Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 206 trang nguyenduy 07/10/2025 30
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa

Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa
5 2 
Loài 7 2 
76 
Ở rừng thứ sinh: số giống, số loài thuộc họ Coccinellidae và Curculionidae 
không có sự thay đổi theo đai cao. Số giống thuộc họ Carabidae, Cerambycidae và 
Scarabaeidae ở đai cao <700m lớn hơn so với đai cao ≥700m đều là 4 giống; trong 
khi đó chênh lệch về số loài tương ứng là 3, 5 và 8 loài. Những loài xuất hiện ở đai 
cao <700m và chưa phát hiện ở đai cao ≥700m là: Carabus nemoralis, Colfax 
stevensi, Heptodonta ferrarii, Scarites terricola thuộc họ Carabidae; các loài 
Apomecyna saltator, Batocera rubus, Dorysthenes granulosus, Pharsalia 
subgemmata, Pterolophia annulata, Xylorhiza adusta thuộc họ Cerambycidae; loài 
Blabephorus pinguis, Copris iris, Holotrichia sp., Onthophagus kindermanni, 
Onthophagus sp., Onthophagus seniculus, Paragymnopleurus melanarius và 
Protaetia fusca thuộc họ Scarabaeidae. Riêng đối với họ Lucanidae ở đai cao 
<700m ít hơn so với đai cao ≥700m 1 loài là Dorcus affinis. 
Trảng cỏ thứ sinh: Ở dạng SC này chưa xác định thấy côn trùng họ 
Curculionidae, và số giống thuộc họ Carabidae, Coccinellidae, Lucanidae và 
Scarabaeidae ở đai cao <700m lớn hơn so với đai cao ≥700m tương ứng là 2, 1, 2 và 
8 giống. Số loài thuộc họ Carabidae, Cerambycidae, Coccinellidae, Lucanidae và 
Scarabaeidae ở đai cao <700m lớn hơn so với đai cao ≥700m tương ứng là 2, 3, 1, 2 
và 10 loài. Như vậy, họ Scarabaeidae có sự chênh lệch đáng kể về số giống và số 
loài. Ở SC này 2 loài thuộc họ Lucanidae xuất hiện ở đai cao <700m những chưa 
phát hiện ở đai cao ≥700m là loài Dorcus affinis và loài Prismognathus angularis. 
Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh: 4 họ có số giống, số loài ở đai cao <700m 
lớn hơn đai cao ≥700m là Carabidae, Cerambycidae, Coccinellidae và Scarabaeidae. 
Số giống, số loài ở 2 đai cao của họ Curculionidae là tương đương nhau. Nhưng ở 
họ Lucanidae, số giống, số loài ở đai cao ≥700m lớn hơn so với đai cao <700m là 2 
loài thuộc 2 giống, loài Dorcus affinis và phân loài Serrognathue platymelus sika. 
Rừng tre luồng: Ở đai cao <700m họ Carabidae có 3 loài thuộc 3 giống khác 
nhau và chưa xác định có ở độ cao ≥700m. Họ Coccinellidae phân bố đều giữa hai 
đai cao, đều có 3 loài thuộc 3 giống, và chưa xác định có loài nào thuộc họ 
Lucanidae. Số giống, loài ở các họ còn lại xuất hiện ở đai cao <700m đều lớn hơn 
so với đai cao ≥700m. 
77 
Tổng hợp các taxon của 6 họ chính cho thấy, số loài và số giống phân bố ở độ 
cao <700m đều nhiều hơn so với độ cao ≥700m (hình 3.10). Số loài ở trảng cây bụi 
xen cây gỗ thứ sinh phân bố ở độ cao <700m nhiều hơn ở độ cao ≥700m là 23 loài. Ở 
SC trảng cỏ thứ sinh số loài phân bố ở độ cao < 700m nhiều hơn ở độ cao ≥700m là 
18 loài. Ở rừng nguyên sinh số loài phân bố ở độ cao <700m chỉ lớn hơn ở độ cao 
≥700m là 3 loài. 
Hình 3. 10. Số lƣợng các bậc taxon của 6 họ chính theo độ cao 
Hình 3.10 cho thấy, ở độ cao ≥700m, các taxon xuất hiện ở trảng cây bụi xen 
cây gỗ thứ sinh là nhiều nhất, với 52 loài chiếm 42,6% thuộc 44 giống chiếm 50%. 
Tiếp đến là rừng thứ sinh có 48 loài chiếm 39,3% thuộc 42 giống chiếm 47,7%. 
Thấp nhất ở trảng cỏ thứ sinh chỉ có 14 loài chiếm 11,5% thuộc 10 giống chiếm 
11,3%. Ở độ cao <700m, SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh có 75 loài chiếm 
61,5% số loài của các họ chính ở cả 6 dạng SC. Thấp nhất ở trảng cỏ thứ sinh chỉ có 
32 loài chiếm 26,2% số loài của các họ chính ở các SC. Số giống ở trảng cây bụi 
xen cây gỗ thứ sinh là cao nhất đạt 59 giống chiếm 67% số giống của các họ chính 
ở cả 6 dạng SC, thấp nhất ở trảng cỏ thứ sinh với 22 giống chiếm 25%. 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
>
7
0
0
m
<
7
0
0
m
>
7
0
0
m
<
7
0
0
m
>
7
0
0
m
<
7
0
0
m
>
7
0
0
m
<
7
0
0
m
>
7
0
0
m
<
7
0
0
m
Rừng nguyên 
sinh 
Rừng thứ 
sinh 
Trảng cỏ thứ 
sinh 
Trảng cây bụi 
xen cây gỗ 
thứ sinh 
Rừng tre 
luồng 
45 
48 48 
66 
14 
32 
52 
75 
24 
36 36 37 
42 
55 
10 
22 
44 
59 
20 
30 
Số lượng 
(taxon) 
Sinh cảnh 
Taxon loài
Taxon giống 
78 
3.2. Tính đa dạng loài của bộ Cánh cứng ở Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông 
3.2.1. Tính đa dạng loài của 28 họ cánh cứng 
 Kết quả đánh giá đa dạng quần xã CC ở các dạng SC tại Khu BTTN Pù 
Luông được thể hiện ở bảng 3.11. Chỉ số Shannon càng cao thể hiện loài có phân bố 
càng đều và trên 6 dạng SC nghiên cứu, chỉ số Shannon biến động từ 3,68 đến 4,80; 
cao nhất ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (H‟ = 4,80) và giảm dần theo thứ tự 
rừng thứ sinh, quanh bản làng và nương rẫy, rừng nguyên sinh, trảng cỏ thứ sinh và 
thấp nhất ở kiểu rừng tre luồng (H’ = 3,68). Khu vực quanh bản làng và nương rẫy 
có chỉ số Shannon khá cao là do người dân gây trồng nhiều loại cây khác nhau: cây 
nông nghiệp, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp. Mặt khác nhiều bản làng nằm ở 
vùng lõi Khu bảo tồn như bản Eo Điếu, bản Hiêu, bản Ấm xã Cổ Lũng; Bản Son, bản 
Bá, bản Mười, bản Kịt xã Lũng Cao, nơi đây tập trung nhiều loài CC. Ở các dạng SC 
như trảng cỏ thứ sinh, rừng tre luồng do thành phần thực vật đơn giản nên số lượng 
và thành phần CC ít, chủ yếu là những loài thuộc họ Cerambycidae và Curculionidae. 
Chỉ số đa dạng Simpson 1-D càng lớn thì tính đa dạng loài càng lớn. Bảng 
3.11 cho thấy các SC có chỉ số đa dạng Simpson từ 0,97 đến 0,99. Rừng nguyên 
sinh, rừng thứ sinh, trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh và quanh bản làng và nương 
rẫy đều có chỉ số Simpson (1-D = 0,99), ở kiểu rừng tre luồng thấp hơn không đáng 
kể (1-D =0,97), điều đó cho thấy sự khác biệt về chỉ số đa dạng Simpson giữa các 
SC không lớn. 
Bảng 3. 11. Chỉ số đa dạng loài của bộ Cánh cứng ở các sinh cảnh 
TT 
Chỉ số 
 đa dạng 
Sinh cảnh 
Rừng 
nguyên 
sinh 
Rừng 
thứ 
sinh 
Trảng 
cỏ thứ 
sinh 
Trảng cây 
bụi xen 
cây gỗ 
thứ sinh 
Rừng 
tre 
luồng 
Quanh 
bản làng 
và nƣơng 
rẫy 
1 Shannon 
 (H’) 
4,38 4,73 3,86 4,80 3,68 4,49 
2 Simpson 
1-D 
0,99 0,99 0,98 0,99 0,97 0,99 
3 Margalef 
d 
13,30 18,40 9,40 20,60 8,30 16,00 
4 Chỉ số đồng 
đều EH 
0,98 0,99 0,98 0,99 0,95 0,96 
79 
Chỉ số Margalef càng cao thì độ phong phú về loài càng cao, kết quả cho thấy 
chỉ số Margalef biến động từ 8,3 đến 20,6 cao nhất ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh 
(d= 20,6) và giảm dần theo thứ tự SC rừng thứ sinh, SC quanh bản làng và nương rẫy, 
rừng nguyên sinh, trảng có thứ sinh và thấp nhất ở rừng tre luồng (d = 8,30). 
Chỉ số đồng đều Shannon (EH) dao động từ 0 đến 1, khi EH = 1 là độ đồng 
đều trong SC cao nhất. Kết quả tính toán cho thấy, chỉ số EH dao động từ 0,95 đến 
0,99. Ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh và rừng thứ sinh, EH đều bằng 0,99 và 
thấp nhất ở rừng tre luồng (EH = 0,95). 
Như vậy các loài CC xuất hiện nhiều ở các dạng SC có thành phần thực vật 
đa dạng, môi trường sống và nguồn thức ăn phù hợp, kể cả dạng SC đã có sự tác 
động của con người, có sự thay đổi tiểu hoàn cảnh rừng như chế độ chiếu sáng, 
lượng vật liệu rơi rụng. Điều này được thể hiện qua các chỉ số đa dạng loài (bảng 
3.11) trong đó SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh và rừng thứ sinh cao hơn, ở 
rừng tre luồng có các chỉ số ĐDSH thấp nhất. 
 Chỉ số tương đồng (Index of similarity hay Sorensen’s Index) - SI 
Chỉ số tương đồng (SI) được xác định theo công thức tính chỉ số giống nhau 
của Sorensen để đánh giá mức độ giống nhau về thành phần loài giữa các SC. Theo 
lý thuyết, SI = 1 tương ứng với hai SC cần so sánh có thành phần taxon giống hệt 
nhau và SI = 0 khi hai SC đó không có một taxon nào giống nhau, SI biến động từ 0 
đến 1, khi SI tăng thì tính tương đồng của hai SC tăng lên. Kết quả xác định chỉ số 
tương đồng ở các SC tại Khu BTTN Pù Luông ở bảng 3.12 cho thấy, SI biến động 
rất lớn từ 0,19 đến 0,91; cao nhất (SI = 0,91) giữa SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh 
(TCB XCGTS) và rừng thứ sinh (RTS), thấp nhất (SI = 0,19) giữa rừng nguyên sinh 
(RNS) và rừng tre luồng (RTL). 
Rừng nguyên sinh (RNS) có tính tương đồng cao nhất với rừng thứ sinh (RTS) 
với SI = 0,78, sau đó là với trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (TCBXCGTS), thấp nhất 
so với rừng tre luồng (RTL) với SI=0,19. 
 RTS có tính tương đồng cao nhất với TCBXCGTS với SI = 0,91, sau đó là SC 
quanh bản làng và nương rẫy (QBLVNR), trảng cỏ thứ sinh (TCTS), thấp nhất với 
RTL (SI = 0,44). 
80 
Bảng 3. 12. Chỉ số tƣơng đồng (SI) về thành phần loài cánh cứng 
giữa các sinh cảnh 
Sinh cảnh 
Rừng 
thứ 
sinh 
Trảng 
cỏ thứ 
sinh 
Trảng cây 
bụi xen cây 
gỗ thứ sinh 
Rừng 
tre 
luồng 
Quanh bản 
làng và 
nƣơng rẫy 
Rừng nguyên sinh 0,78 0,39 0,73 0,19 0,52 
Rừng thứ sinh 1 0,52 0,91 0,44 0,73 
Trảng cỏ thứ sinh 1 0,52 0,34 0,54 
Trảng cây bụi xen 
cây gỗ thứ sinh 
 1 0,46 0,82 
Rừng tre luồng 1 0,49 
Sinh cảnh TCTS có chỉ số tương đồng so với các sinh cảnh khác biến động 
từ 0,34 đến 0,54. Cao nhất với sinh cảnh QBLVNR, thấp nhất với RTL. 
Sinh cảnh TCBXCGTS có tính tương đồng cao so với các SC khác với SI 
biến động từ 0,46 (so với RTL) đến 0,91 (so với RTS). 
Sinh cảnh RTL có tính tương đồng rất thấp so với các SC còn lại, SI biến 
động từ 0,19 (so với RTS) đến 0,49 (so với QBLVNR). 
Sinh cảnh QBLVNR có tính tương đồng khá cao với các SC khác, cao nhất 
với TCBXCGTS (SI = 0,82), thấp nhất với RTL (SI = 0,49). 
Hình 3.11 cho thấy sự tương đồng về thành phần loài CC giữa các SC được 
tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 100%, nhánh 1 chỉ có RTL, nhánh 2 
gồm 5 SC còn lại. Trong nhánh 2 lại tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 
74%, nhánh 1 là TCTS; nhánh 2 là RTS, TCBXCGTS, QBLVNR và RNS, nhánh 
này cũng được tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 98%, nhánh 1 là RNS, 
nhánh 2 là RTS, TCBXCGTS và QBLVNR, nhánh này lại được tách thành 2 nhánh 
với chỉ số gốc nhánh là 70%, nhánh 1 là QBLVNR, nhánh 2 là RTS và 
TCBXCGTS với chỉ số gốc nhánh là 99%. Hình 3.11 cũng chỉ ra rằng, sự tương 
đồng về thành phần loài CC ở RTL so với các SC khác là thấp nhất, tiếp đến là 
TCTS và RNS. 
81 
Hình 3. 11. Sơ đồ sự tƣơng đồng về thành phần loài 
của 28 họ cánh cứng giữa các sinh cảnh 
Ghi chú: RTL – Rừng tre luồng; TCTS - Trảng cỏ thứ sinh; RTS – Rừng thứ sinh; TCBXCGTS – 
Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh; QBLVNR – Quanh bản làng và nương rẫy; RNS – Rừng 
nguyên sinh. 
Như vậy, đặc điểm SC có liên quan đến tính tương đồng, do thành phần thực 
vật ở rừng tre luồng đơn giản, tầng thảm mục rừng cũng do đó mà nghèo nàn nên số 
lượng thành phần CC thấp, phân bố không đều. Vì vậy chỉ số tương đồng giữa SC 
rừng tre luồng với các SC khác rất thấp, từ đó có thể thấy rằng thành phần loài CC 
giữa SC rừng tre luồng với các SC khác là không giống nhau. Sự khác biệt này liên 
quan đến nhóm loài CC xuất hiện ở mỗi dạng SC. Ở rừng tre luồng, những loài xuất 
hiện phổ biến là: Aeolesthes induta, Agelasta tonkinea, A. bifasciana, Apomecyna 
saltator, Batocera rubus, B. rufomaculata, Dorysthenes granulosus, D. walkeri, 
Pharsalia subgemmata, Pseudopachydissus tamdaoensis, Pterolophia annulata trong 
họ Cerambycidae. Các loài Cyrtotrachelus buqueti, C. longimanus, Mecinus pyraster, 
Mimophilus tragicus, Mononychus punctumalbum, Odoiporus longicollis, Pissodes 
sp và Rhynchophorus ferrugineus thuộc họ Curculionidae cũng xuất hiện khá phổ biến 
ở rừng tre luồng. Những dạng SC còn lại có chỉ số tương đồng khá cao do đó chúng 
có thành phần loài CC khá giống nhau. Đồng thời nhờ có thành phần thực vật phong 
phú, lớp thảm mục rừng đa dạng, nguồn thức ăn phù hợp, nên ở các SC này xuất 
hiện phổ biến là những loài CC thuộc họ Scarabaeidae, Carabidae và Coccinellidae. 
82 
3.2.2. Tính đa dạng loài của 6 họ chính 
Tính đa dạng loài của 6 họ chính được thể hiện qua bảng 3.13. Các chỉ số H‟, 
1-D và d cao nhất đều thuộc họ Scarabaeidae, thấp nhất ở họ Lucanidae. Chỉ số đồng 
đều EH biến động không lớn, cao nhất ở họ Carabidae (EH=0,98), thấp nhất là họ 
Cerambycidae (EH =0,93). 
Trong số 6 họ chính, họ Scarabaeidae có sự đa dạng lớn nhất; ba họ gồm: họ 
Carabidae, họ Cerambycidae và họ Coccinellidae có các chỉ số đa dạng chênh lệch 
nhau không đáng kể. Các chỉ số đa dạng họ Curculionidae thấp hơn đáng kể so với 
các họ trên và kém đa dạng nhất là họ Lucanidae. 
Bảng 3. 13. Chỉ số đa dạng loài của 6 họ chính 
TT Tên họ 
Chỉ số đa dạng loài 
H’ 1-D d 
Chỉ số đồng đều 
EH 
1 Carabidae 2,78 0,94 2,69 0,98 
2 Cerambycidae 2,59 0,90 2,49 0,93 
3 Coccinellidae 2,58 0,92 2,21 0,98 
4 Curculionidae 2,09 0,87 1,45 0,95 
5 Lucanidae 1,91 0,85 1,30 0,98 
6 Scarabaeidae 3,40 0,97 4,71 0,98 
Nhìn chung chỉ số đa dạng loài các họ chính ở Khu BTTN Pù Luông khá 
cao, so với kết quả đánh giá tính đa dạng CC của Fauziah et al. (2012) [66] ở khu 
rừng Gunung Benom thuộc Pahang, Malaysia, nơi có các SC giống như ở Khu 
BTTN Pù Luông được thể hiện ở bảng 3.14 cho thấy các chỉ số đa dạng ở Khu 
BTTN Pù Luông cao hơn và cao nhất ở họ Scarabaeidae, trong khi đó ở khu vực 
Gunung Benom thuộc Pahang, Malaysia các chỉ số đa dạng cao nhất ở họ Carabidae 
và các chỉ số đa dạng thấp nhất của cả hai khu vực thuộc họ Lucanidae. 
Những loài trong họ Carabidae thuộc bộ phụ ăn thịt nên chúng xuất hiện 
nhiều ở nơi có tiểu hoàn cảnh rừng đặc trưng như rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh 
và trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh đặc biệt ở đây có lớp thảm mục rừng, nguồn 
thức ăn phong phú và phù hợp, tuy nhiên ở trảng cỏ thứ sinh và rừng tre luồng, 
chúng xuất hiện ít hơn. Vì vậy, đây là nhóm loài có vai trò chỉ thị SC và việc giám 
83 
sát SC, xác định thành phần loài là cơ sở quan trọng trong công tác bảo tồn, phát 
triển CC họ Carabidae. 
Bảng 3. 14. Chỉ số đa dạng loài của 6 họ chính ở Khu BTTN Pù Luông 
và chỉ số đa dạng loài cánh cứng ở rừng Gunung Benom, Malaysia 
T
T 
Tên họ 
Chỉ số đa dạng loài 
Shannon 
(H’) 
Simpson 
(1-D) 
Margalef 
(d) 
Chỉ số đồng 
đều (EH) 
PL GB PL GB PL GB PL GB 
1 Carabidae 2,78 1,95 0,94 0,99 2,69 3,08 0,98 1,00 
2 Cerambycidae 2,59 0,95 0,90 0,30 2,49 1,24 0,93 0,87 
3 Coccinellidae 2,58 1,39 0,92 0,99 2,21 2,16 0,98 1,00 
4 Curculionidae 2,09 1,42 0,87 0,43 1,45 2,81 0,95 0,59 
5 Lucanidae 1,91 0,00 0,85 0,99 1,3 0,00 0,98 0,00 
6 Scarabaeidae 3,40 1,56 0,97 0,93 4,71 2,23 0,98 0,97 
Ghi chú: PL: Khu BTTN Pù Luông; GB: khu rừng Gunung Benom thuộc Pahang, Malaysia. 
Những họ Scarabaeidae, Cerambycidae, Coccinellidae và Curculionidae xuất 
hiện phổ biến ở các dạng SC ngoại trừ sinh cảnh rừng tre luồng, đặc biệt họ 
Scarabaeidae nhờ có sự đa dạng về dạng sống, nguồn thức ăn nên có tính đa dạng 
cao. Họ Lucanidae cũng thuộc nhóm đa thực nhưng khả năng thích nghi với môi 
trường sống rất hạn chế, chúng xuất hiện chủ yếu ở rừng nguyên sinh, đặc biệt ở đai 
cao trên 700m, nơi khí hậu khá mát mẻ vào mùa hè. Trong số 6 họ chính, tính đa 
dạng của họ Lucanidae là thấp nhất. 
Trong thực tiễn bằng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh (KTLS) con người có 
thể tạo ra môi trường sống cho CC, đồng thời thực hiện các biện pháp giám sát SC, 
giám sát loài cùng với việc xác định đặc điểm SH, STH một số loài đại diện nhằm tạo 
cơ sở cho công tác bảo tồn và phát triển CC. 
3.2.2.1. Đa dạng loài của 6 họ chính theo sinh cảnh 
Chỉ số đa dạng loài của 6 họ chính theo từng SC được thể hiện ở bảng 3.15. Chỉ 
số Shannon cao nhất H’ = 4,32 ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh; thấp nhất H’ = 3,31 
ở SC trảng cỏ thứ sinh. 
Chỉ số Simpson 1-D biến động rất thấp ở các SC, cao nhất là 0,99 ở trảng cây 
bụi xen cây gỗ thứ sinh; thấp nhất là 0,96 ở trảng cỏ thứ sinh và rừng tre luồng. 
84 
Bảng 3. 15. Chỉ số đa dạng loài của 6 họ chính theo sinh cảnh 
Sinh cảnh 
Chỉ số đa dạng loài 
Số loài 
Số cá 
thể 
H’ 1-D d 
Chỉ số đồng 
đều EH 
Rừng nguyên sinh 50 357 3,88 0,98 8,34 0,99 
Rừng thứ sinh 70 388 4,18 0,98 11,58 0,98 
Trảng cỏ thứ sinh 30 133 3,31 0,96 5,93 0,97 
Trảng cây bụi xen 
cây gỗ thứ sinh 
81 431 4,32 0,99 13,12 0,98 
Rừng tre luồng 37 261 3,39 0,96 6,47 0,94 
Quanh bản làng và 
nương rẫy 
77 658 4,12 0,98 11,71 0,95 
Chỉ số đa dạng d cao nhất ở SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (d = 13,12), 
thấp nhất ở trảng cỏ thứ sinh (d = 5,93). Chỉ số đồng đều EH biến động từ 0,94 đến 
0,99, cao nhất ở rừng nguyên sinh (EH =0,99), thấp nhất ở rừng tre luồng (EH =0,94). 
Như vậy ở SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh có các chỉ số đa dạng H’, 1-D 
và d lớn nhất, sau đó là SC rừng thứ sinh, SC quanh bản làng và nương rẫy, SC rừng 
nguyên sinh. Sinh cảnh rừng tre luồng và trảng cỏ thứ sinh có số cá thể và số loài thấp, 
kém đa dạng hơn nhiều so với các SC khác. 
 Lê Thị Diên và cs. (2012) [15] nghiên cứu về tính đa dạng CC ở VQG Bạch 
Mã cho thấy, ở rừng phục hồi có chỉ số Margalef cao nhất (d=23,36), thấp nhất là 
rừng rậm (d=2,09). Trong nghiên cứu này dạng SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ 
sinh và rừng thứ sinh là những khu rừng phục hồi và cũng có các chỉ số đa dạng 
cao. Tuy nhiên khác với kết quả nghiên cứu của Lê Thị Diên và cs., chỉ số đa dạng 
thấp nhất ở Khu BTTN Pù Luông là trảng cỏ thứ sinh và rừng tre luồng. 
Tính tương đồng về thành phần loài CC của 6 họ chính được trình bày ở bảng 
3.16 cho thấy, SI biến động rất lớn từ 0,16 đến 0,86; cao nhất 0,86 giữa SC trảng cây 
bụi xen cây gỗ thứ sinh (TCBXCGTS) và rừng thứ sinh (RTS). Chỉ số tương đồng 
thấp nhất (SI = 0,16) giữa rừng nguyên sinh (RNS) và rừng tre luồng (RTL). 
Rừng nguyên sinh có tính tương đồng cao nhất so với RTS (SI=0,77), sau đó là 
với TCBXCGTS (SI=0,70), thấp nhất so với RTL (SI=0,16). Ở rừng thứ sinh, thành 
phần loài CC có tính tương đồng khá cao với các SC khác, cao nhất với 
85 
TCBXCGTS (SI = 0,86), tiếp đến là với RNS (SI = 0,77) và QBLVNR (SI = 0,75), 
thấp nhất với TCTS (SI = 0,46). 
Bảng 3. 16. Chỉ số tƣơng đồng về thành phần loài 
của 6 họ chính theo sinh cảnh 
Sinh cảnh 
Rừng 
thứ 
sinh 
Trảng cỏ 
thứ sinh 
Trảng cây 
bụi xen cây 
gỗ thứ sinh 
Rừng 
tre 
luồng 
Quanh bản 
làng và 
nƣơng rẫy 
Rừng nguyên sinh 0,77 0,40 0,70 0,16 0,55 
Rừng thứ sinh 1 0,46 0,86 0,47 0,75 
Trảng cỏ thứ sinh 1 0,47 0,36 0,52 
Trảng cây bụi xen 
cây gỗ thứ sinh 
 1 0,51 0,85 
Rừng tre luồng 1 0,56 
Tính tương đồng giữa TCTS với các dạng SC khác biến động từ 0,36 (so với 
RTL) đến 0,52 so với QBLVNR. Sinh cảnh TCBXCGTS có tính tương đồng cao 
với các SC khác, SI biến động từ 0,47 với TCTS đến 0,86 với kiểu RTS. Chỉ số 
tương đồng giữa RTL với các SC khác rất thấp, SI biến động từ 0,16 với RNS đến 
0,56 với QBLVNR. Sinh cảnh QBLVNR có tính tương đồng khá cao với các SC 
khác, cao nhất với TCBXCGTS (SI = 0,85), thấp nhất với RTL (SI = 0,52). 
So với kết quả Lê Thị Diên và cs (2012) thì ở VQG Bạch Mã, chỉ số tương 
đồng cao nhất giữa rừng phục hồi và cây bụi với chỉ số tương đồng là 0,16 các cặp SC 
còn lại có chỉ số tương đồng về thành phần loài rất thấp hoặc bằng 0. 
Hình 3.12 cho thấy sự tương đồng về thành phần loài CC giữa các SC được 
tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 100%, nhánh 1 chỉ có RTL, nhánh 2 
gồm 5 SC còn lại. Trong nhánh 2 lại tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 
46%, nhánh 1 là TCTS; nhánh 2 là RTS, TCBXCGTS, QBLVNR và RNS, nhánh 
này cũng được tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 96%, nhánh 1 là RNS, 
nhánh 2 là RTS, TCBXCGTS và QBLVNR, nhánh này lại được tách thành 2 nhánh 
với chỉ số gốc nhánh là 88%, nhánh 1 là BLVNR, nhánh 2 là RTS và TCBXCGTS 
với chỉ số gốc nhánh là 78%. Hình 3.12 cũng cho thấy, sự tương đồng về thành 
phần loài CC của 6 họ chính ở RTL so với các SC khác là thấp nhất, tiếp đến là 
TCTS và RNS. 
86 
Hình 3. 12. Sơ đồ sự tƣơng đồng về thành phần loài 
 của 6 họ chính giữa các sinh cảnh 
Ghi chú: RTL – Rừng tre luồng; TCTS - Trảng cỏ thứ sinh; RTS – Rừng thứ sinh; TCBXCGTS – Trảng 
cây bụi xen cây gỗ thứ sinh; QBLVNR – Quanh bản làng và nương rẫy; RNS – Rừng nguyên sinh. 
Như vậy ở Khu BTTN Pù Luông tính tương đồng về thành phần loài CC giữa 
các SC có sự khác nhau, chỉ số tương đồng giữa rừng tre luồng, trảng cỏ thứ sinh so 
với các SC khác rất thấp là d

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_da_dang_sinh_hoc_va_bien_phap_bao_ton_con.pdf
  • pdfTomTatLuanAn-TiengAnh (ncs.PhamHuuHung_DHLN)..pdf
  • pdfTomTatLuanAn-TiengViệt (ncsPhamHuuHung_DHLN).pdf
  • docxTrangThongTinDongGopMoi-Việt-Anh (ncs.PhamHuuHung_DHLN).docx
  • docTrichYeuLuanAn-Viet-Anh (ncs.PhamHuuHung_DHLN)..doc