Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 258 trang nguyenduy 14/05/2025 190
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau

Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau
ngập mặn mùn rất loãng không có cây ngập mặn, 
đất ngập mặn mùn loãng có Mấm trắng tiên phong cố định bãi bồi, đất ngập 
mặn dạng sét, đất ngập mặn phèn tiềm tàng sét mềm có đước, đất ngập mặn 
phèn tiềm tàng cứng có đước, dà, cóc trắng. 
Ngô Đình Quế (2003) cho rằng chất hữu cơ là một trong những nhân tố 
quyết định đến đặc điểm lập địa và sinh trưởng của rừng ngập mặn, nếu hàm 
lượng chất hữu cơ trong đất ngập mặn thấp hơn 1% thì sinh trưởng xấu, nhưng 
nếu quá cao, lớn hơn 15% thì cũng kìm hãm sinh trưởng của cây và cũng làm 
cây trồng bị chết do môi trường đất bị ô nhiễm. 
Dựa vào một số tiêu chí của các tác giả trên đây và theo một số đặc điểm 
khác từ kết quả thực tế nghiên cứu, để phân dạng tại Cồn Trong Ông Trang 
thành 3 dạng lập địa là Vẹt tách tại đầu cồn, Đước đôi ở giữa cồn và Mấm trắng 
ở cuối cồn. 
4.2.1 Phân dạng lập địa tại Cồn Trong Ông Trang 
 Theo các khảo sát trước đây, Cồn Trong được hình thành từ năm 1960. 
Cao trình đất tại cồn được nâng cao dần và kết quả là có sự thay thế loài cây 
rừng ngập mặn, từ loài Mấm trắng tiên phong định cư trên bãi bồi đến quá trình 
xâm nhập và thay thế loài từ rừng Mấm trắng thuần loại sang nhiều loài cây 
khác. 
Kết quả của nghiên cứu đã phân ra 3 dạng lập địa theo các yếu tố tự nhiên 
như chế độ triều và đặc điểm lý hóa đặc trưng từ đầu cồn đến cuối cồn. Kết quả 
nghiên cứu về đặc điểm của 3 dạng lập địa được trình bày trong Bảng 4.8. 
84 
Bảng 4.8: Đặc điểm của 3 lập địa tại Cồn Trong Ông Trang 
Chỉ tiêu 
Lập địa 
Vẹt tách Đước đôi Mấm trắng 
Cao độ địa hình (cm) 46,7±1,3a 25,9±0,9b 0,0±0,7c 
Số lần ngập triều (lần/năm) 73a 189b 484c 
pH đất 6,86±0,3a 7,08±0,23b 7,22±0,2c 
Eh đất (mV) 69,5±11,26 -134±26,22 -168,5±24,21 
N tổng (%) 0,14±0,01a 0,19±0,021b 0,14±0,009a 
P tổng (%) 0,11±0 0,09±0,01 0,08±0 
CHC (%) 9,66±0,62 12,9±1,81 10, 97±0,32 
Dung trọng (g/cm3) 1,04±0,06a 0,65±0,02b 0,57±0,03c 
Độ mặn ‰ 29,26 29,2 29,12 
Độ thành thục 0,52±0,08a 1,06±0,06b 1,29±0,06c 
Sét (%) 51,86 35,71 32,77 
Thịt (%) 45,08 63,6 51,86 
Cát (%) 3,06 0,69 0,81 
Ghi chú: Trong cùng một hàng, có ít nhất một ký tự (a,b,c) giống nhau thì không có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5% theo kiểm định Duncan. 
Dựa vào loài cây ưu thế hiện diện trên khu vực, luận án đã chia Cồn Trong 
Ông Trang thành ba dạng lập địa là: Lập địa Vẹt tách ở đầu cồn, lập địa Đước 
đôi ở giữa cồn và lập địa Mấm trắng ở cuối cồn. 
4.2.2 Đặc điểm các dạng lập địa 
4.2.2.1 Tần số ngập triều 
 Kết quả khảo sát ở Bảng 4.9 đã ghi nhận các khu vực nghiên cứu có số 
ngày và số lần ngập triều trong năm cao từ tháng 10 đến tháng 12. Tại lập địa 
Mấm trắng có số ngày ngập triều trong tháng là 28 ngày (334 ngày trong năm) 
và số lần ngập triều trong tháng 42 lần (502 lần trong năm). Lập địa Đước đôi, 
khu vực giữa Cồn, có số ngày ngập triều bình quân trong tháng là 13 ngày (153 
ngày trong năm) và số lần ngập triều bình quân trong tháng là 16 lần (189 lần 
trong năm). Tại lập địa Vẹt tách có số ngày ngập triều bình quân trong tháng chỉ 
có 6 ngày (72 ngày trong năm) và số lần ngập triều bình quân trong tháng chỉ 
có 6 lần (73 lần trong năm). Kết quả phân tích phương sai một nhân tố cho thấy 
3 khu vực khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,001). 
Theo phân lớp ngập triều của Watson (1928) tại lập địa Mấm trắng có số 
lần ngập triều trong tháng thuộc lớp 2 (đất ngập triều trung bình thấp), lập địa 
Đước đôi và Vẹt tách có số lần ngập triều trong tháng thuộc lớp 4 (Đất ngập bởi 
triều cao). Số lần ngập triều tại lập địa Mấm trắng nhiều hơn so với 2 lập địa 
còn lại. Nơi có cao trình đất thấp và số lần ngập triều cao lại làm gia tăng cơ hội 
85 
lá rừng ngập mặn và các chất bị nước cuốn trôi ra ngoài cửa sông (Lugo and 
Snedaker, 1974). 
Mỗi dạng lập địa phân bố một loài cây ưu thế trên cơ sở phân tích sự khác 
biệt có ý nghĩa cao trình đất tại vị trí phân bố của mỗi loài (Hình 4.5), tần số 
ngập triều (số ngày ngập triều trong tháng) độ thành thục và dung trọng đất. 
Bảng 4.9: Tần số ngập triều tại Cồn Trong Ông Trang 
Khu vực 
nghiên 
cứu 
Tần số ngập 
Phân lớp theo 
Watson (1928) 
Số ngày 
ngập 
trong tháng 
Số ngày 
ngập 
trong năm 
Số lần 
ngập 
trong 
tháng 
Số lần 
ngập 
trong năm 
Đầu cồn 6±2a 72,7±26a 6,33±2,5a 73,7±29a 4 
Giữa cồn 13,3±1,5b 153±17,5b 16±2,7b 189±27,9b 4 
Cuối cồn 28,3±1,2c 334±14,7c 42,7±3,2c 502±37,3c 2 
Ghi chú: Trong một cột có ít nhất một chữ cái giống nhau thì không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê 5% qua kiểm định Duncan. 
4.2.2.2 Độ thành thục đất tại ba lập địa 
Độ thành thục đất tính theo tỉ lệ trọng lượng nước chia cho trọng lượng đất 
xác định, liên quan đến ẩm độ, khả năng giữ nước và thành phần cơ giới, thường 
được sử dụng để đánh giá đặc điểm lập địa. Kết quả ở Bảng 4.10 cho thấy cồn 
Trong có khác biệt giữa 3 lập địa về độ thành thục. 
Bảng 4.10: Độ thành thục đất tại 3 lập địa 
Lập địa 
Vẹt tách Đước đôi Mấm trắng 
Độ thành thục 0,52±0,08a 1,06±0,06b 1,29±0,06c 
Ghi chú: trong cùng một hàng ngang, có ít nhất một ký tự giống nhau thì không khác 
biệt ở mức ý nghĩa 5% qua kiểm định Duncan. 
Kết quả cho thấy độ thành thục đất giữa ba lập địa khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (P<0,05). Độ thành thục ở lập địa Mấm trắng có giá trị cao nhất 
(1,29±0,06), thấp nhất ở lập địa Vẹt tách (0,52±0,08). Độ thành thục càng cao, 
càng nói lên sự mềm ẩm của đất. Sự định lượng thông qua đo đạc và tính toán 
cho thấy giá trị này có liên quan với dung trọng, độ sâu ngập, tần suất ngập và 
sự thích nghi loài. Đây cũng là một trong những đặc điểm của lập địa. 
4.2.2.3 Dung trọng đất tại ba lập địa 
Kết quả phân tích dung trọng đất ở Cồn Trong có giá trị từ 0,57±0,03 – 
1,04±0,06 g/cm3. Dung trọng có giá trị thấp dần từ lập địa Vẹt tách đến lập địa 
86 
Mấm trắng và khác biệt có ý nghĩa giữa các lập địa (P<0,05). Điều này là do 
thành phần cơ giới đặc trưng bởi nhiều thịt sét và có sự khác biệt về thành phần 
cơ giới tại 03 lập địa. Ngoài ra, tại lập địa Đước đôi và lập địa Mấm trắng có 
cao trình thấp hơn lập địa Vẹt tách nên có tần suất ngập triều cao và thường 
xuyên, đất bị ngập nước liên tục dẫn đến dung trọng đất thấp. 
Kết quả về dung trọng được trình bày ở Bảng 4.11 dưới đây: 
Bảng 4.11: Dung trọng đất tại 3 lập địa 
(Đơn vị: g/cm3) 
Lập địa 
Vẹt tách Đước đôi Mấm trắng 
Dung trọng 1,04±0,06a 0,65±0,02b 0,57±0,03c 
Ghi chú: trong cùng một hàng ngang, có ít nhất một ký tự giống nhau thì không khác 
biệt ở mức ý nghĩa 5% qua kiểm định Duncan. 
4.2.2.4 Thành phần cơ giới tại ba dạng lập địa phân bố 3 loài cây ưu thế 
Kết quả về thành phần cơ giới được trình bày ở Bảng 4.12 dưới đây: 
Bảng 4.12: Thành phần cơ giới tại 3 dạng lập địa 
(Đơn vị:: %) 
Lập địa Thành phần cát Thành phần thịt Thành phần sét 
Vẹt tách 3,06 45,08 51,86 
Đước đôi 0,69 63,6 35,71 
Mấm trắng 0,81 66,42 32,77 
Thành phần cơ giới ở 3 lập địa chủ yếu là sét và thịt. Tỷ lệ cát, thịt và sét 
chiếm từ 3,06%, 45,08% và 51,86% tại lập địa Vẹt tách. Tỷ lệ này là 0,69%, 
63,6% và 35,71% cho lập địa Đước đôi. Ở lập địa Mấm trắng, tỷ lệ là 0,81%, 
66,42% và 32,77%. Tỷ lệ cát có xu hướng tăng dần từ lập địa Mấm trắng đến 
lập địa Vẹt tách. Thành phần thịt chiếm tỷ lệ nhiều nhất từ 45,08% - 66,42% và 
giảm dần từ cuối đến đầu cồn, theo địa hình. Thành phần sét chiếm tỷ lệ cao 
hơn cát, nhưng ít hơn sét. Lập địa Vẹt tách có thành phần sét cao nhất, khác biệt 
rõ rệt (51,86%) so với 2 lập địa còn lại (32,77% ở Mấm trắng và 35,71% ở lập 
địa Đước đôi từ 0,8 đến 2,3%. Theo phân hạng của Mỹ, đất lập địa Vẹt tách 
thuộc nhóm sét pha thịt, Đước đôi là nhóm thịt pha sét và lập địa Mấm trắng 
thuộc nhóm thịt pha sét. Theo Đỗ Đình Sâm và ctv. (2005). Vùng bán đảo Cà 
Mau có hàm lượng sét cao nhất 56 – 60% như vậy kết quả cho thấy đất tại Cồn 
Trong chiếm phần lớn bởi thịt và sét do các trầm tích sét theo dòng chảy sông 
Cửa Lớn từ cửa Bồ Đề (khu vực có tốc độ xói lở bờ biển bình quân 38,31 
m/năm) sang cửa Ông Trang. 
87 
4.2.2.5 Thành phần hóa học đất các dạng lập địa 
 Thành phần hóa học đất của các dạng lập địa được thể hiện trong Bảng 
4.13. 
Bảng 4.13: Thành phần hóa học đất tại các dạng lập địa 
Chỉ tiêu 
Lập địa 
Vẹt tách Đước đôi Mấm trắng 
pH đất 6,86±0,3a 7,08±0,23b 7,22±0,2c 
Eh đất (mV) 69,5±11,26 -134±26,22 -168,5±24,21 
N tổng (%) 0,14±0,01a 0,19±0,021b 0,14±0,009a 
N-NH4+(mg/kg) 10,76±3,12a 19,12±3,89b 11,96±3,50a 
N-NO3-(mg/kg) 0,92±0,55a 0,61±0,56b 0,49±0,44c 
P tổng (%) 0,11±0 0,09±0,01 0,08±0 
CHC (%) 9,66±0,62 12,9±1,81 10, 97±0,32 
Ghi chú: trong cùng một hàng ngang, có ít nhất một ký tự giống nhau thì không khác 
biệt ở mức ý nghĩa 5% qua kiểm định Duncan. 
Kết quả cho thấy đất ở mỗi lập địa có thành phần hóa học khác nhau. pH 
đất tăng dần từ lập địa Vẹt tách đến lập địa Mấm trắng, ngược lại giá trị Eh giảm 
dần. Sự khác biệt này do chế độ ngập triều khác nhau ảnh hưởng đến khả năng 
khuếch tán oxy không khí vào đất làm thay đổi giá trị pH và Eh ở các lập địa. 
Lập địa Mấm trắng và Đước đôi có cao trình đất thấp, tần số ngập triều thường 
xuyên, đất trong tình trạng thiếu oxy nên quá trình khử các chất hữu cơ chiếm 
ưu thế, làm giảm giá trị Eh đất. Ngoài ra, do ảnh hưởng của chế độ ngập triều, 
nước biển thường xuyên xâm nhập tạo tính đệm cho đất làm cho đất ở 2 lập địa 
Đước đôi và Mấm trắng có giá trị pH cao hơn lập địa Vẹt tách. Ngược lại, lập 
địa Vẹt tách ít bị ngập triều, đất thông thoáng nên oxy dễ dàng khuếch tán vào 
tầng đất mặt dẫn đến pH đất giảm. 
Hàm lượng amoni (N-NH4+) ở Bảng 4.13 cho thấy N-NH4+ ở lập địa Mấm 
trắng và Đước đôi cao hơn lập địa Vẹt tách, do đất ở 2 lập địa này thường xuyên 
ngập nước dẫn đến thiếu oxy, nên quá trình amon hóa diễn ra mạnh. Ngược lại, 
với điều kiện đất thông thoáng hơn, oxy được cung cấp đầy đủ nên ở lập địa Vẹt 
tách diễn ra quá trình oxy hóa chất hữu cơ chuyển đổi thành nitrat mạnh hơn ở 
lập địa Đước đôi và Mấm trắng. 
Hàm lượng lân tổng số (TP) và chất hữu cơ ở ba lập địa không khác biệt, 
lân tổng số trong đất có xu hướng giảm dần từ lập địa Vẹt tách ra lập địa Mấm 
trắng. Cả 3 lập địa Vẹt tách, Đước đôi, Mấm trắng đều có hàm lượng chất hữu 
cơ ở mức giàu (từ 9,66%±0,62 đến 12,9%±1,81). Trong đó chất hữu cơ trong 
đất cao nhất tại lập địa Đước đôi, nguyên nhân có thể do lượng vật rụng tại lập 
địa này cao nhất. Theo Ngô Đình Quế (2003), tác giả cho rằng hàm lượng chất 
88 
hữu cơ thấp hơn 1% sẽ làm rừng ngập mặn phát triển kém, lớn hơn 15% sẽ kìm 
hãm sự sinh trưởng của cây, môi trường đất bị ô nhiễm. Như vậy, hàm lượng 
chất hữu cơ tại 3 lập địa tạo điều kiện tốt cho sự sinh trưởng và phát triển của 
thực vật rừng ngập mặn tại Cồn Trong Ông Trang. 
Các đặc điểm của lập địa nói trên đã quyết định sự phân bố các loài thực 
vật ở Cồn Trong Ông Trang và đã đưa đến kết quả là tạo nên 3 dạng lập địa đặc 
trưng như đã thảo luận. 
4.2.3 Kết quả nghiên cứu cấu trúc rừng ngập mặn theo dạng lập địa 
4.2.3.1 Thành phần loài cây thân gỗ tại Cồn Trong Ông Trang 
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 4.14 cho thấy tại các ô tiêu chuẩn có 05 loài 
gồm: Vẹt tách, Đước đôi, Giá, Mấm đen và Mấm trắng. Ở mỗi lập địa có sự 
phân bố loài cây khác nhau, Giá và Mấm đen có số lượng cá thể rất ít. Giá chỉ 
được phát hiện ở 1 ô tiêu chuẩn của lập địa Vẹt và có 1 cá thể. Mấm đen được 
phát hiện ở 1 ô tiêu chuẩn của lập địa Vẹt và Đước, chỉ có 1 cá thể, ở lập địa 
Mấm trắng không phát hiện Mấm đen và Giá. Vẹt tách, Đước đôi và Mấm trắng 
có sự phân bố mang tính ưu thế ở các khu vực nghiên cứu. 
Bảng 4.14: Mật độ cây theo lập địa 
Lập 
địa 
Ô tiêu 
chuẩn 
Vẹt tách 
(cây/ô) 
Đước đôi 
(cây/ô) 
Giá 
(cây/ô) 
Mấm trắng 
(cây/ô) 
Mấm đen 
(cây/ô) 
Vẹt 
1 14 0 0 0 0 
2 17 1 1 0 1 
3 17 4 0 0 0 
4 22 1 0 1 0 
5 12 1 0 1 0 
Trung bình 
(cây/ha) 
1.640 140 20 40 20 
Đước 
6 4 14 0 3 1 
7 2 17 0 3 0 
8 2 14 0 2 0 
9 2 16 0 3 0 
10 0 14 0 1 0 
Trung bình 
(cây/ha) 
200 1.500 0 240 20 
Mấm 
11 0 0 0 23 0 
12 0 1 0 26 0 
13 0 1 0 19 0 
14 0 2 0 22 0 
15 0 0 0 18 0 
Trung bình 
(cây/ha) 
0 80 0 2160 0 
89 
Kết quả đánh giá về mật độ các loài để chỉ ra sự ưu thế cho thấy có 3 loài 
chính phân bố nhiều và chiếm ưu thế ở 3 dạng lập địa là Mấm trắng, Đước đôi 
và Vẹt tách. Khu vực đầu cồn loài Vẹt tách chiếm ưu thế và có mật độ trung 
bình 1.640 cây/ha, chiếm 88% số cá thể trên khu vực. Các cây Đước, Giá, Mấm 
đen, Mấm trắng xuất hiện trên khu vực này rất ít, với mật độ từ 20 - 140 cây/ha. 
Khu vực giữa cồn loài Đước đôi có mật độ trung bình 1.500 cây/ha, chiếm 
76% số cá thể. Tại lập địa này loài Vẹt tách và Mấm trắng xuất hiện với mật độ 
tương đương nhau (Vẹt tách có mật độ 200 cây/ha và Mấm trắng có mật độ 240 
cây/ha), Mấm đen xuất hiện với mật độ thấp hơn 3 loài còn lại (20 cây/ha). Ở 
lập địa này không thấy có sự xuất hiện của loài Giá. 
Loài Mấm trắng có mật độ cá thể trung bình 2.160 cây/ha (96% số cá thể) 
và chiếm ưu thế ở khu vực cuối cồn. Tại đây chỉ còn phát hiện được 2 loài là 
Mấm trắng (mật độ 2.160 cây/ha) và Đước đôi với mật độ chỉ 80 cây/ha. Do 
điều kiện ngập triều của lập địa nên chỉ các cây chịu được thời gian ngập triều 
dài ngày mới phát triển được, còn các loài cây thích hợp với chế độ ngập triều 
ngắn ngày như Vẹt tách, Giá và Mấm đen không thấy xuất hiện. 
Kết quả đo đạc đường kính 03 loại cây rừng ngập mặn ở các lập địa được 
trình bày trong Bảng 4.15. 
Bảng 4.15: Đường kính cây theo lập địa 
(Đơn vị: cm) 
Lập địa Vẹt tách Đước đôi Giá Mấm trắng Mấm đen 
Vẹt tách 11,55±2,38 6,80±0,95 15,9±0,0 16,10±6,51 10,5±0,0 
Đước đôi 15,97±2,12 11,96±2,23 - 9,75±3,95 13,89±0,0 
Mấm trắng - 7,32±0,94 - 9,10±1,11 - 
Ghi chú: Giá trị TB ± Độ lệch chuẩn 
Kết quả về phân bố chiều cao tại Bảng 4.16 dưới đây cho thấy Vẹt tách có 
chiều cao trung bình 14,57±2,68 m, trong khi đó Đước đôi có chiều cao thấp hơn 
từ 7,2 - 15 m. Mấm có cá thể có chiều cao phân bố nhiều từ 7,6 - 15 m. Chiều 
cao đặc trưng bởi các yếu tố: 1) Môi trường tự nhiên; 2) Đặc điểm di truyền; 3) 
Sự cạnh tranh và điều tiết mật độ; 4) Tuổi cây. 
Bảng 4.16: Chiều cao cây theo lập địa 
(Đơn vị: m) 
Lập địa Vẹt tách Đước đôi Giá Mấm trắng Mấm đen 
Vẹt tách 14,57±2,68 14,33±3,30 16,60±0,0 14,65±0,78 19,50±0,0 
Đước đôi 13,29±2,22 13,13±1,93 - 11,19±3,71 14,50±0,0 
Mấm trắng - 9,12±1,69 - 10,69±1,43 - 
Ghi chú: Giá trị TB ± Độ lệch chuẩn 
90 
4.2.3.2 Các chỉ số đa dạng sinh học 
Các kết quả về đa dạng sinh học thực vật khảo sát theo ô tiêu chuẩn từ đầu 
cồn đến cuối cồn được đánh giá thông qua các chỉ số được trình bày trong Bảng 
4.17. 
Bảng 4.17: Các chỉ số đa dạng sinh học của khu vực nghiên cứu 
Khu vực 
phân bố 
OTC (S) (d) (J’)' H'(loge) D 
Khu vực 
đầu cồn 
O1 1 0 0 0 1 
O2 4 1,00 0,42 0,59 0,72 
O3 2 0,33 0,70 0,49 0,68 
O4 3 0,63 0,31 0,34 0,84 
O5 3 0,76 0,46 0,51 0,73 
Khu vực 
giữa cồn 
O6 4 0,97 0,62 0,86 0,54 
O7 3 0,65 0,52 0,58 0,68 
O8 3 0,69 0,51 0,56 0,69 
O9 3 0,66 0,65 0,71 0,59 
O10 2 0,37 0,35 0,24 0,87 
Khu vực 
cuối cồn 
O11 1 0 0 0 1 
O12 2 0,30 0,23 0,16 0,93 
O13 2 0,33 0,29 0,20 0,90 
O14 2 0,31 0,41 0,29 0,84 
O15 1 0 0 0 1 
Trung bình 0.47±0,09 0,37±0,06 0,37±0,07 0,81±0,04 
Thấp nhất 0 0 0 0,5 
Cao nhất 1,00 0,70 0,86 1 
Ghi chú: OTC: ô tiêu chuẩn 
 Đa dạng loài Margalef (d): Trong các quần xã nghiên cứu cho thấy 
chỉ số đa dạng loài biến động từ 0 - 1 trung bình 0,47±0,09. Chỉ số đa dạng của 
7 ô tiêu chuẩn lớn hơn chỉ số đa dạng trung bình, chiếm 46,7% tổng các ô tiêu 
chuẩn. Trong đó chỉ số đa dạng loài cao nhất là 1 với số loài trong một số ô tiêu 
chuẩn là 4 loài và chỉ số đa dạng loài thấp nhất cho trị số 0 cho thấy trong ô tiêu 
chuẩn chỉ có 1 loài duy nhất. Trong 15 ô tiêu chuẩn, có 1 ô ở khu vực đầu cồn 
thuộc rừng thuần loại Vẹt tách và 2 ô ở khu vực cuối cồn thuộc rừng thuần loại 
Mấm trắng. Số liệu này chứng tỏ chỉ số đa dạng loài ở khu vực này thấp. 
 Độ đồng đều Pielou (J’): Biến động từ 0,0-0,71, trung bình là 
0,37±0,06. Số ô tiêu chuẩn có độ đồng đều lớn hơn giá trị trung bình là 7 ô, 
chiếm 46,7% trong tổng các ô tiêu chuẩn. Trong đó ô nghiên cứu có độ đồng 
đều cao nhất là ô 3 thuộc quần xã Vẹt tách, đây là khu vực các loài cây sinh 
trưởng đạt đến mức ổn định nên chúng có độ đồng đều tương đương nhau. Ô 11 
91 
có độ đồng đều thấp nhất chỉ đạt 0,23. Ngoài ra, các ô nghiên cứu chỉ có một 
loài duy nhất thì có chỉ số đồng đều bằng không. Điều này nói lên số lượng loài 
trong các ô không tương đương nhau và có loài ưu thế. 
 Chỉ số đa dạng Shannon – Wiener H’ (loge): biến động từ 0 đến 0,86, 
trung bình 0,37±0,07. Chỉ số đa dạng của 7 ô lớn hơn chỉ số trung bình, chiếm 
46,7%. Qua số liệu trên cho thấy chỉ số đa dạng Shannon – Wiener ở Cồn Trong 
Ông Trang đạt mức tương đối thấp, thể hiện đa dạng loài trong quần xã thấp. 
Chỉ số ưu thế Simpson (D): Chỉ số Shimpson thay đổi từ 0,5 đến 1, trung 
bình là 0,8±0,04. Chỉ số đa dạng của 8 ô nghiên cứu lớn hơn chỉ số trung bình, 
chiếm 53,3 % trong tổng số 15 ô nghiên cứu. Qua đó cho thấy các quần xã thực 
vật ngập mặn ở Cồn Trong Ông Trang có chỉ số đa dạng Shimpson cao hơn mức 
trung bình, như vậy mức độ đa dạng sinh học của các quần xã đang có chiều 
hướng gia tăng. 
Nhận định chung cho các chỉ số đa dạng sinh học: Khi chỉ số ưu thế 
Simpson D tại các quần xã càng lớn thì các chỉ số đa dạng (H’) và chỉ số động 
đều (J’) càng nhỏ và ngược lại. Điều này cho thấy chỉ số ưu thế Simpson D tỷ 
lệ nghịch với các chỉ số đa dạng sinh học còn lại trong khu vực nghiên cứu. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy mức độ đa dạng sinh học của các quần xã cây rừng tại 
Cồn Trong Ông Trang đang có chiều hướng gia tăng. 
4.2.3.3 Phân tích mối quan hệ giữa các loài 
Mối quan hệ giữa các loài trong khu vực nghiên cứu được phân tích bằng 
phần mềm PRIMER ở các mức tương đồng 5, 20, 40 và 60%, kết quả được thể 
hiện trong Hình 4.6. 
Hình 4.6: Mối quan hệ giữa các loài ở các mức tương đồng 
92 
Mối quan hệ giữa các loài ở mức tương đồng 5% 
Ở mức tương đồng 5% chưa xuất hiện các nhóm loài riêng lẻ, chỉ hình 
thành một nhóm duy nhất. Kết quả phân tích cho ý nghĩa chưa cần ưu tiên bảo 
tồn loài ở mức tương đồng này. 
Mối quan hệ giữa các loài ở mức tương đồng 20% 
Ở mức tương đồng 20% các loài thực vật chia thành 2 nhóm: 
+ Nhóm thứ nhất gồm 2 loài: Mấm đen và Giá. 
+ Nhóm thứ hai gồm 3 loài: Vẹt tách, Đước đôi và Mấm trắng. 
Ở mức tương đồng này chưa thấy xuất hiện loài riêng lẻ. 
Mối quan hệ giữa các loài ở mức tương đồng 40% 
Ở mức tương đồng 40%: Mối quan hệ giữa các loài thực vật đã xuất hiện 
3 nhóm chính, trong đó: 
+ Có một nhóm chỉ xuất hiện một loài đó là loài Vẹt tách 
+ Còn lại 2 nhóm xuất hiện mỗi nhóm 2 loài khác nhau đó là: nhóm với 
loài Mấm đen và Giá; nhóm với 02 loài Mấm trắng và Đước đôi. 
 Xét ở mức tương đồng 40% trong 05 loài nghiên cứu thì Vẹt tách là loài 
cần được bảo tồn. 
Mối quan hệ giữa các loài ở mức tương đồng 60% 
Ở Mức tương đồng 60%: Mối quan hệ giữa các loài đã xuất hiện 04 nhóm 
chính, trong đó: 
+ Có 3 nhóm chỉ suất hiện có một loài duy nhất đó là: Nhóm với loài Vẹt 
tách, nhóm với loài Đước đôi và nhóm với loài Mấm trắng. 
+ Có 1 nhóm xuất hiện 02 loài đó là: Mấm đen và Giá. 
Xét ở mức tương đồng 60% trong 05 loài cây ngập mặn thì có 03 loài cần 
được quan tâm bảo tồn đó là Vẹt tách, Đước đôi và Mấm trắng. 
4.2.3.4 Phân tích mối quan hệ giữa các quần xã 
Phân tích nhóm dựa trên ma trận giống nhau (Bray-Curtis) của 15 Ô 
nghiên cứu theo mật độ cây ngập mặn. Kết quả đã thiết lập 3 nhóm quần xã thực 
vật đặc trưng cho 3 khu vực với mức độ tương đồng khác nhau (Hình 4.5). Quần 
xã đặc trưng cho khu vực cuối cồn là quần xã Mấm trắng sinh trưởng và phát 
triển trên dạng đất có thành phần cơ giới thịt pha sét có mức độ giống nhau về 
thành phần loài giữa các ô nghiên cứu nhiều nhất 85%. Quần xã đặc trưng khu 
vực giữa cồn là quần xã Đước đôi thích nghi với dạng đất có thành phần cơ giới 
thịt trung bình có mức độ giống nhau về thành phần loài dao động từ 78 đến 
88%.

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_dac_diem_cau_truc_va_dinh_duong_cua_rung.pdf
  • docThongtinluanan-En.doc
  • docThongtinluanan-Vi.doc
  • pdfTomtatluanan-En.pdf
  • pdfTomtatluanan-Vi.pdf