Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đa dạng sinh học và biện pháp bảo tồn côn trùng thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa

5 2 Loài 7 2 76 Ở rừng thứ sinh: số giống, số loài thuộc họ Coccinellidae và Curculionidae không có sự thay đổi theo đai cao. Số giống thuộc họ Carabidae, Cerambycidae và Scarabaeidae ở đai cao <700m lớn hơn so với đai cao ≥700m đều là 4 giống; trong khi đó chênh lệch về số loài tương ứng là 3, 5 và 8 loài. Những loài xuất hiện ở đai cao <700m và chưa phát hiện ở đai cao ≥700m là: Carabus nemoralis, Colfax stevensi, Heptodonta ferrarii, Scarites terricola thuộc họ Carabidae; các loài Apomecyna saltator, Batocera rubus, Dorysthenes granulosus, Pharsalia subgemmata, Pterolophia annulata, Xylorhiza adusta thuộc họ Cerambycidae; loài Blabephorus pinguis, Copris iris, Holotrichia sp., Onthophagus kindermanni, Onthophagus sp., Onthophagus seniculus, Paragymnopleurus melanarius và Protaetia fusca thuộc họ Scarabaeidae. Riêng đối với họ Lucanidae ở đai cao <700m ít hơn so với đai cao ≥700m 1 loài là Dorcus affinis. Trảng cỏ thứ sinh: Ở dạng SC này chưa xác định thấy côn trùng họ Curculionidae, và số giống thuộc họ Carabidae, Coccinellidae, Lucanidae và Scarabaeidae ở đai cao <700m lớn hơn so với đai cao ≥700m tương ứng là 2, 1, 2 và 8 giống. Số loài thuộc họ Carabidae, Cerambycidae, Coccinellidae, Lucanidae và Scarabaeidae ở đai cao <700m lớn hơn so với đai cao ≥700m tương ứng là 2, 3, 1, 2 và 10 loài. Như vậy, họ Scarabaeidae có sự chênh lệch đáng kể về số giống và số loài. Ở SC này 2 loài thuộc họ Lucanidae xuất hiện ở đai cao <700m những chưa phát hiện ở đai cao ≥700m là loài Dorcus affinis và loài Prismognathus angularis. Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh: 4 họ có số giống, số loài ở đai cao <700m lớn hơn đai cao ≥700m là Carabidae, Cerambycidae, Coccinellidae và Scarabaeidae. Số giống, số loài ở 2 đai cao của họ Curculionidae là tương đương nhau. Nhưng ở họ Lucanidae, số giống, số loài ở đai cao ≥700m lớn hơn so với đai cao <700m là 2 loài thuộc 2 giống, loài Dorcus affinis và phân loài Serrognathue platymelus sika. Rừng tre luồng: Ở đai cao <700m họ Carabidae có 3 loài thuộc 3 giống khác nhau và chưa xác định có ở độ cao ≥700m. Họ Coccinellidae phân bố đều giữa hai đai cao, đều có 3 loài thuộc 3 giống, và chưa xác định có loài nào thuộc họ Lucanidae. Số giống, loài ở các họ còn lại xuất hiện ở đai cao <700m đều lớn hơn so với đai cao ≥700m. 77 Tổng hợp các taxon của 6 họ chính cho thấy, số loài và số giống phân bố ở độ cao <700m đều nhiều hơn so với độ cao ≥700m (hình 3.10). Số loài ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh phân bố ở độ cao <700m nhiều hơn ở độ cao ≥700m là 23 loài. Ở SC trảng cỏ thứ sinh số loài phân bố ở độ cao < 700m nhiều hơn ở độ cao ≥700m là 18 loài. Ở rừng nguyên sinh số loài phân bố ở độ cao <700m chỉ lớn hơn ở độ cao ≥700m là 3 loài. Hình 3. 10. Số lƣợng các bậc taxon của 6 họ chính theo độ cao Hình 3.10 cho thấy, ở độ cao ≥700m, các taxon xuất hiện ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh là nhiều nhất, với 52 loài chiếm 42,6% thuộc 44 giống chiếm 50%. Tiếp đến là rừng thứ sinh có 48 loài chiếm 39,3% thuộc 42 giống chiếm 47,7%. Thấp nhất ở trảng cỏ thứ sinh chỉ có 14 loài chiếm 11,5% thuộc 10 giống chiếm 11,3%. Ở độ cao <700m, SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh có 75 loài chiếm 61,5% số loài của các họ chính ở cả 6 dạng SC. Thấp nhất ở trảng cỏ thứ sinh chỉ có 32 loài chiếm 26,2% số loài của các họ chính ở các SC. Số giống ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh là cao nhất đạt 59 giống chiếm 67% số giống của các họ chính ở cả 6 dạng SC, thấp nhất ở trảng cỏ thứ sinh với 22 giống chiếm 25%. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 > 7 0 0 m < 7 0 0 m > 7 0 0 m < 7 0 0 m > 7 0 0 m < 7 0 0 m > 7 0 0 m < 7 0 0 m > 7 0 0 m < 7 0 0 m Rừng nguyên sinh Rừng thứ sinh Trảng cỏ thứ sinh Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh Rừng tre luồng 45 48 48 66 14 32 52 75 24 36 36 37 42 55 10 22 44 59 20 30 Số lượng (taxon) Sinh cảnh Taxon loài Taxon giống 78 3.2. Tính đa dạng loài của bộ Cánh cứng ở Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông 3.2.1. Tính đa dạng loài của 28 họ cánh cứng Kết quả đánh giá đa dạng quần xã CC ở các dạng SC tại Khu BTTN Pù Luông được thể hiện ở bảng 3.11. Chỉ số Shannon càng cao thể hiện loài có phân bố càng đều và trên 6 dạng SC nghiên cứu, chỉ số Shannon biến động từ 3,68 đến 4,80; cao nhất ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (H‟ = 4,80) và giảm dần theo thứ tự rừng thứ sinh, quanh bản làng và nương rẫy, rừng nguyên sinh, trảng cỏ thứ sinh và thấp nhất ở kiểu rừng tre luồng (H’ = 3,68). Khu vực quanh bản làng và nương rẫy có chỉ số Shannon khá cao là do người dân gây trồng nhiều loại cây khác nhau: cây nông nghiệp, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp. Mặt khác nhiều bản làng nằm ở vùng lõi Khu bảo tồn như bản Eo Điếu, bản Hiêu, bản Ấm xã Cổ Lũng; Bản Son, bản Bá, bản Mười, bản Kịt xã Lũng Cao, nơi đây tập trung nhiều loài CC. Ở các dạng SC như trảng cỏ thứ sinh, rừng tre luồng do thành phần thực vật đơn giản nên số lượng và thành phần CC ít, chủ yếu là những loài thuộc họ Cerambycidae và Curculionidae. Chỉ số đa dạng Simpson 1-D càng lớn thì tính đa dạng loài càng lớn. Bảng 3.11 cho thấy các SC có chỉ số đa dạng Simpson từ 0,97 đến 0,99. Rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh, trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh và quanh bản làng và nương rẫy đều có chỉ số Simpson (1-D = 0,99), ở kiểu rừng tre luồng thấp hơn không đáng kể (1-D =0,97), điều đó cho thấy sự khác biệt về chỉ số đa dạng Simpson giữa các SC không lớn. Bảng 3. 11. Chỉ số đa dạng loài của bộ Cánh cứng ở các sinh cảnh TT Chỉ số đa dạng Sinh cảnh Rừng nguyên sinh Rừng thứ sinh Trảng cỏ thứ sinh Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh Rừng tre luồng Quanh bản làng và nƣơng rẫy 1 Shannon (H’) 4,38 4,73 3,86 4,80 3,68 4,49 2 Simpson 1-D 0,99 0,99 0,98 0,99 0,97 0,99 3 Margalef d 13,30 18,40 9,40 20,60 8,30 16,00 4 Chỉ số đồng đều EH 0,98 0,99 0,98 0,99 0,95 0,96 79 Chỉ số Margalef càng cao thì độ phong phú về loài càng cao, kết quả cho thấy chỉ số Margalef biến động từ 8,3 đến 20,6 cao nhất ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (d= 20,6) và giảm dần theo thứ tự SC rừng thứ sinh, SC quanh bản làng và nương rẫy, rừng nguyên sinh, trảng có thứ sinh và thấp nhất ở rừng tre luồng (d = 8,30). Chỉ số đồng đều Shannon (EH) dao động từ 0 đến 1, khi EH = 1 là độ đồng đều trong SC cao nhất. Kết quả tính toán cho thấy, chỉ số EH dao động từ 0,95 đến 0,99. Ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh và rừng thứ sinh, EH đều bằng 0,99 và thấp nhất ở rừng tre luồng (EH = 0,95). Như vậy các loài CC xuất hiện nhiều ở các dạng SC có thành phần thực vật đa dạng, môi trường sống và nguồn thức ăn phù hợp, kể cả dạng SC đã có sự tác động của con người, có sự thay đổi tiểu hoàn cảnh rừng như chế độ chiếu sáng, lượng vật liệu rơi rụng. Điều này được thể hiện qua các chỉ số đa dạng loài (bảng 3.11) trong đó SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh và rừng thứ sinh cao hơn, ở rừng tre luồng có các chỉ số ĐDSH thấp nhất. Chỉ số tương đồng (Index of similarity hay Sorensen’s Index) - SI Chỉ số tương đồng (SI) được xác định theo công thức tính chỉ số giống nhau của Sorensen để đánh giá mức độ giống nhau về thành phần loài giữa các SC. Theo lý thuyết, SI = 1 tương ứng với hai SC cần so sánh có thành phần taxon giống hệt nhau và SI = 0 khi hai SC đó không có một taxon nào giống nhau, SI biến động từ 0 đến 1, khi SI tăng thì tính tương đồng của hai SC tăng lên. Kết quả xác định chỉ số tương đồng ở các SC tại Khu BTTN Pù Luông ở bảng 3.12 cho thấy, SI biến động rất lớn từ 0,19 đến 0,91; cao nhất (SI = 0,91) giữa SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (TCB XCGTS) và rừng thứ sinh (RTS), thấp nhất (SI = 0,19) giữa rừng nguyên sinh (RNS) và rừng tre luồng (RTL). Rừng nguyên sinh (RNS) có tính tương đồng cao nhất với rừng thứ sinh (RTS) với SI = 0,78, sau đó là với trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (TCBXCGTS), thấp nhất so với rừng tre luồng (RTL) với SI=0,19. RTS có tính tương đồng cao nhất với TCBXCGTS với SI = 0,91, sau đó là SC quanh bản làng và nương rẫy (QBLVNR), trảng cỏ thứ sinh (TCTS), thấp nhất với RTL (SI = 0,44). 80 Bảng 3. 12. Chỉ số tƣơng đồng (SI) về thành phần loài cánh cứng giữa các sinh cảnh Sinh cảnh Rừng thứ sinh Trảng cỏ thứ sinh Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh Rừng tre luồng Quanh bản làng và nƣơng rẫy Rừng nguyên sinh 0,78 0,39 0,73 0,19 0,52 Rừng thứ sinh 1 0,52 0,91 0,44 0,73 Trảng cỏ thứ sinh 1 0,52 0,34 0,54 Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh 1 0,46 0,82 Rừng tre luồng 1 0,49 Sinh cảnh TCTS có chỉ số tương đồng so với các sinh cảnh khác biến động từ 0,34 đến 0,54. Cao nhất với sinh cảnh QBLVNR, thấp nhất với RTL. Sinh cảnh TCBXCGTS có tính tương đồng cao so với các SC khác với SI biến động từ 0,46 (so với RTL) đến 0,91 (so với RTS). Sinh cảnh RTL có tính tương đồng rất thấp so với các SC còn lại, SI biến động từ 0,19 (so với RTS) đến 0,49 (so với QBLVNR). Sinh cảnh QBLVNR có tính tương đồng khá cao với các SC khác, cao nhất với TCBXCGTS (SI = 0,82), thấp nhất với RTL (SI = 0,49). Hình 3.11 cho thấy sự tương đồng về thành phần loài CC giữa các SC được tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 100%, nhánh 1 chỉ có RTL, nhánh 2 gồm 5 SC còn lại. Trong nhánh 2 lại tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 74%, nhánh 1 là TCTS; nhánh 2 là RTS, TCBXCGTS, QBLVNR và RNS, nhánh này cũng được tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 98%, nhánh 1 là RNS, nhánh 2 là RTS, TCBXCGTS và QBLVNR, nhánh này lại được tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 70%, nhánh 1 là QBLVNR, nhánh 2 là RTS và TCBXCGTS với chỉ số gốc nhánh là 99%. Hình 3.11 cũng chỉ ra rằng, sự tương đồng về thành phần loài CC ở RTL so với các SC khác là thấp nhất, tiếp đến là TCTS và RNS. 81 Hình 3. 11. Sơ đồ sự tƣơng đồng về thành phần loài của 28 họ cánh cứng giữa các sinh cảnh Ghi chú: RTL – Rừng tre luồng; TCTS - Trảng cỏ thứ sinh; RTS – Rừng thứ sinh; TCBXCGTS – Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh; QBLVNR – Quanh bản làng và nương rẫy; RNS – Rừng nguyên sinh. Như vậy, đặc điểm SC có liên quan đến tính tương đồng, do thành phần thực vật ở rừng tre luồng đơn giản, tầng thảm mục rừng cũng do đó mà nghèo nàn nên số lượng thành phần CC thấp, phân bố không đều. Vì vậy chỉ số tương đồng giữa SC rừng tre luồng với các SC khác rất thấp, từ đó có thể thấy rằng thành phần loài CC giữa SC rừng tre luồng với các SC khác là không giống nhau. Sự khác biệt này liên quan đến nhóm loài CC xuất hiện ở mỗi dạng SC. Ở rừng tre luồng, những loài xuất hiện phổ biến là: Aeolesthes induta, Agelasta tonkinea, A. bifasciana, Apomecyna saltator, Batocera rubus, B. rufomaculata, Dorysthenes granulosus, D. walkeri, Pharsalia subgemmata, Pseudopachydissus tamdaoensis, Pterolophia annulata trong họ Cerambycidae. Các loài Cyrtotrachelus buqueti, C. longimanus, Mecinus pyraster, Mimophilus tragicus, Mononychus punctumalbum, Odoiporus longicollis, Pissodes sp và Rhynchophorus ferrugineus thuộc họ Curculionidae cũng xuất hiện khá phổ biến ở rừng tre luồng. Những dạng SC còn lại có chỉ số tương đồng khá cao do đó chúng có thành phần loài CC khá giống nhau. Đồng thời nhờ có thành phần thực vật phong phú, lớp thảm mục rừng đa dạng, nguồn thức ăn phù hợp, nên ở các SC này xuất hiện phổ biến là những loài CC thuộc họ Scarabaeidae, Carabidae và Coccinellidae. 82 3.2.2. Tính đa dạng loài của 6 họ chính Tính đa dạng loài của 6 họ chính được thể hiện qua bảng 3.13. Các chỉ số H‟, 1-D và d cao nhất đều thuộc họ Scarabaeidae, thấp nhất ở họ Lucanidae. Chỉ số đồng đều EH biến động không lớn, cao nhất ở họ Carabidae (EH=0,98), thấp nhất là họ Cerambycidae (EH =0,93). Trong số 6 họ chính, họ Scarabaeidae có sự đa dạng lớn nhất; ba họ gồm: họ Carabidae, họ Cerambycidae và họ Coccinellidae có các chỉ số đa dạng chênh lệch nhau không đáng kể. Các chỉ số đa dạng họ Curculionidae thấp hơn đáng kể so với các họ trên và kém đa dạng nhất là họ Lucanidae. Bảng 3. 13. Chỉ số đa dạng loài của 6 họ chính TT Tên họ Chỉ số đa dạng loài H’ 1-D d Chỉ số đồng đều EH 1 Carabidae 2,78 0,94 2,69 0,98 2 Cerambycidae 2,59 0,90 2,49 0,93 3 Coccinellidae 2,58 0,92 2,21 0,98 4 Curculionidae 2,09 0,87 1,45 0,95 5 Lucanidae 1,91 0,85 1,30 0,98 6 Scarabaeidae 3,40 0,97 4,71 0,98 Nhìn chung chỉ số đa dạng loài các họ chính ở Khu BTTN Pù Luông khá cao, so với kết quả đánh giá tính đa dạng CC của Fauziah et al. (2012) [66] ở khu rừng Gunung Benom thuộc Pahang, Malaysia, nơi có các SC giống như ở Khu BTTN Pù Luông được thể hiện ở bảng 3.14 cho thấy các chỉ số đa dạng ở Khu BTTN Pù Luông cao hơn và cao nhất ở họ Scarabaeidae, trong khi đó ở khu vực Gunung Benom thuộc Pahang, Malaysia các chỉ số đa dạng cao nhất ở họ Carabidae và các chỉ số đa dạng thấp nhất của cả hai khu vực thuộc họ Lucanidae. Những loài trong họ Carabidae thuộc bộ phụ ăn thịt nên chúng xuất hiện nhiều ở nơi có tiểu hoàn cảnh rừng đặc trưng như rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh và trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh đặc biệt ở đây có lớp thảm mục rừng, nguồn thức ăn phong phú và phù hợp, tuy nhiên ở trảng cỏ thứ sinh và rừng tre luồng, chúng xuất hiện ít hơn. Vì vậy, đây là nhóm loài có vai trò chỉ thị SC và việc giám 83 sát SC, xác định thành phần loài là cơ sở quan trọng trong công tác bảo tồn, phát triển CC họ Carabidae. Bảng 3. 14. Chỉ số đa dạng loài của 6 họ chính ở Khu BTTN Pù Luông và chỉ số đa dạng loài cánh cứng ở rừng Gunung Benom, Malaysia T T Tên họ Chỉ số đa dạng loài Shannon (H’) Simpson (1-D) Margalef (d) Chỉ số đồng đều (EH) PL GB PL GB PL GB PL GB 1 Carabidae 2,78 1,95 0,94 0,99 2,69 3,08 0,98 1,00 2 Cerambycidae 2,59 0,95 0,90 0,30 2,49 1,24 0,93 0,87 3 Coccinellidae 2,58 1,39 0,92 0,99 2,21 2,16 0,98 1,00 4 Curculionidae 2,09 1,42 0,87 0,43 1,45 2,81 0,95 0,59 5 Lucanidae 1,91 0,00 0,85 0,99 1,3 0,00 0,98 0,00 6 Scarabaeidae 3,40 1,56 0,97 0,93 4,71 2,23 0,98 0,97 Ghi chú: PL: Khu BTTN Pù Luông; GB: khu rừng Gunung Benom thuộc Pahang, Malaysia. Những họ Scarabaeidae, Cerambycidae, Coccinellidae và Curculionidae xuất hiện phổ biến ở các dạng SC ngoại trừ sinh cảnh rừng tre luồng, đặc biệt họ Scarabaeidae nhờ có sự đa dạng về dạng sống, nguồn thức ăn nên có tính đa dạng cao. Họ Lucanidae cũng thuộc nhóm đa thực nhưng khả năng thích nghi với môi trường sống rất hạn chế, chúng xuất hiện chủ yếu ở rừng nguyên sinh, đặc biệt ở đai cao trên 700m, nơi khí hậu khá mát mẻ vào mùa hè. Trong số 6 họ chính, tính đa dạng của họ Lucanidae là thấp nhất. Trong thực tiễn bằng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh (KTLS) con người có thể tạo ra môi trường sống cho CC, đồng thời thực hiện các biện pháp giám sát SC, giám sát loài cùng với việc xác định đặc điểm SH, STH một số loài đại diện nhằm tạo cơ sở cho công tác bảo tồn và phát triển CC. 3.2.2.1. Đa dạng loài của 6 họ chính theo sinh cảnh Chỉ số đa dạng loài của 6 họ chính theo từng SC được thể hiện ở bảng 3.15. Chỉ số Shannon cao nhất H’ = 4,32 ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh; thấp nhất H’ = 3,31 ở SC trảng cỏ thứ sinh. Chỉ số Simpson 1-D biến động rất thấp ở các SC, cao nhất là 0,99 ở trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh; thấp nhất là 0,96 ở trảng cỏ thứ sinh và rừng tre luồng. 84 Bảng 3. 15. Chỉ số đa dạng loài của 6 họ chính theo sinh cảnh Sinh cảnh Chỉ số đa dạng loài Số loài Số cá thể H’ 1-D d Chỉ số đồng đều EH Rừng nguyên sinh 50 357 3,88 0,98 8,34 0,99 Rừng thứ sinh 70 388 4,18 0,98 11,58 0,98 Trảng cỏ thứ sinh 30 133 3,31 0,96 5,93 0,97 Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh 81 431 4,32 0,99 13,12 0,98 Rừng tre luồng 37 261 3,39 0,96 6,47 0,94 Quanh bản làng và nương rẫy 77 658 4,12 0,98 11,71 0,95 Chỉ số đa dạng d cao nhất ở SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (d = 13,12), thấp nhất ở trảng cỏ thứ sinh (d = 5,93). Chỉ số đồng đều EH biến động từ 0,94 đến 0,99, cao nhất ở rừng nguyên sinh (EH =0,99), thấp nhất ở rừng tre luồng (EH =0,94). Như vậy ở SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh có các chỉ số đa dạng H’, 1-D và d lớn nhất, sau đó là SC rừng thứ sinh, SC quanh bản làng và nương rẫy, SC rừng nguyên sinh. Sinh cảnh rừng tre luồng và trảng cỏ thứ sinh có số cá thể và số loài thấp, kém đa dạng hơn nhiều so với các SC khác. Lê Thị Diên và cs. (2012) [15] nghiên cứu về tính đa dạng CC ở VQG Bạch Mã cho thấy, ở rừng phục hồi có chỉ số Margalef cao nhất (d=23,36), thấp nhất là rừng rậm (d=2,09). Trong nghiên cứu này dạng SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh và rừng thứ sinh là những khu rừng phục hồi và cũng có các chỉ số đa dạng cao. Tuy nhiên khác với kết quả nghiên cứu của Lê Thị Diên và cs., chỉ số đa dạng thấp nhất ở Khu BTTN Pù Luông là trảng cỏ thứ sinh và rừng tre luồng. Tính tương đồng về thành phần loài CC của 6 họ chính được trình bày ở bảng 3.16 cho thấy, SI biến động rất lớn từ 0,16 đến 0,86; cao nhất 0,86 giữa SC trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh (TCBXCGTS) và rừng thứ sinh (RTS). Chỉ số tương đồng thấp nhất (SI = 0,16) giữa rừng nguyên sinh (RNS) và rừng tre luồng (RTL). Rừng nguyên sinh có tính tương đồng cao nhất so với RTS (SI=0,77), sau đó là với TCBXCGTS (SI=0,70), thấp nhất so với RTL (SI=0,16). Ở rừng thứ sinh, thành phần loài CC có tính tương đồng khá cao với các SC khác, cao nhất với 85 TCBXCGTS (SI = 0,86), tiếp đến là với RNS (SI = 0,77) và QBLVNR (SI = 0,75), thấp nhất với TCTS (SI = 0,46). Bảng 3. 16. Chỉ số tƣơng đồng về thành phần loài của 6 họ chính theo sinh cảnh Sinh cảnh Rừng thứ sinh Trảng cỏ thứ sinh Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh Rừng tre luồng Quanh bản làng và nƣơng rẫy Rừng nguyên sinh 0,77 0,40 0,70 0,16 0,55 Rừng thứ sinh 1 0,46 0,86 0,47 0,75 Trảng cỏ thứ sinh 1 0,47 0,36 0,52 Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh 1 0,51 0,85 Rừng tre luồng 1 0,56 Tính tương đồng giữa TCTS với các dạng SC khác biến động từ 0,36 (so với RTL) đến 0,52 so với QBLVNR. Sinh cảnh TCBXCGTS có tính tương đồng cao với các SC khác, SI biến động từ 0,47 với TCTS đến 0,86 với kiểu RTS. Chỉ số tương đồng giữa RTL với các SC khác rất thấp, SI biến động từ 0,16 với RNS đến 0,56 với QBLVNR. Sinh cảnh QBLVNR có tính tương đồng khá cao với các SC khác, cao nhất với TCBXCGTS (SI = 0,85), thấp nhất với RTL (SI = 0,52). So với kết quả Lê Thị Diên và cs (2012) thì ở VQG Bạch Mã, chỉ số tương đồng cao nhất giữa rừng phục hồi và cây bụi với chỉ số tương đồng là 0,16 các cặp SC còn lại có chỉ số tương đồng về thành phần loài rất thấp hoặc bằng 0. Hình 3.12 cho thấy sự tương đồng về thành phần loài CC giữa các SC được tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 100%, nhánh 1 chỉ có RTL, nhánh 2 gồm 5 SC còn lại. Trong nhánh 2 lại tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 46%, nhánh 1 là TCTS; nhánh 2 là RTS, TCBXCGTS, QBLVNR và RNS, nhánh này cũng được tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 96%, nhánh 1 là RNS, nhánh 2 là RTS, TCBXCGTS và QBLVNR, nhánh này lại được tách thành 2 nhánh với chỉ số gốc nhánh là 88%, nhánh 1 là BLVNR, nhánh 2 là RTS và TCBXCGTS với chỉ số gốc nhánh là 78%. Hình 3.12 cũng cho thấy, sự tương đồng về thành phần loài CC của 6 họ chính ở RTL so với các SC khác là thấp nhất, tiếp đến là TCTS và RNS. 86 Hình 3. 12. Sơ đồ sự tƣơng đồng về thành phần loài của 6 họ chính giữa các sinh cảnh Ghi chú: RTL – Rừng tre luồng; TCTS - Trảng cỏ thứ sinh; RTS – Rừng thứ sinh; TCBXCGTS – Trảng cây bụi xen cây gỗ thứ sinh; QBLVNR – Quanh bản làng và nương rẫy; RNS – Rừng nguyên sinh. Như vậy ở Khu BTTN Pù Luông tính tương đồng về thành phần loài CC giữa các SC có sự khác nhau, chỉ số tương đồng giữa rừng tre luồng, trảng cỏ thứ sinh so với các SC khác rất thấp là d
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_da_dang_sinh_hoc_va_bien_phap_bao_ton_con.pdf
TomTatLuanAn-TiengAnh (ncs.PhamHuuHung_DHLN)..pdf
TomTatLuanAn-TiengViệt (ncsPhamHuuHung_DHLN).pdf
TrangThongTinDongGopMoi-Việt-Anh (ncs.PhamHuuHung_DHLN).docx
TrichYeuLuanAn-Viet-Anh (ncs.PhamHuuHung_DHLN)..doc