Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và dinh dưỡng của rừng ngập mặn tại cồn Ông Trang, tỉnh Cà Mau

ngập mặn mùn rất loãng không có cây ngập mặn, đất ngập mặn mùn loãng có Mấm trắng tiên phong cố định bãi bồi, đất ngập mặn dạng sét, đất ngập mặn phèn tiềm tàng sét mềm có đước, đất ngập mặn phèn tiềm tàng cứng có đước, dà, cóc trắng. Ngô Đình Quế (2003) cho rằng chất hữu cơ là một trong những nhân tố quyết định đến đặc điểm lập địa và sinh trưởng của rừng ngập mặn, nếu hàm lượng chất hữu cơ trong đất ngập mặn thấp hơn 1% thì sinh trưởng xấu, nhưng nếu quá cao, lớn hơn 15% thì cũng kìm hãm sinh trưởng của cây và cũng làm cây trồng bị chết do môi trường đất bị ô nhiễm. Dựa vào một số tiêu chí của các tác giả trên đây và theo một số đặc điểm khác từ kết quả thực tế nghiên cứu, để phân dạng tại Cồn Trong Ông Trang thành 3 dạng lập địa là Vẹt tách tại đầu cồn, Đước đôi ở giữa cồn và Mấm trắng ở cuối cồn. 4.2.1 Phân dạng lập địa tại Cồn Trong Ông Trang Theo các khảo sát trước đây, Cồn Trong được hình thành từ năm 1960. Cao trình đất tại cồn được nâng cao dần và kết quả là có sự thay thế loài cây rừng ngập mặn, từ loài Mấm trắng tiên phong định cư trên bãi bồi đến quá trình xâm nhập và thay thế loài từ rừng Mấm trắng thuần loại sang nhiều loài cây khác. Kết quả của nghiên cứu đã phân ra 3 dạng lập địa theo các yếu tố tự nhiên như chế độ triều và đặc điểm lý hóa đặc trưng từ đầu cồn đến cuối cồn. Kết quả nghiên cứu về đặc điểm của 3 dạng lập địa được trình bày trong Bảng 4.8. 84 Bảng 4.8: Đặc điểm của 3 lập địa tại Cồn Trong Ông Trang Chỉ tiêu Lập địa Vẹt tách Đước đôi Mấm trắng Cao độ địa hình (cm) 46,7±1,3a 25,9±0,9b 0,0±0,7c Số lần ngập triều (lần/năm) 73a 189b 484c pH đất 6,86±0,3a 7,08±0,23b 7,22±0,2c Eh đất (mV) 69,5±11,26 -134±26,22 -168,5±24,21 N tổng (%) 0,14±0,01a 0,19±0,021b 0,14±0,009a P tổng (%) 0,11±0 0,09±0,01 0,08±0 CHC (%) 9,66±0,62 12,9±1,81 10, 97±0,32 Dung trọng (g/cm3) 1,04±0,06a 0,65±0,02b 0,57±0,03c Độ mặn ‰ 29,26 29,2 29,12 Độ thành thục 0,52±0,08a 1,06±0,06b 1,29±0,06c Sét (%) 51,86 35,71 32,77 Thịt (%) 45,08 63,6 51,86 Cát (%) 3,06 0,69 0,81 Ghi chú: Trong cùng một hàng, có ít nhất một ký tự (a,b,c) giống nhau thì không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5% theo kiểm định Duncan. Dựa vào loài cây ưu thế hiện diện trên khu vực, luận án đã chia Cồn Trong Ông Trang thành ba dạng lập địa là: Lập địa Vẹt tách ở đầu cồn, lập địa Đước đôi ở giữa cồn và lập địa Mấm trắng ở cuối cồn. 4.2.2 Đặc điểm các dạng lập địa 4.2.2.1 Tần số ngập triều Kết quả khảo sát ở Bảng 4.9 đã ghi nhận các khu vực nghiên cứu có số ngày và số lần ngập triều trong năm cao từ tháng 10 đến tháng 12. Tại lập địa Mấm trắng có số ngày ngập triều trong tháng là 28 ngày (334 ngày trong năm) và số lần ngập triều trong tháng 42 lần (502 lần trong năm). Lập địa Đước đôi, khu vực giữa Cồn, có số ngày ngập triều bình quân trong tháng là 13 ngày (153 ngày trong năm) và số lần ngập triều bình quân trong tháng là 16 lần (189 lần trong năm). Tại lập địa Vẹt tách có số ngày ngập triều bình quân trong tháng chỉ có 6 ngày (72 ngày trong năm) và số lần ngập triều bình quân trong tháng chỉ có 6 lần (73 lần trong năm). Kết quả phân tích phương sai một nhân tố cho thấy 3 khu vực khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,001). Theo phân lớp ngập triều của Watson (1928) tại lập địa Mấm trắng có số lần ngập triều trong tháng thuộc lớp 2 (đất ngập triều trung bình thấp), lập địa Đước đôi và Vẹt tách có số lần ngập triều trong tháng thuộc lớp 4 (Đất ngập bởi triều cao). Số lần ngập triều tại lập địa Mấm trắng nhiều hơn so với 2 lập địa còn lại. Nơi có cao trình đất thấp và số lần ngập triều cao lại làm gia tăng cơ hội 85 lá rừng ngập mặn và các chất bị nước cuốn trôi ra ngoài cửa sông (Lugo and Snedaker, 1974). Mỗi dạng lập địa phân bố một loài cây ưu thế trên cơ sở phân tích sự khác biệt có ý nghĩa cao trình đất tại vị trí phân bố của mỗi loài (Hình 4.5), tần số ngập triều (số ngày ngập triều trong tháng) độ thành thục và dung trọng đất. Bảng 4.9: Tần số ngập triều tại Cồn Trong Ông Trang Khu vực nghiên cứu Tần số ngập Phân lớp theo Watson (1928) Số ngày ngập trong tháng Số ngày ngập trong năm Số lần ngập trong tháng Số lần ngập trong năm Đầu cồn 6±2a 72,7±26a 6,33±2,5a 73,7±29a 4 Giữa cồn 13,3±1,5b 153±17,5b 16±2,7b 189±27,9b 4 Cuối cồn 28,3±1,2c 334±14,7c 42,7±3,2c 502±37,3c 2 Ghi chú: Trong một cột có ít nhất một chữ cái giống nhau thì không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 5% qua kiểm định Duncan. 4.2.2.2 Độ thành thục đất tại ba lập địa Độ thành thục đất tính theo tỉ lệ trọng lượng nước chia cho trọng lượng đất xác định, liên quan đến ẩm độ, khả năng giữ nước và thành phần cơ giới, thường được sử dụng để đánh giá đặc điểm lập địa. Kết quả ở Bảng 4.10 cho thấy cồn Trong có khác biệt giữa 3 lập địa về độ thành thục. Bảng 4.10: Độ thành thục đất tại 3 lập địa Lập địa Vẹt tách Đước đôi Mấm trắng Độ thành thục 0,52±0,08a 1,06±0,06b 1,29±0,06c Ghi chú: trong cùng một hàng ngang, có ít nhất một ký tự giống nhau thì không khác biệt ở mức ý nghĩa 5% qua kiểm định Duncan. Kết quả cho thấy độ thành thục đất giữa ba lập địa khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Độ thành thục ở lập địa Mấm trắng có giá trị cao nhất (1,29±0,06), thấp nhất ở lập địa Vẹt tách (0,52±0,08). Độ thành thục càng cao, càng nói lên sự mềm ẩm của đất. Sự định lượng thông qua đo đạc và tính toán cho thấy giá trị này có liên quan với dung trọng, độ sâu ngập, tần suất ngập và sự thích nghi loài. Đây cũng là một trong những đặc điểm của lập địa. 4.2.2.3 Dung trọng đất tại ba lập địa Kết quả phân tích dung trọng đất ở Cồn Trong có giá trị từ 0,57±0,03 – 1,04±0,06 g/cm3. Dung trọng có giá trị thấp dần từ lập địa Vẹt tách đến lập địa 86 Mấm trắng và khác biệt có ý nghĩa giữa các lập địa (P<0,05). Điều này là do thành phần cơ giới đặc trưng bởi nhiều thịt sét và có sự khác biệt về thành phần cơ giới tại 03 lập địa. Ngoài ra, tại lập địa Đước đôi và lập địa Mấm trắng có cao trình thấp hơn lập địa Vẹt tách nên có tần suất ngập triều cao và thường xuyên, đất bị ngập nước liên tục dẫn đến dung trọng đất thấp. Kết quả về dung trọng được trình bày ở Bảng 4.11 dưới đây: Bảng 4.11: Dung trọng đất tại 3 lập địa (Đơn vị: g/cm3) Lập địa Vẹt tách Đước đôi Mấm trắng Dung trọng 1,04±0,06a 0,65±0,02b 0,57±0,03c Ghi chú: trong cùng một hàng ngang, có ít nhất một ký tự giống nhau thì không khác biệt ở mức ý nghĩa 5% qua kiểm định Duncan. 4.2.2.4 Thành phần cơ giới tại ba dạng lập địa phân bố 3 loài cây ưu thế Kết quả về thành phần cơ giới được trình bày ở Bảng 4.12 dưới đây: Bảng 4.12: Thành phần cơ giới tại 3 dạng lập địa (Đơn vị:: %) Lập địa Thành phần cát Thành phần thịt Thành phần sét Vẹt tách 3,06 45,08 51,86 Đước đôi 0,69 63,6 35,71 Mấm trắng 0,81 66,42 32,77 Thành phần cơ giới ở 3 lập địa chủ yếu là sét và thịt. Tỷ lệ cát, thịt và sét chiếm từ 3,06%, 45,08% và 51,86% tại lập địa Vẹt tách. Tỷ lệ này là 0,69%, 63,6% và 35,71% cho lập địa Đước đôi. Ở lập địa Mấm trắng, tỷ lệ là 0,81%, 66,42% và 32,77%. Tỷ lệ cát có xu hướng tăng dần từ lập địa Mấm trắng đến lập địa Vẹt tách. Thành phần thịt chiếm tỷ lệ nhiều nhất từ 45,08% - 66,42% và giảm dần từ cuối đến đầu cồn, theo địa hình. Thành phần sét chiếm tỷ lệ cao hơn cát, nhưng ít hơn sét. Lập địa Vẹt tách có thành phần sét cao nhất, khác biệt rõ rệt (51,86%) so với 2 lập địa còn lại (32,77% ở Mấm trắng và 35,71% ở lập địa Đước đôi từ 0,8 đến 2,3%. Theo phân hạng của Mỹ, đất lập địa Vẹt tách thuộc nhóm sét pha thịt, Đước đôi là nhóm thịt pha sét và lập địa Mấm trắng thuộc nhóm thịt pha sét. Theo Đỗ Đình Sâm và ctv. (2005). Vùng bán đảo Cà Mau có hàm lượng sét cao nhất 56 – 60% như vậy kết quả cho thấy đất tại Cồn Trong chiếm phần lớn bởi thịt và sét do các trầm tích sét theo dòng chảy sông Cửa Lớn từ cửa Bồ Đề (khu vực có tốc độ xói lở bờ biển bình quân 38,31 m/năm) sang cửa Ông Trang. 87 4.2.2.5 Thành phần hóa học đất các dạng lập địa Thành phần hóa học đất của các dạng lập địa được thể hiện trong Bảng 4.13. Bảng 4.13: Thành phần hóa học đất tại các dạng lập địa Chỉ tiêu Lập địa Vẹt tách Đước đôi Mấm trắng pH đất 6,86±0,3a 7,08±0,23b 7,22±0,2c Eh đất (mV) 69,5±11,26 -134±26,22 -168,5±24,21 N tổng (%) 0,14±0,01a 0,19±0,021b 0,14±0,009a N-NH4+(mg/kg) 10,76±3,12a 19,12±3,89b 11,96±3,50a N-NO3-(mg/kg) 0,92±0,55a 0,61±0,56b 0,49±0,44c P tổng (%) 0,11±0 0,09±0,01 0,08±0 CHC (%) 9,66±0,62 12,9±1,81 10, 97±0,32 Ghi chú: trong cùng một hàng ngang, có ít nhất một ký tự giống nhau thì không khác biệt ở mức ý nghĩa 5% qua kiểm định Duncan. Kết quả cho thấy đất ở mỗi lập địa có thành phần hóa học khác nhau. pH đất tăng dần từ lập địa Vẹt tách đến lập địa Mấm trắng, ngược lại giá trị Eh giảm dần. Sự khác biệt này do chế độ ngập triều khác nhau ảnh hưởng đến khả năng khuếch tán oxy không khí vào đất làm thay đổi giá trị pH và Eh ở các lập địa. Lập địa Mấm trắng và Đước đôi có cao trình đất thấp, tần số ngập triều thường xuyên, đất trong tình trạng thiếu oxy nên quá trình khử các chất hữu cơ chiếm ưu thế, làm giảm giá trị Eh đất. Ngoài ra, do ảnh hưởng của chế độ ngập triều, nước biển thường xuyên xâm nhập tạo tính đệm cho đất làm cho đất ở 2 lập địa Đước đôi và Mấm trắng có giá trị pH cao hơn lập địa Vẹt tách. Ngược lại, lập địa Vẹt tách ít bị ngập triều, đất thông thoáng nên oxy dễ dàng khuếch tán vào tầng đất mặt dẫn đến pH đất giảm. Hàm lượng amoni (N-NH4+) ở Bảng 4.13 cho thấy N-NH4+ ở lập địa Mấm trắng và Đước đôi cao hơn lập địa Vẹt tách, do đất ở 2 lập địa này thường xuyên ngập nước dẫn đến thiếu oxy, nên quá trình amon hóa diễn ra mạnh. Ngược lại, với điều kiện đất thông thoáng hơn, oxy được cung cấp đầy đủ nên ở lập địa Vẹt tách diễn ra quá trình oxy hóa chất hữu cơ chuyển đổi thành nitrat mạnh hơn ở lập địa Đước đôi và Mấm trắng. Hàm lượng lân tổng số (TP) và chất hữu cơ ở ba lập địa không khác biệt, lân tổng số trong đất có xu hướng giảm dần từ lập địa Vẹt tách ra lập địa Mấm trắng. Cả 3 lập địa Vẹt tách, Đước đôi, Mấm trắng đều có hàm lượng chất hữu cơ ở mức giàu (từ 9,66%±0,62 đến 12,9%±1,81). Trong đó chất hữu cơ trong đất cao nhất tại lập địa Đước đôi, nguyên nhân có thể do lượng vật rụng tại lập địa này cao nhất. Theo Ngô Đình Quế (2003), tác giả cho rằng hàm lượng chất 88 hữu cơ thấp hơn 1% sẽ làm rừng ngập mặn phát triển kém, lớn hơn 15% sẽ kìm hãm sự sinh trưởng của cây, môi trường đất bị ô nhiễm. Như vậy, hàm lượng chất hữu cơ tại 3 lập địa tạo điều kiện tốt cho sự sinh trưởng và phát triển của thực vật rừng ngập mặn tại Cồn Trong Ông Trang. Các đặc điểm của lập địa nói trên đã quyết định sự phân bố các loài thực vật ở Cồn Trong Ông Trang và đã đưa đến kết quả là tạo nên 3 dạng lập địa đặc trưng như đã thảo luận. 4.2.3 Kết quả nghiên cứu cấu trúc rừng ngập mặn theo dạng lập địa 4.2.3.1 Thành phần loài cây thân gỗ tại Cồn Trong Ông Trang Kết quả nghiên cứu ở Bảng 4.14 cho thấy tại các ô tiêu chuẩn có 05 loài gồm: Vẹt tách, Đước đôi, Giá, Mấm đen và Mấm trắng. Ở mỗi lập địa có sự phân bố loài cây khác nhau, Giá và Mấm đen có số lượng cá thể rất ít. Giá chỉ được phát hiện ở 1 ô tiêu chuẩn của lập địa Vẹt và có 1 cá thể. Mấm đen được phát hiện ở 1 ô tiêu chuẩn của lập địa Vẹt và Đước, chỉ có 1 cá thể, ở lập địa Mấm trắng không phát hiện Mấm đen và Giá. Vẹt tách, Đước đôi và Mấm trắng có sự phân bố mang tính ưu thế ở các khu vực nghiên cứu. Bảng 4.14: Mật độ cây theo lập địa Lập địa Ô tiêu chuẩn Vẹt tách (cây/ô) Đước đôi (cây/ô) Giá (cây/ô) Mấm trắng (cây/ô) Mấm đen (cây/ô) Vẹt 1 14 0 0 0 0 2 17 1 1 0 1 3 17 4 0 0 0 4 22 1 0 1 0 5 12 1 0 1 0 Trung bình (cây/ha) 1.640 140 20 40 20 Đước 6 4 14 0 3 1 7 2 17 0 3 0 8 2 14 0 2 0 9 2 16 0 3 0 10 0 14 0 1 0 Trung bình (cây/ha) 200 1.500 0 240 20 Mấm 11 0 0 0 23 0 12 0 1 0 26 0 13 0 1 0 19 0 14 0 2 0 22 0 15 0 0 0 18 0 Trung bình (cây/ha) 0 80 0 2160 0 89 Kết quả đánh giá về mật độ các loài để chỉ ra sự ưu thế cho thấy có 3 loài chính phân bố nhiều và chiếm ưu thế ở 3 dạng lập địa là Mấm trắng, Đước đôi và Vẹt tách. Khu vực đầu cồn loài Vẹt tách chiếm ưu thế và có mật độ trung bình 1.640 cây/ha, chiếm 88% số cá thể trên khu vực. Các cây Đước, Giá, Mấm đen, Mấm trắng xuất hiện trên khu vực này rất ít, với mật độ từ 20 - 140 cây/ha. Khu vực giữa cồn loài Đước đôi có mật độ trung bình 1.500 cây/ha, chiếm 76% số cá thể. Tại lập địa này loài Vẹt tách và Mấm trắng xuất hiện với mật độ tương đương nhau (Vẹt tách có mật độ 200 cây/ha và Mấm trắng có mật độ 240 cây/ha), Mấm đen xuất hiện với mật độ thấp hơn 3 loài còn lại (20 cây/ha). Ở lập địa này không thấy có sự xuất hiện của loài Giá. Loài Mấm trắng có mật độ cá thể trung bình 2.160 cây/ha (96% số cá thể) và chiếm ưu thế ở khu vực cuối cồn. Tại đây chỉ còn phát hiện được 2 loài là Mấm trắng (mật độ 2.160 cây/ha) và Đước đôi với mật độ chỉ 80 cây/ha. Do điều kiện ngập triều của lập địa nên chỉ các cây chịu được thời gian ngập triều dài ngày mới phát triển được, còn các loài cây thích hợp với chế độ ngập triều ngắn ngày như Vẹt tách, Giá và Mấm đen không thấy xuất hiện. Kết quả đo đạc đường kính 03 loại cây rừng ngập mặn ở các lập địa được trình bày trong Bảng 4.15. Bảng 4.15: Đường kính cây theo lập địa (Đơn vị: cm) Lập địa Vẹt tách Đước đôi Giá Mấm trắng Mấm đen Vẹt tách 11,55±2,38 6,80±0,95 15,9±0,0 16,10±6,51 10,5±0,0 Đước đôi 15,97±2,12 11,96±2,23 - 9,75±3,95 13,89±0,0 Mấm trắng - 7,32±0,94 - 9,10±1,11 - Ghi chú: Giá trị TB ± Độ lệch chuẩn Kết quả về phân bố chiều cao tại Bảng 4.16 dưới đây cho thấy Vẹt tách có chiều cao trung bình 14,57±2,68 m, trong khi đó Đước đôi có chiều cao thấp hơn từ 7,2 - 15 m. Mấm có cá thể có chiều cao phân bố nhiều từ 7,6 - 15 m. Chiều cao đặc trưng bởi các yếu tố: 1) Môi trường tự nhiên; 2) Đặc điểm di truyền; 3) Sự cạnh tranh và điều tiết mật độ; 4) Tuổi cây. Bảng 4.16: Chiều cao cây theo lập địa (Đơn vị: m) Lập địa Vẹt tách Đước đôi Giá Mấm trắng Mấm đen Vẹt tách 14,57±2,68 14,33±3,30 16,60±0,0 14,65±0,78 19,50±0,0 Đước đôi 13,29±2,22 13,13±1,93 - 11,19±3,71 14,50±0,0 Mấm trắng - 9,12±1,69 - 10,69±1,43 - Ghi chú: Giá trị TB ± Độ lệch chuẩn 90 4.2.3.2 Các chỉ số đa dạng sinh học Các kết quả về đa dạng sinh học thực vật khảo sát theo ô tiêu chuẩn từ đầu cồn đến cuối cồn được đánh giá thông qua các chỉ số được trình bày trong Bảng 4.17. Bảng 4.17: Các chỉ số đa dạng sinh học của khu vực nghiên cứu Khu vực phân bố OTC (S) (d) (J’)' H'(loge) D Khu vực đầu cồn O1 1 0 0 0 1 O2 4 1,00 0,42 0,59 0,72 O3 2 0,33 0,70 0,49 0,68 O4 3 0,63 0,31 0,34 0,84 O5 3 0,76 0,46 0,51 0,73 Khu vực giữa cồn O6 4 0,97 0,62 0,86 0,54 O7 3 0,65 0,52 0,58 0,68 O8 3 0,69 0,51 0,56 0,69 O9 3 0,66 0,65 0,71 0,59 O10 2 0,37 0,35 0,24 0,87 Khu vực cuối cồn O11 1 0 0 0 1 O12 2 0,30 0,23 0,16 0,93 O13 2 0,33 0,29 0,20 0,90 O14 2 0,31 0,41 0,29 0,84 O15 1 0 0 0 1 Trung bình 0.47±0,09 0,37±0,06 0,37±0,07 0,81±0,04 Thấp nhất 0 0 0 0,5 Cao nhất 1,00 0,70 0,86 1 Ghi chú: OTC: ô tiêu chuẩn Đa dạng loài Margalef (d): Trong các quần xã nghiên cứu cho thấy chỉ số đa dạng loài biến động từ 0 - 1 trung bình 0,47±0,09. Chỉ số đa dạng của 7 ô tiêu chuẩn lớn hơn chỉ số đa dạng trung bình, chiếm 46,7% tổng các ô tiêu chuẩn. Trong đó chỉ số đa dạng loài cao nhất là 1 với số loài trong một số ô tiêu chuẩn là 4 loài và chỉ số đa dạng loài thấp nhất cho trị số 0 cho thấy trong ô tiêu chuẩn chỉ có 1 loài duy nhất. Trong 15 ô tiêu chuẩn, có 1 ô ở khu vực đầu cồn thuộc rừng thuần loại Vẹt tách và 2 ô ở khu vực cuối cồn thuộc rừng thuần loại Mấm trắng. Số liệu này chứng tỏ chỉ số đa dạng loài ở khu vực này thấp. Độ đồng đều Pielou (J’): Biến động từ 0,0-0,71, trung bình là 0,37±0,06. Số ô tiêu chuẩn có độ đồng đều lớn hơn giá trị trung bình là 7 ô, chiếm 46,7% trong tổng các ô tiêu chuẩn. Trong đó ô nghiên cứu có độ đồng đều cao nhất là ô 3 thuộc quần xã Vẹt tách, đây là khu vực các loài cây sinh trưởng đạt đến mức ổn định nên chúng có độ đồng đều tương đương nhau. Ô 11 91 có độ đồng đều thấp nhất chỉ đạt 0,23. Ngoài ra, các ô nghiên cứu chỉ có một loài duy nhất thì có chỉ số đồng đều bằng không. Điều này nói lên số lượng loài trong các ô không tương đương nhau và có loài ưu thế. Chỉ số đa dạng Shannon – Wiener H’ (loge): biến động từ 0 đến 0,86, trung bình 0,37±0,07. Chỉ số đa dạng của 7 ô lớn hơn chỉ số trung bình, chiếm 46,7%. Qua số liệu trên cho thấy chỉ số đa dạng Shannon – Wiener ở Cồn Trong Ông Trang đạt mức tương đối thấp, thể hiện đa dạng loài trong quần xã thấp. Chỉ số ưu thế Simpson (D): Chỉ số Shimpson thay đổi từ 0,5 đến 1, trung bình là 0,8±0,04. Chỉ số đa dạng của 8 ô nghiên cứu lớn hơn chỉ số trung bình, chiếm 53,3 % trong tổng số 15 ô nghiên cứu. Qua đó cho thấy các quần xã thực vật ngập mặn ở Cồn Trong Ông Trang có chỉ số đa dạng Shimpson cao hơn mức trung bình, như vậy mức độ đa dạng sinh học của các quần xã đang có chiều hướng gia tăng. Nhận định chung cho các chỉ số đa dạng sinh học: Khi chỉ số ưu thế Simpson D tại các quần xã càng lớn thì các chỉ số đa dạng (H’) và chỉ số động đều (J’) càng nhỏ và ngược lại. Điều này cho thấy chỉ số ưu thế Simpson D tỷ lệ nghịch với các chỉ số đa dạng sinh học còn lại trong khu vực nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ đa dạng sinh học của các quần xã cây rừng tại Cồn Trong Ông Trang đang có chiều hướng gia tăng. 4.2.3.3 Phân tích mối quan hệ giữa các loài Mối quan hệ giữa các loài trong khu vực nghiên cứu được phân tích bằng phần mềm PRIMER ở các mức tương đồng 5, 20, 40 và 60%, kết quả được thể hiện trong Hình 4.6. Hình 4.6: Mối quan hệ giữa các loài ở các mức tương đồng 92 Mối quan hệ giữa các loài ở mức tương đồng 5% Ở mức tương đồng 5% chưa xuất hiện các nhóm loài riêng lẻ, chỉ hình thành một nhóm duy nhất. Kết quả phân tích cho ý nghĩa chưa cần ưu tiên bảo tồn loài ở mức tương đồng này. Mối quan hệ giữa các loài ở mức tương đồng 20% Ở mức tương đồng 20% các loài thực vật chia thành 2 nhóm: + Nhóm thứ nhất gồm 2 loài: Mấm đen và Giá. + Nhóm thứ hai gồm 3 loài: Vẹt tách, Đước đôi và Mấm trắng. Ở mức tương đồng này chưa thấy xuất hiện loài riêng lẻ. Mối quan hệ giữa các loài ở mức tương đồng 40% Ở mức tương đồng 40%: Mối quan hệ giữa các loài thực vật đã xuất hiện 3 nhóm chính, trong đó: + Có một nhóm chỉ xuất hiện một loài đó là loài Vẹt tách + Còn lại 2 nhóm xuất hiện mỗi nhóm 2 loài khác nhau đó là: nhóm với loài Mấm đen và Giá; nhóm với 02 loài Mấm trắng và Đước đôi. Xét ở mức tương đồng 40% trong 05 loài nghiên cứu thì Vẹt tách là loài cần được bảo tồn. Mối quan hệ giữa các loài ở mức tương đồng 60% Ở Mức tương đồng 60%: Mối quan hệ giữa các loài đã xuất hiện 04 nhóm chính, trong đó: + Có 3 nhóm chỉ suất hiện có một loài duy nhất đó là: Nhóm với loài Vẹt tách, nhóm với loài Đước đôi và nhóm với loài Mấm trắng. + Có 1 nhóm xuất hiện 02 loài đó là: Mấm đen và Giá. Xét ở mức tương đồng 60% trong 05 loài cây ngập mặn thì có 03 loài cần được quan tâm bảo tồn đó là Vẹt tách, Đước đôi và Mấm trắng. 4.2.3.4 Phân tích mối quan hệ giữa các quần xã Phân tích nhóm dựa trên ma trận giống nhau (Bray-Curtis) của 15 Ô nghiên cứu theo mật độ cây ngập mặn. Kết quả đã thiết lập 3 nhóm quần xã thực vật đặc trưng cho 3 khu vực với mức độ tương đồng khác nhau (Hình 4.5). Quần xã đặc trưng cho khu vực cuối cồn là quần xã Mấm trắng sinh trưởng và phát triển trên dạng đất có thành phần cơ giới thịt pha sét có mức độ giống nhau về thành phần loài giữa các ô nghiên cứu nhiều nhất 85%. Quần xã đặc trưng khu vực giữa cồn là quần xã Đước đôi thích nghi với dạng đất có thành phần cơ giới thịt trung bình có mức độ giống nhau về thành phần loài dao động từ 78 đến 88%.
File đính kèm:
luan_an_nghien_cuu_dac_diem_cau_truc_va_dinh_duong_cua_rung.pdf
Thongtinluanan-En.doc
Thongtinluanan-Vi.doc
Tomtatluanan-En.pdf
Tomtatluanan-Vi.pdf