và (3.23) xác định được chiều dài đáy thấp để trong một mùa khô có thể đào sâu được một hay một số tầng là: ( ) ( ) ++ ++ − = αγϕ λ ctghbh K h ctgctgh t n Q L C b b dx ... )12( 1 , m (3.24) Trong đó: td- thời gian đào hào dốc, tháng; Vb- khối lượng bùn đất trôi xuống đáy mỏ, m3; hb- chiều dày lớp bùn ở đáy mỏ, m; Kb- hệ số giảm năng suất của máy xúc khi xúc bùn lẫn nước ở đáy mỏ, Kb = 0,45÷0,6. Tốc độ xuống sâu của đáy thấp được xác định như sau: ( ) ( ) ++++ + + == γϕαγϕ ctgctgctghb K ctgctgh Q Lh t h T hV C b b x d C S 11 . , m/n (3.25) Nếu đáy thấp có chiều dài lớn hơn thì có thể dùng 2÷4 máy xúc để chuẩn bị tầng mới, khi đó thời gian chuẩn bị tầng mới của đáy thấp được rút ngắn đáng kể, có thể xác định bằng đồ thị L = f(T). 3.3.2. Lựa chọn công nghệ phân khu vực khai thác theo mùa Với các mỏ có số thiết bị khai thác hạn chế và yêu cầu sản lượng không cao, khai thác dưới mức thoát nước tự chảy có thể áp dụng phương pháp khai thác phân 81 khu vực theo mùa [5]. Mỏ được chia thành 2 khu vực theo đường phương của vỉa. Một khu vực để làm việc trong mùa mưa và một khu vực để làm việc trong mùa khô. Khu vực làm việc trong mùa khô có đáy thấp hơn khu vực làm việc trong mùa mưa một số tầng tùy theo điều kiện sản trạng cụ thể của vỉa quặng được quyết định khi xây dựng biểu đồ chế độ công tác và lịch kế hoạch (xem hình 3.15). Áp dụng phương pháp phân khu vực khai thác theo mùa có ưu, nhược điểm: 1. Trong điều kiện mỏ có thiết bị hạn chế vẫn giữ được sự ổn định sản xuất giữa các mùa trong năm; 2. So với khi chuẩn bị trên toàn bộ chiều dài đáy mỏ thì tốc độ khai thác xuống sâu ở trường hợp này lớn hơn do hạn chế được phần nào ảnh hưởng của nước mưa; 3. Khi chiều dày thân quặng thay đổi theo đường phương, theo chiều sâu và hàm lượng quặng giữa các khu khác nhau thì có thể bằng biện pháp kết hợp khai thác giữa 2 khu vực để điều hòa chất lượng quặng nguyên khai. a, +115 +130 +145 MXTLGN +115 +130 +145 b, Hình 3.15: Sơ đồ nguyên lý khi phân khu vực khai thác theo mùa a, Đang mùa khô; b, Đang mùa mưa Để đảm bảo dự trữ dung tích của đáy thấp chứa hết lượng nước chảy vào trong những trận mưa lớn nhất và thuận lợi cho quá trình nạo vét bùn ở đáy mỏ, công tác chuẩn bị ở khu vực đáy thấp nên thi công theo trình tự thuận, tức là kết thúc chu kỳ chuẩn bị tầng mới bằng sự kết thúc mở rộng hào đúng thời điểm bắt đầu mùa mưa năm sau. Để thỏa mãn điều kiện trên chu kỳ chuẩn bị tầng mới của đáy 82 mỏ (TC1) ở khu vực thấp phải đúng bằng thời gian mùa khô (Tk) trong năm [5]: kC TT =1 , Hay: km x C đd TtQ ctghbhLt =+++ ).(1 α , tháng ).( )]([ 1 αctghbh QttTL C xmdk đ + +− = , m Hay c mđkk đ t ttTLL )]([1 +− = , m (3.26) 3.4. Nghiên cứu xây dựng các sơ đồ công nghệ khai thác chọn lọc đối với các thân quặng (gốc) có cấu trúc địa chất phức tạp 3.4.1. Cơ sở xác định tổn thất và làm nghèo quặng Quá trình khai thác khoáng sản nói chung và khai thác quặng sắt lộ thiên nói riêng, giá trị tổn thất và làm nghèo quặng biểu thị trình độ kỹ thuật và tổ chức sản xuất mỏ, mức độ khó khăn và thuận lợi của điều kiện tự nhiên, cũng như khả năng tận thu tài nguyên trong lòng đất. Các hệ số tổn thất và làm nghèo được xác định như sau [5], [7], [32]: - Hệ số tổn thất quặng: 100. c m m Q QK = , % (3.27) - Hệ số làm nghèo quặng: ,100 k đ Q Q r = % (3.28) Trong đó: Qc- khối lượng quặng địa chất trong cân đối, tấn; Qm- khối lượng quặng trong cân đối bị mất trong quá trình khai thác, tấn; Qđ- khối lượng đất đá bị lẫn vào quặng khai thác, tấn; Qk- khối lượng quặng nguyên khai, tấn. đmck QQQQ −−= , tấn Như vậy hệ số làm nghèo được viết dưới dạng sau: ,100 đmc đ QQQ Q r +− = % (3.29) Các giá trị Qm và Qđ phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp khai thác ở vùng tiếp xúc giữa đất đá và quặng, các thông số của HTKT, điều kiện thế nằm, cấu tạo của vỉa, các thông số làm việc của thiết bị xúc bốc, v.v - Trường hợp đất đá lẫn vào quặng có chứa thành phần Fe với hàm lượng α’’ thì hệ số làm nghèo sẽ được giảm xuống. Mối quan hệ giữa hệ số làm nghèo với hàm lượng Fe trong quặng nguyên khai và trong đất đá lẫn vào quặng được xác 83 định như sau: Khi trong đất đá lẫn vào quặng có chứa Fe với hàm lượng α’’, khối lượng Fe có chứa trong quặng nguyên khai là [5]: ( ) ')(" ααα đmcđmc QQQQQQ +−=+− (3.30) Sau khi biến đổi ta có: đmc đ QQQ Q +− = − − " ' αα αα (3.31) Hay r = " ' αα αα − − (3.32) Trong đó: α, α’, α’’– tương ứng là hàm lượng Fe trong quặng nguyên khối, trong quặng nguyên khai và trong đất đá lẫn vào quặng, %. Khi hàm lượng Fe trong quặng nguyên khai đã được quy định (α’= α’0) thì tỷ lệ làm nghèo tính theo biểu thức (3.32) sẽ là tỷ lệ làm nghèo cho phép (r = r0). Từ giá trị r0 theo mối quan hệ giữa (r) và (Km) sẽ xác định được tỷ lệ tổn thất định mức. 3.4.2. Các nguyên nhân gây lên tổn thất và làm nghèo quặng trong quá trình khai thác lộ thiên Các nguyên nhân cơ bản gây tổn thất và làm nghèo quặng trong quá trình KTLT gồm: Sự nghiên cứu và thăm dò địa chất đối với từng khoáng sàng là chưa đầy đủ; sự đánh giá kinh tế trữ lượng thăm dò khi phân chia chúng thành trữ lượng trong cân đối và ngoài cân đối chưa đúng mức; thiết kế, lập kế hoạch tổn thất và làm nghèo trong quá trình khai thác không tính toán và đánh giá kinh tế các kích thước tổn thất và làm nghèo, cũng như thiếu sự đánh giá thiệt hại về kinh tế do tổn thất và làm nghèo vượt định mức; áp dụng công nghệ, thiết bị khai thác các đới tiếp xúc giữa đất đá và quặng chưa hợp lý; quá trình khai thác không tuân thủ theo thiết kế; chưa áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong khai thác, v.v Các nguyên nhân này có thể chia thành 4 nhóm (xem hình 3.16). Các yếu tố trên có ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình lựa chọn công nghệ và thiết bị khai thác, phương pháp điều khiển nâng cao chất lượng quặng, v.v... phù hợp với điều kiện tự nhiên – kỹ thuật của các mỏ quặng sắt. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân chính gây nên tổn thất và làm nghèo 84 quặng, từ đó cần áp dụng một số biện pháp để giảm chúng như: Các biện pháp ở giai đoạn thăm dò, ở giai đoạn thiết kế, các biện pháp trong quá trình khai thác, các biện pháp tổ chức. Để giảm tổn thất và làm nghèo quặng cần phải thực hiện đồng bộ và thường xuyên các biện pháp trên. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án này chỉ nghiên cứu về biện pháp KNM và xúc bốc chọn lọc nhằm giảm tổn thất và làm nghèo đối với các mỏ khai thác quặng gốc có địa chất phức tạp. Hình 3.16: Các nguyên nhân cơ bản gây tổn thất và làm nghèo quặng 3.4.3. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới tổn thất và làm nghèo khi khai thác mỏ quặng sắt lộ thiên Trong quá trình KTLT tổn thất và làm nghèo quặng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các điều kiện tự nhiên và kỹ thuật mỏ như: Tính chất cơ lý của đất đá và quặng, chiều dày và góc cắm của thân quặng, số lớp đá kẹp, công nghệ khai thác, vị trí mở vỉa và hướng phát triển công trình mỏ, ĐBTB sử dụng, các thông số của HTKT. Các nguyên nhân gây tổn thất và làm nghèo quặng Xác định biên giới mỏ Xác định chiều cao tầng Do công tác thiết kế mỏ Hướng phát triển CT mỏ Tính đồng bộ thiết bị Hình dạng của vỉa quặng Chiều dày của vỉa quặng Do công tác thăm dò khoáng sản Hàm lượng KSCI Số lượng KSCI Số lượng các lớp đá kẹp trong vỉa Các thông số KNM quặng, đá vách (trụ), Sơ đồ công nghệ xúc bốc quặng Do công nghệ khai thác Dừng công tác mỏ Vận tải, lưu kho Thiếu quan tâm của cán bộ lãnh đạo Do quá trình sản xuất Ý thức của công nhân và cán bộ thực hiện công tác khai thác 85 Tổn thất quặng trong quá trình khai thác do các nguyên nhân: Tổn thất do dọn sạch nóc tầng quặng trước khi khấu, khi dọn vách vỉa; do quặng còn sót lại ở trụ vỉa, do quá trình chọn lọc các lớp đá kẹp, do quá trình nổ mìn và vận chuyển. Đất đá làm nghèo quặng trong quá trình khai thác gồm: Đất đá từ vách và trụ vỉa xúc lẫn, từ các lớp đá kẹp được phép xúc xô hoặc xúc chọn lọc. Như vậy, các nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng tới tổn thất và làm nghèo khi khai thác quặng sắt bằng MXTLGN bao gồm: 1- Thân quặng càng mỏng thì tỷ lệ tổn thất và làm nghèo càng cao; 2- Chiều cao tầng khấu quặng càng lớn, tỷ lệ tổn thất và làm nghèo càng cao; 3- Tỷ lệ tổn thất và làm nghèo nhỏ nhất khi sử dụng gương xúc dọc tầng, khấu quặng từ vách sang trụ; 4- Dung tích gàu xúc càng lớn thì tỷ lệ tổn thất và làm nghèo càng cao. Từ đó thấy rằng, để giảm tổn thất và làm nghèo quặng cần thiết phải tiến hành khai thác quặng từ vách sang trụ vỉa, đồng thời giảm chiều cao phân tầng quặng phù hợp với thiết bị xúc bốc, đặc biệt là khi góc cắm của thân quặng nhỏ. 3.4.4. Công nghệ KNM khai thác chọn lọc quặng sắt gốc Để giảm tổn thất và l
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_cong_nghe_khai_thac_cac_mo_quang_sat_lo_t.pdf
Thong tin moi LA Luu Van Thuc.pdf
Tom Tat LA Luu Van Thuc.pdf
Tom tat Tieng Anh LA Luu Van Thuc.pdf