Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 1

Trang 1

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 2

Trang 2

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 3

Trang 3

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 4

Trang 4

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 5

Trang 5

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 6

Trang 6

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 7

Trang 7

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 8

Trang 8

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 9

Trang 9

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 200 trang nguyenduy 03/10/2025 130
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica

Luận án Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của một số dòng lúa mới do lai xa giữa hai loài phụ Indica và Japonica
u và năng suất của các dòng 
lúa triển vọng 
Phân tích tương quan cho thấy có mối tương quan thuận giữa bó mạch lớn 
cổ bông với số gié cấp 1/bông ở hai dòng lúa triển vọng, trong khi bố mẹ có 
tương quan nghịch, đặc biệt dòng DCG66 có mối tương quan chặt giữa số bó 
mạch lớn cổ bông với số gié cấp 1 với hệ số tương quan r = 0,94* (hình 4.8). Mối 
tương quan cũng thể hiện tương tự với số bó mạch nhỏ cổ bông với số gié cấp 2 
với hệ số tương quan của dòng DCG66 cao nhất đạt r = 0,81^ (hình 4.9), đường 
kính rễ của các dòng, giống lúa tương quan thuận chặt với năng suất cá thể với hệ 
số tương quan biến động từ r = 0,79 - 95 (hình 4.10), tổng số bó mạch cổ bông 
tương quan thuận chặt với năng suất cá thể r = 0,82 - 0,95 (hình 4.11). Các kết 
quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của (Lee et al., 1992; Terao et al., 
2010; Liu et al., 2014a). 
Ghi chú: *, ns thể hiện mối tương quan ở mức ý nghĩa 0,05 và không tương quan 
Hình 4.8. Tương quan giữa số bó mạch lớn cổ bông và số gié cấp 1/ bông của các 
dòng lúa triển vọng 
 73 
Ghi chú: ^, ns thể hiện mối tương quan ở mức ý nghĩa 0,1 và không tương quan 
Hình 4.9. Tương quan giữa số bó mạch nhỏ cổ bông và số gié cấp 2/ bông của các 
dòng lúa triển vọng 
Hình 4.10. Tương quan giữa đường kính rễ với năng suất cá thể của các dòng lúa 
triển vọng 
Ghi chú: *, ** thể hiện mối tương quan chặt mức ý nghĩa 0,05; 0,01 
Hình 4.11. Tương quan giữa tổng số bó mạch cổ bông và năng suất cá thể của các 
dòng lúa triển vọng 
DCG66, r = 0,92** 
IAS66, r = 0,85** 
Asominori, r = 0,95** 
IR24, r = 0,79** 
 74 
Từ kết quả thí nghiệm hình thái, giải phẫu cũng cho thấy chiều cao thân, 
góc lá đòng, độ dày lóng gốc và tổng số bó mạch ở cổ bông của các dòng lúa 
được chọn lọc do lai xa đã được cải thiện so với bố mẹ. Về cấu trúc bông thì 
dòng lúa mới DCG66 vượt đối chứng IR24 về số gié cấp 2/bông và tổng số hạt/ 
bông, điều này đã dẫn tới năng suất cá thể của dòng này cao hơn đối chứng IR24. 
Để tiếp tục tìm hiểu triển vọng của dòng lúa chọn lọc do lai xa ngoài khía cạnh 
giải phẫu và hình thái, chúng tôi tiếp tục tiến hành thí nghiệm về quang hợp và 
vận chuyển sản phẩm quang hợp của các dòng lúa ưu tú này dưới các mức đạm 
khác nhau. 
4.2.2. Quang hợp và vận chuyển sản phẩm quang hợp của các dòng lúa triển 
vọng dưới các mức đạm 
4.2.2.1. Một số chỉ tiêu sinh lý của các dòng lúa triển vọng và dòng bố mẹ 
Cường độ quang hợp được đo thông qua cường độ trao đổi CO2 (CER) tăng 
có ý nghĩa từ mức đạm bón N0 lên N1, nhưng tăng không có ý nghĩa từ mức N1 
đến N2 ở tất cả các dòng, giống nghiên cứu. Ở mức N0, không có sự khác nhau 
về cường độ quang hợp của hai dòng lúa mới DCG66, IAS66 so với bố mẹ ở cả 3 
giai đoạn đẻ nhánh rộ, trỗ và chín sáp (14 ngày sau trỗ). Ở giai đoạn đẻ nhánh rộ, 
cường độ quang hợp giống bố Asominori (ASO) đạt cao nhất 26,7 µmol CO2/m2 
lá/s ở mức đạm bón trung bình N1, nhưng sai khác không có ý nghĩa so với 
cường độ quang hợp của DCG66 ở mức N1 (26,5 µmol CO2/m2 lá/s), IAS66 ở 
mức N2 (25,0 µmol CO2/m2 lá/s) và ASO ở mức N2 (25,9 µmol CO2/m2 lá/s). 
Tăng mức đạm bón lên mức cao N2 thì chỉ có cường độ quang hợp của dòng 
IAS66 và đối chứng IR24 là tăng (Hình 4.12). Ở giai đoạn trỗ, cường độ quang 
hợp của ASO ở mức đạm N1 vẫn giữ xu hướng như ở giai đoạn đẻ nhánh rộ, đạt 
cao nhất với 28,3 µmol CO2/m2 lá/s, nhưng sai khác không có ý nghĩa thống kê 
so với cường độ quang hợp của DCG66 (24,8 µmol CO2/m2 lá/s), IAS66 (25,9 
µmol CO2/m2 lá/s) và ASO (27,0 µmol CO2/m2 lá/s) ở mức đạm cao N2. Tuy 
nhiên, mức tăng cường độ quang hợp của dòng IAS66 từ mức đạm N0 lên mức 
N2 là đạt cao nhất so với tất cả các giống. Đến giai đoạn chín sáp, vẫn giống bố 
ASO duy trì quang hợp đạt cao nhất ở mức đạm bón N2, trong khi cường độ 
quang hợp của DCG66 không sai khác có ý nghĩa thống kê so với mẹ IR24. 
 75 
Ghi chú: A: Giai đoạn đẻ nhánh rộ, B: Giai đoạn trỗ, C: 14 ngày sau trỗ 
Cột mang cùng chữ là không khác nhau theo tiêu chuẩn Tukey ở mức ý nghĩa α = 0,05. 
N0, N1 và N2 là 3 mức đạm bón: không bón, bón trung bình và cao 
Hình 4.12. Cường độ quang hợp của các dòng lúa ưu tú và bố mẹ dưới các 
mức đạm 
 76 
Bảng 4.18. Chỉ số SPAD và hàm lượng nito trong lá đòng của các dòng lúa 
ưu tú dưới các mức đạm 
Đạm Dòng, giống 
Chỉ số SPAD 
Hàm lượng nito trong 
lá đòng 
(%) 
DNR Trỗ 14NST Trỗ 14NST 
N0 
DCG66 34,0d 35,2g 30,0e 2,84bc 1,23e 
IAS66 28,5e 34,3g 31,6e 2,22d 1,34de 
Asominori 29,1e 37,6fg 32,4e 1,66e 1,37de 
IR24 31,5de 34,2g 30,1e 1,69e 1,14e 
N1 
DCG66 44,0a 45,0bc 35,2bcde 2,58c 1,72c 
IAS66 38,9c 41,2de 37,0bcd 2,80bc 2,08b 
Asominori 43,3abc 47,8ab 49,9a 3,21a 3,01a 
IR24 42,2abc 40,0ef 34,0cde 2,77c 1,56cd 
N2 
DCG66 45,7a 47,8ab 40,1b 3,18ab 2,06b 
IAS66 39,4bc 43,2cde 39,7b 2,77c 2,25b 
Asominori 44,3a 49,2a 49,0a 3,27a 2,98a 
IR24 43,5ab 43,8cd 38,0bc 2,77c 1,61cd 
Ghi chú: Trong cùng một cột số liệu, các giá trị mang cùng chữ thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa và 
ngược lại theo tiêu chuẩn Tukey ở mức ý nghĩa α=0,05 
Chỉ số SPAD tăng từ giai đoạn đẻ nhánh rộ đến trỗ, đạt cao nhất ở giai đoạn 
trỗ, sau đó giảm ở giai đoạn 14 ngày sau trỗ (NST). Ở giai đoạn trỗ, giống ASO 
đạt chỉ số SPAD cao nhất ở mức đạm N2 với 49,2 sai khác không có ý nghĩa 
thống kê so giống ASO ở mức đạm N1 và DCG66 ở cùng mức đạm cao, tương 
ứng cùng đạt 47,8. Ở giai đoạn 14 NST, vẫn giống ASO ở cả mức đạm trung 
bình và cao đều cho chỉ số SPAD đạt cao nhất, trong khi DCG66 và IAS66 
không sai khác so với gene nền IR24. 
Hàm lượng nito trong lá đòng cũng có xu thế giống như chỉ số SPAD, đạt cao 
nhất ở giai đoạn trỗ, sau đó giảm ở giai đoạn 14 NST. Giống ASO ở mức đạm N1 
và N2 cho hàm lượng nito trong lá đòng đạt cao nhất với 3,21 và 3,27%, tương ứng. 
Tuy nhiên, không sai khác so với hàm lượng nito trong lá đòng của DCG66 ở mức 
N2 đạt 3,18% . Đến 14NST, giống ASO vẫn duy trì hàm lượng nito trong lá đòng 
đạt cao ở mức đạm bón N1 và N2, đạt 3,01 và 2,98%, tương ứng (Bảng 4.18). Điều 
này là nguyên nhân dẫn tới cường độ quang hợp cao của giống ASO (Hình 4.15). 
 77 
Ghi chú: (A: Giai đoạn đẻ nhánh rộ, B: Giai đoạn trỗ, C: 14 ngày sau trỗ) 
Cột mang cùng chữ là không khác nhau theo tiêu chuẩn Tukey ở mức ý nghĩa 0,05 và ngược lại 
Hình 4.13. Diện tích lá của các dòng lúa triển vọng và bố mẹ dưới các mức đạm 
 78 
Ghi chú: A: Giai đoạn đẻ nhánh rộ, B: Giai đoạn trỗ, C: 14 ngày sau trỗ 
Cột mang cùng chữ là không khác nhau theo tiêu chuẩn Tukey ở mức ý nghĩa α=0,05 và 
ngược lại 
Hình 4.14. Khối lượng chất khô của dòng lúa triển vọng bố mẹ dưới các 
mức đạm bón 
A 
 79 
Diện tích lá/cây là tăng cùng với việc tăng mức đạm bón từ N0 lên N2 ở 
tất cả các dòng giống nghiên cứu (Hình 4.13). Tuy nhiên tỷ lệ tăng cao nhất ở 
dòng ở IAS66 ở giai đoạn đẻ nhánh rộ và trỗ, nhưng đến giai đoạn chín sáp thì 
ASO lại tăng cao nhất. Ở giai đoạn đẻ nhánh rộ, IAS66 có diện tích lá/ cây đạt 
cao nhất ở mức đạm bón N2 với 11,6 cm2/cây, sai khác có ý nghĩa so với các 
giống khác. Đến giai đoạn trỗ, diện tích lá của dòng IAS66 ở mức đạm bón cao 
N2 đạt cao nhất 34,8 cm2/cây, nhưng sai khác không có ý nghĩa so với DCG66 
và IR24 ở mức N2 tương ứng đạt 33,4 và 29,9 cm2/cây. Không bón đạm thì 
diện tích lá sai khác không có ý nghĩa giữa các dòng giống (Hình 4.13). Ở giai 
đoạn 14NST, diện tích lá của ASO lại đạt cao nhất 29,0 cm2/cây ở mức đạm 
N2, nhưng sai khác không có ý nghĩa so với DCG66 và IAS66 ở mức đạm N2 
tương ứng với 26,4 và 25,2 cm2/cây. 
Khối lượng chất khô tăng qua các giai đoạn sinh trưởng khi tăng mức 
đạm bón ở cả DCG66, dòng IAS66 và bố ASO và mẹ IR24 (Hình 4.14). Ở 
mức đạm bón N0, không có sự khác nhau về khối lượng chất khô giữa các 
dòng/giống ở các giai đoạn theo dõi. Ở giai đoạn đẻ nhánh rộ, IAS66 ở mức 
đạm bón cao N2 cho khối lượng chất khô đạt cao nhất 7,9g/cây, sai khác có ý 
nghĩa so với các dòng/giống còn lại ở các mức đạm bón. Ở giai đoạn trỗ, 
DCG66 ở mức đạm bón cao N2 cho khối lượng chất khô đạt cao nhất 
54,9g/cây, sai khác có ý nghĩa thống kê so với IAS66, ASO và IR24 ở cùng 
mức bón. Tuy nhiên, ở mức bón trung bình khối lượng chất khô của DCG66 
không sai khác so với IAS66, tương ứng đạt 47,2 và 45,6 g/cây. Giai đoạn 14 
ngày sau trỗ, DCG66 ở mức đạm bón N2 cho khối lượng chất khô đạt cao nhất 
67,5 g/cây, sai khác có ý nghĩa thống kê so với các dòng giống khác, tăng 
8,4% so với mức đạm trung bình N1. Tỷ lệ tăng về khối lượng chất khô của 
dòng lúa mới DCG66 và IAS66 là cao nhất vượt so với bố mẹ của nó. 
4.2.2.2. Vận chuyển carbohydrate không cấu trúc (NSC) của các dòng lúa 
triển vọng và bố mẹ dưới các mức đạm bón 
Tổng lượng carbohydrate không cấu trúc ở hạt có từ hai nguồn là tích lũy 
carbohydrate ở thân và bẹ lá trước trỗ và sản phẩm quang hợp trong suốt quá 
trình vào chắc (Nakano et al., 2017). Nhìn chung, NSC ở thân và bẹ lá tăng từ 
giai đoạn đẻ nhánh đến trỗ, sau đó giảm trong thời kỳ chín (Yoshida, 1981). 
Đối lập với NSC ở thân và bẹ, thì NSC ở bông của tất cả các dòng, giống tăng 
 80 
với việc tăng mức đạm bón và tăng từ trỗ đến chín. NSC ở thân và bẹ của 
DCG66 giảm mạnh (10,6 g/khóm) từ giai đoạn trỗ đến chín ở mức đạm bón 
N1 (Bảng 4.16), sau đó đến IAS66 ở mức đạm bón N2 (8,9 g/khóm). Tuy 
nhiên, khi tăng mức đạm bón thì lượng NSC dự trữ ở thân và bẹ của các dòng, 
giống cũng giảm. Lượng NSC ở bông giai đoạn trỗ không có sự sai khác giữa 
mức đạm trung bình N1 và mức cao N2, tuy nhiên đến giai đoạn chín NSC ở 
bông có sự khác nhau rõ rệt, đạt cao nhất ở DCG66 dưới mức đạm bón trung 
bình N1 với 35,2 g/khóm, sai khác không có ý nghĩa so với mức bón cao N2 
đạt 32,5 g/khóm (Bảng 4.17). Tăng NSC ở bông đạt cao nhất ở DCG66 dưới 
mức đạm bón N1 với 33,5 g/khóm từ giai đoạn trỗ đến chín, sai khác có ý 
nghĩa thống kê so với bố mẹ khác dưới các mức đạm bón, sau đó tới IAS66 
dưới mức đạm N2 tăng 29,2g/khóm. 
Bảng 4.19. Carbohydrates không cấu trúc (g/khóm) ở thân và bông của các 
dòng lúa triển vọng dưới các mức đạm 
Dòng, 
giống 
Đạm Thân và bẹ Bông 
Trỗ Chín ▼ Trỗ Chín ▲ 
DCG66 
N0 1,0f 0,5d 0,5d 0,2b 2,2g 2,1f 
N1 15,0a 4,4a 10,6a 1,7a 35,2a 33,5a 
N2 10,6bc 4,7a 6,0b 2,5a 32,5ab 30,0ab 
TB 8,9A 3,2A 5,7A 1,5A 23,3A 21,9A 
IAS66 
N0 0,7f 0,3d 0,4d 0,1b 2,0g 1,9f 
N1 12,4b 3,5bc 8,9a 1,7a 27,0cd 25,3c 
N2 9,9c 3,0c 6,9b 2,3a 31,5b 29,2b 
TB 7,7B 2,3BC 5,4A 1,4A 20,2B 18,8B 
ASO 
N0 0,6f 0,3d 0,2d 0,1b 1,8g 1,6f 
N1 4,1e 3,3c 0,8d 2,0a 18,2f 16,2e 
N2 5,7de 4,3ab 1,4d 1,4a 22,6e 21,1d 
TB 3,5D 2,6B 0,8C 1,2A 14,2C 13,0C 
IR24 
N0 0,7f 0,2d 0,5d 0,1b 1,8g 1,7f 
N1 9,3c 3,2c 6,1b 1,8a 25,5de 23,7cd 
N2 6,1d 2,6c 3,5c 2,4a 28,8bc 26,4bc 
TB 5,4C 2,0B 3,4B 1,4A 19.1B 17,2B 
Ghi chú: Trong cùng một cột số liệu, các giá trị mang cùng chữ thể hiện sự sai khác không có ý 
nghĩa, và ngược lại ở mức α=0,05 theo tiêu chuẩn Tukey 
▼ nghĩa là giảm lượng NSC ở thân và bẹ = NSC trong thân và bẹ ở giai đoạn trỗ – NSC thân bẹ 
gđ chín 
▲nghĩa là tăng lượng NSC ở bông = NSC ở bông gđ chín – NSC bông giai đoạn trỗ 
 81 
4.2.2.3. Hiệu quả sử dụng đạm (NUE) của dòng lúa triển vọng và bố mẹ dưới 
các mức đạm 
Một trong những chiến lược để cải thiện năng suất lúa là lựa chọn nguồn 
gene với hiệu quả sử dụng đạm cao để có thể tạo ra năng suất kinh tế cao trong 
điều kiện bón đạm giới hạn. Hiệu quả sử dụng đạm trong quang hợp đạt cao nhất 
ở giống ASO với 13,78 µmol CO2/g N/s dưới điều kiện không bón đạm N0. Tăng 
mức đạm bón thì hiệu quả sử dụng đạm trong quang hợp giảm. Trái với hiệu quả 
sử dụng đạm trong quang hợp thì hiệu quả sử dụng đạm trong sinh khối tăng khi 
mức đạm bón tăng. Ở giai đoạn trỗ, hiệu quả sử dụng đạm trong sinh khối đạt 
cao nhất ở IAS66 với 18,86g chất khô/g N, tuy nhiên sai khác không có ý nghĩa 
so với IR24 ở cùng mức đạm cao N2 (16,76 g/gN) và DCG66 ở mức bón trung 
bình N1 (18,33g/gN) (Bảng 4.18). Ở 14NST, hiệu quả sử dụng đạm trong sinh 
khối tăng với việc tăng mức đạm bón, điều này chứng tỏ tăng đạm bón làm tăng 
sinh khối ở tất cả các dòng/giống nghiên cứu, trong đó đạt cao nhất ở IR24 dưới 
mức đạm bón cao N2 đạt 34,56g/gN. 
Bảng 4.20. Hiệu quả sử dụng đạm trong quang hợp (PNUE) và trong sinh 
khối (BNUE) của dòng các dòng lúa triển vọng dưới các mức đạm 
Dòng, giống Đạm 
PNUE (µmol CO2/g N/s) BNUE (g/gN) 
Trỗ 14 NST Trỗ 14 NST 
 N0 7,93c 8,85ab 1,24g 3,87g 
DCG66 N1 9,27c 7,49ab 18,33ab 36,3a 
 N2 7,85c 6,12b 17,36abc 32,84bc 
IAS66 
N0 8,42c 9,91a 1,4g 3,05g 
N1 8,30c 8,05ab 16,31cd 24,65d 
N2 9,41bc 7,34ab 18,68a 27,05d 
ASO 
N0 13,78a 9,51a 1,39g 2,47g 
N1 8,87c 7,78ab 7,62f 11,54e 
N2 8,26c 8,02ab 10,35e 15,36f 
IR24 
N0 11,07b 9,59a 1,84g 3,49g 
N1 7,98c 7,96ab 15,1d 31,69c 
N2 8,10c 7,75ab 16,76bc 34,56ab 
Ghi chú: Trong cùng một cột số liệu, các giá trị mang cùng chữ thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa và 
ngược lại theo tiêu chuẩn Tukey ở mức ý nghĩa α=0,05 
 82 
Hiệu quả sử dụng đạm nông học (ANUE) của tất cả các dòng, giống giảm 
khi tăng mức đạm bón từ trung bình N1 lên mức bón cao N2. ANUE của 
DCG66 ở mức đạm N1 đạt cao nhất với 46,4g/g, sai khác có ý nghĩa thống kê 
so với IR24. Dòng IAS66 có hiệu quả sử dụng đạm nông học không sai khác so 
với gene nền IR24 ở mức bón N1 đạt 37,1 và 34,9 g/g tương ứng (Hình 4.15). 
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyen et al. (2014) cho 
rằng dưới mức đạm bón cao, cả hiệu quả sử dụng đạm hòa tan và hiệu quả sử 
dụng đạm nông học đều giảm, điều này có thể do lượng dinh dưỡng cung cấp 
cho cây đã đủ dưới mức bón trung bình. 
4.2.2.4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng lúa triển 
vọng và dòng bố mẹ dưới các mức đạm 
Tăng mức đạm bón làm tăng đáng kể số bông/khóm ở cả DCG66, IAS66, 
ASO và IR24, trong số giống ASO có số bông/khóm đạt cao nhất, thấp nhất là 
DCG66 (Bảng 4.19). Số bông/khóm đạt cao nhất ở giống ASO ở mức đạm bón 
cao N2 đạt 31 bông/khóm, sai khác có ý nghĩa so với các dòng, giống ở cùng 
mức đạm. Tiếp đến IAS66 ở mức đạm N2 có 21 bông/khóm, thấp nhất là ở mức 
không bón đạm của các dòng hầu như không đẻ nhánh. 
(Ghi chú: N1, N2 lần lượt là mức đạm bón trung bình và cao tương ứng 1 và 2g/chậu) 
Hình 4.15. Hiệu quả sử dụng đạm nông học (ANUE) của dòng lúa triển 
vọng và dòng bố mẹ dưới các mức đạm bón 
 83 
Bảng 4.21. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của dòng lúa triển 
vọng dưới các mức đạm 
Dòng, 
giống Đạm Bông/khóm Hạt/bông 
Tỷ lệ hạt 
chắc (%) 
Khối 
lượng 
1000 (g) 
Năng suất 
cá thể 
 (g/khóm) 
 N0 1,0f 180d 98,8a 19,7d 3,0g 
DCG66 N1 9,7e 278b 98,4a 20,1d 50,4a 
 N2 13,5d 307a 97,9ab 20,0d 44,7bc 
 TB 8,1D 255A 98,4A 19,9D 32,4A 
IAS66 
N0 2,0f 81g 84,6e 25,3b 2,9g 
N1 17,2c 155e 93,3cd 26,3a 40,1cd 
N2 21,0b 153e 94,2bcd 26,3a 47,9ab 
TB 13,4B 130C 90,7C 26,0B 30,3A 
ASO 
N0 2,5f 34h 95,7abc 26,5a 2,4g 
N1 22,0b 91fg 92,6cd 27,0a 25,1f 
N2 31,0a 96fg 94,1cd 27,0a 32,8e 
TB 18,5A 74D 94,1B 26,8A 20,1C 
IR24 
N0 1,5f 111f 83,3e 23,5c 2,8f 
N1 13,2d 245c 90,8d 23,9c 37,3de 
N2 17,5c 240c 90,7d 24,0c 43,0bc 
TB 10,7C 199A 88,3D 23,8C 27,7B 
Ghi chú: Trong cùng một cột số liệu, các giá trị mang cùng chữ thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa, và 
ngược lại theo tiêu chuẩn Tukey ở mức ý nghĩa α=0,05 
Tăng mức đạm bón từ N1 đến N2 không làm ảnh hưởng đến số hạt/bông, tỷ 
lệ hạt chắc và khối lượng 1000 hạt. Số hạt/bông của DCG66 đạt cao nhất tương 
ứng 307 và 278 hạt/bông ở mức đạm bón N2 và N1 tương ứng, cao hơn có ý 
nghĩa so với IAS66 và bố mẹ. ASO có số hạt/bông đạt thấp nhất với 96 và 91 
hạt/bông tương ứng ở mức đạm N2 và N1 (Bảng 4.21). DCG66 cũng có tỷ lệ hạt 
chắc đạt cao nhất ở tất cả các mức đạm bón, tuy nhiên khối lượng 1000 hạt của 
DCG66 lại đạt thấp nhất với 19,7; 20 và 20,1g tương ứng với mức đạm N0, N1 
và N2 tương ứng (Bảng 4.21). 
 84 
Có sự biến động lớn về năng suất hạt giữa các dòng, giống khi tăng mức 
đạm bón. Khi không bón đạm N0 thì năng suất hạt của các dòng giống không có 
sự khác nhau, đạt 30; 2,9; 2,8 và 2,4 g/cây tương ứng với DCG66, IAS66, IR24 
và ASO (Bảng 4.21). Khi tăng lên mức đạm bón trung bình N1, năng suất của 
DCG66 đạt cao nhất 50,4 g/cây, sai khác không có ý nghĩa so với dòng IAS66 ở 
mức đạm bón cao 47,9 g/cây. Khi tăng lên mức đạm bón cao N2 thì năng suất 
của dòng DCG66 giảm, sai khác không có ý nghĩa so với dòng IAS66 và IR24 ở 
cùng mức đạm cao N2. Ở IAS66, ASO và IR24 khi tăng mức đạm bón từ N1 đến 
N2 thì năng suất đều có xu thế tăng, ngoại trừ DCG66 thì năng suất lại có xu thế 
giảm. Điều này rất có ý nghĩa trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng đạm của 
giống, góp phần giảm chi phí sản xuất và bảo vệ môi trường. 
4.2.2.5. Tương quan giữa một số chỉ tiêu sinh lý với năng suất cá thể của các 
dòng lúa triển vọng và dòng bố mẹ 
Có sự tương quan chặt giữa cường độ quang hợp giai đoạn trỗ với năng suất 
hạt ở tất cả các dòng, giống với hệ số tương quan r = 0,45** (Hình 4.16A), giữa 
khối lượng chất khô với năng suất hạt với hệ số tương quan r = 0,98** (hình 
4.16B) và giữa tăng lượng carbohydrate không cấu trúc ở bông và năng suất cá 
thể với hệ số tương quan r = 0,99** (Hình 4.16C). Điều này chứng tỏ tầm quan 
trọng của cường độ quang hợp sau trỗ, khối lượng chất khô và vận chuyển NSC 
về bông đóng góp cao vào năng suất hạt của các dòng, giống nghiên cứu ở giai 
đoạn chín dưới các mức đạm bón. 
 85 
Ghi chú: *, ** biểu thị tương quan thuận ở mức ý nghĩa 0,05 và 0,01 tương ứng 
Hình 4.16. Tương quan giữa cường độ quang hợp giai đoạn trỗ với năng suất cá thể 
(A), giữa khối lượng chất khô giai đoạn trỗ với năng suất cá thể (B), giữa tăng lượng 
carbohydrate không cấu trúc ở bông với năng suất cá thể (C) của giống DCG66 (kẻ), 
IAS66 (đặc đen), Asominori (trắng) và IR24 (chấm) dưới mức đạm N0 
(hình vuông �), N1 (hình tròn О) và N2 (hình tam giác Δ). 
 86 
Từ kết quả thí nghiệm quang hợp cũng cho thấy, dòng lúa mới DCG66 
chọn lọc do lai giữa IR24 và Asominori cho năng suất cá thể đạt cao nhất dưới 
mức đạm bón trung bình, điều này là do cường độ quang hợp cao ở giai đoạn 
trước trỗ, tích lũy NSC trong thân và bẹ lá trước trỗ cao, vận chuyển NSC về 
bông giai đoạn chín cao là cơ sở dẫn tới tỷ lệ hạt chắc cao và năng suất cao của 
giống lúa mới này, trong khi dòng IAS66 nhập nội thì năng suất cá thể cao ở mức 
bón đạm cao N2 là kết quả của quang hợp cao giai đoạn trỗ và vận chuyển NSC 
về bông cao ở giai đoạn chín dưới mức đạm bón cao. 
4.3. BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CANH TÁC CHO 
DÒNG LÚA MỚI DCG66 
4.3.1. Ảnh hưởng của các mức phân bón và mật độ cấy tới thời gian sinh 
trưởng của dòng lúa mới 
Kết quả thí nghiệm hình thái, giải phẫu và quang hợp của hai dòng lúa 
triển vọng DCG66 và IAS66 cho thấy dòng lúa DCG66 có nhiều điểm vượt trội 
như số hạt/bông lớn, năng suất cá thể cao và hiệu quả sử dụng đạm nông học ở 
mức bón đạm trung bình so với IAS66. Từ đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
các biện pháp kỹ thuật canh tác cho dòng lúa tốt nhất này so với giống Khang 
dân 18 – một giống đang được trồng phổ biến ngoài sản xuất. 
Khi tăng mức tổ hợp phân bón thì thời gian sinh trưởng của dòng lúa mới 
ở vụ mùa không có sự sai khác nhưng vụ xuân có sự sai khác, tuy nhiên mức 
chênh lệch không đáng kể (2-3 ngày) (Hình 4.17). Khi giảm mật độ cấy từ M1 
(50 khóm/m2) xuống M3 (33 khóm/m2) thì thời gian sinh trưởng của dòng lúa 
mới và KD18 không có sự sai khác ở cả hai vụ. Ở vụ mùa 2017 thời gian sinh 
trưởng của DCG66 tương đương KD18, nhưng ở vụ xuân 2018 thời gian sinh 
trưởng của DCG66 ngắn hơn KD18 khoảng 4-5 ngày do KD18 chịu rét kém ở 
thời tiết lạnh đầu vụ xuân nên sau cấy mất thời gian để phục hồi so với DCG66. 
Tổ hợp PB1M1 của cả 2 dòng giống ở vụ xuân có thời gian sinh trưởng ngắn hơn 
so với tổ hợp công thức PB3M3. 
 87 
Ghi chú: Các cột mang chữ cái cùng tên là sai khác không có ý nghĩa theo tiêu chuẩn LSD ở mức ý nghĩa α = 0,05 
M1, M2 và M3 tương ứng với mật độ cấy 50, 40 và 33 khóm/m2 
PB1, PB2 và PB3 tương ứng với mức tổ hợp phân bón 

File đính kèm:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_dac_diem_nong_sinh_hoc_cua_mot_so_dong_lu.pdf
  • pdfKHCT - TTLA - Nguyen Hong Hanh.pdf
  • docTTT - Nguyen Hong Hanh.doc
  • pdfTTT - Nguyen Hong Hanh.pdf